Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Nhu cầu phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp việt nam trong thực tiễn và vấn đề đặt ra cho hoạt động xây dựng pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ PHÚC

NHU CẦU PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU BẰNG NGOẠI TỆ CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ
ĐẶT RA CHO HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ PHÚC

NHU CẦU PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU BẰNG NGOẠI TỆ CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ
ĐẶT RA CHO HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Kinh tế


Mã số.
: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thị Ánh Vân

HÀ NỘI – NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực, có nguồn gốc rõ ràng được trích dẫn đúng theo
quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.

Tác giả Luận văn

Nguyễn Thị Phúc


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài luận văn Thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh sự
nỗ lực cố gắng của bản thân, tác giả đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS. TS. Nguyễn Thị Ánh Vân – người hướng dẫn khoa học – bằng tâm huyết
của người thầy đã hết lòng giúp đỡ, chỉ bảo, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện
cho tác giả hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến Quý Thầy, Cô trong Khoa Kinh tế và
Khoa sau đại học đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian nghiên

cứu, học tập chương trình thạc sĩ.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã hỗ
trợ và giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian học tập và trong quá trình thực hiện
đề tài luận văn này.
Hà Nội, ngày 18 tháng 09 năm
2018
Học viên

Nguyễn Thị Phúc


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................... 7
Chƣơng 1 ................................................................................................................... 7
NHU CẦU PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU TRONG NƢỚC BẰNG NGOẠI TỆ
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM.............................................................. 7
1.1. Khái quát về trái phiếu doanh nghiệp và phát hành trái phiếu doanh
nghiệp bằng ngoại tệ ............................................................................................. 7
1.1.1. Trái phiếu doanh nghiệp ............................................................................ 7
1.1.2. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp bằng ngoại tệ .................................... 11
1.2. Nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp Việt Nam và sự
cần thiết của việc phát hành trái ở trong nƣớc bằng ngoại tệ bởi các doanh
nghiệp này............................................................................................................ 14
1.2.1. Nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp Việt Nam ........... 14
1.2.2. Sự cần thiết của việc phát hành trái phiếu ở trong nước bằng ngoại tệ của
các doanh nghiệp Việt Nam .............................................................................. 20
KẾT LUẬN CHƢƠNG I......................................................................................... 30
Chƣơng 2 ................................................................................................................. 31
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÁT HÀNH

TRÁI PHIẾU TRONG NƢỚC BẰNG NGOẠI TỆ CỦA DOANH NGHIỆP ..... 31
2.1. Thực trạng các “rào cản” của pháp luật đối với việc doanh nghiệp phát
hành trái phiếu trong nƣớc bằng ngoại tệ nói riêng và vay vốn bằng ngoại tệ
ở trong nƣớc nói chung ...................................................................................... 31
2.1.1. Thiếu cơ sở pháp lý để doanh nghiệp phát hành trái phiếu trong nước
bằng ngoại tệ ...................................................................................................... 31
2.1.2. Hạn chế vay ngoại tệ từ tổ chức tín dụng ................................................ 34
2.2. Thực trạng chính sách chống “Đô la hoá” nền kinh tế: cội nguồn của các
rào cản pháp luật đối với việc huy động vốn bằng ngoại tệ của các DN ....... 38
2.2.1. Khái quát về “Đô la hoá” nền kinh tế ...................................................... 38
2.2.2. Thực tiễn chính sách chống "Đô la hoá" nền kinh tế của một số nước trên
thế giới và của Việt Nam ................................................................................... 42
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 49
Chƣơng 3 ................................................................................................................. 50
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ
PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU TRONG NƢỚC BẰNG NGOẠI TỆ ...................... 50
3.1. Bài học kinh nghiệm về xây dựng và áp dụng chính sách chống Đô la
hoá nền kinh tế .................................................................................................... 50


3.2. Đề xuất đổi mới chính sách chống Đô la hoá nền kinh tế của Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nƣớc trong giai đoạn hiện nay . 52
3.3. Kiến nghị thừa nhận việc phát hành trái phiếu trong nƣớc bằng ngoại tệ
nhằm thể chế hoá chính sách mới của Việt Nam về chống Đô la hoá nền kinh
tế ........................................................................................................................... 57
3.3.1. Đối tượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp bằng ngoại tệ .................. 57
3.3.2. Mục đích phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ .......................................... 59
3.3.3. Loại trái phiếu được phép phát hành ....................................................... 61
3.3.4. Đồng tiền phát hành và thanh toán trái phiếu .......................................... 63
3.3.5. Mệnh giá trái phiếu .................................................................................. 63

3.3.6. Lãi suất của trái phiếu doanh nghiệp bằng ngoại tệ ................................ 64
3.3.7. Phương thức phát hành và thẩm quyền thông qua phương án phát hành
trái phiếu ............................................................................................................ 65
3.3.8. Đối tượng được mua trái phiếu doanh nghiệp bằng ngoại tệ .................. 66
3.3.9. Chuyển nhượng trái phiếu ngoại tệ ......................................................... 67
3.3.10. Cơ quan quản lý phát hành trái phiếu ngoại tệ ...................................... 68
3.3.11. Các vấn đề khác liên quan ..................................................................... 68
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................ 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 70


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng trong những năm gần đây đã mang lại
nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia các hoạt động kinh doanh và
mở rộng quan hệ với các đối tác, nhà đầu tư nước ngoài. Tạo thêm cơ hội kinh doanh
cho doanh nghiệp, quá trình hội nhập cũng làm nảy sinh thêm nhu cầu về vốn tại các
doanh nghiệp Việt Nam ở mọi ngành, mọi lĩnh vực. Đảng, Chính phủ cũng đã có
những chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận với các nguồn vốn
khác nhau trong xã hội thông qua các kênh huy động vốn từ các tổ chức tín dụng, các
tổ chức phi chính phủ, giữa các doanh nghiệp với nhau và thậm chí doanh nghiệp
được phép vay vốn của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Nhưng thực tế cho thấy, các
nguồn huy động vốn nói trên vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của
các doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp luôn tìm kiếm các kênh huy động vốn
nói chung và vốn bằng ngoại tệ nói riêng. Tại thời điểm này, một trong những kênh
huy động vốn bằng ngoại tệ được coi là tiềm năng và hiệu quả mà các doanh nghiệp
trong nước có thể khai thác đó là việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nước
bằng ngoại tệ, tuy nhiên, tới nay, pháp luật Việt Nam chưa cho phép doanh nghiệp

phát hành trái phiếu trong nước bằng ngoại tệ.
Trước nhu cầu vốn lớn như hiện nay, việc pháp luật chỉ cho phép doanh
nghiệp huy động vốn trong nước bằng đồng Việt Nam sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí
vì một lượng ngoại tệ lớn (chủ yếu là Đô la Mỹ) nằm trong cư dân không đưa vào
lưu thông. Sự lãng phí này không chỉ đối với chính người dân (vì tiền nhàn rỗi không
có điều kiện để sinh lời) mà còn lãng phí với các doanh nghiệp, với Nhà nước và với
cả nền kinh tế (vì không thể khai thác khoản tiền nhàn rỗi đó phục vụ cho sản xuất,
kinh doanh; xây dựng và phát triển nền kinh tế nhằm đem lại sự thịnh vượng cho đất
nước) và lượng ngoại tệ này có thể coi là “tiền chết”.
Vì vậy, việc cho phép phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nước bằng
ngoại tệ hiện nay là cần thiết vì không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho các
doanh nghiệp Việt Nam, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có đủ tiềm lực tài
chính để nắm bắt các cơ hội kinh doanh mà còn khai thác được khoản ngoại tệ nhàn
rỗi trong nước, phục vụ cho việc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Tuy nhiên tới
nay, cơ sở pháp lý để doanh nghiệp phát hành trái phiếu trong nước bằng ngoại tệ
vẫn chưa được thiết lập và khoảng trống này là một “rào cản” rất lớn đối với các
doanh nghiệp trong quá trình huy động vốn nói chung và huy động vốn bằng ngoại tệ


2
nói riêng. Hậu quả là, doanh nghiệp cần ngoại tệ nhưng không thể huy động, trong
khi người có ngoại tệ lại không thể cho doanh nghiệp vay để hưởng lãi.
Với tất cả tâm huyết, sự trăn trở về thực trạng nêu trên, việc lựa chọn đề tài
nghiên cứu “Nhu cầu phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp
Việt Nam trong thực tiễn và vấn đề đặt ra cho hoạt động xây dựng pháp luật” làm
Luận văn tốt nghiệp ở bậc đào tạo thạc sỹ là cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn to lớn
không chỉ đối với các doanh nghiệp cần vốn và các chủ có ngoại tệ nhàn rồi mà còn
đối với toàn bộ nền kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan tới đề tài
Việc thu thập, phân tích, đánh giá nguồn tài liệu tham khảo trong nước cho

thấy đã có một số tác giả có các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết, bài
báo về một hoặc một số vấn đề có liên quan đến nội dung của đề tài Luận văn. Một
số công trình nghiên cứu đáng chú ý như sau:
-

Luận án Tiến sĩ kinh tế “Huy động vốn thông qua trái phiếu doanh nghiệp cho
đầu tư tăng trưởng của doanh nghiệp ở Việt Nam” năm 2014 của tác giả Bạch
Thị Thanh Hà – Học viện Tài chính;

-

Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật phát hành trái phiếu của Ngân hàng thương mại ở
Việt Nam” năm 2013 của tác giả Nguyễn Thị Huế - Khoa Luật Đại học Quốc

-

-

-

gia;
Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về phát hành trái phiếu của công ty cổ phần đại
chúng tại Việt Nam” năm 2015 của tác giả Trần Thanh Ngọc - Khoa Luật Đại
học Quốc gia;
Luận văn Thạc sĩ “Phát triển cho vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp xuất nhập
khẩu tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Quy Nhơn”
năm 2014 của tác giả Bùi Thuý Trang.
Luận án Tiến sĩ “Hiện tượng đô la hoá và tác động của nó đến nền kinh tế Việt
Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn –
Trường Đại học ngoại thương.


Các công trình khoa học trên đã nghiên cứu tương đối sâu và đầy đủ về vấn đề
cho vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu, vấn đề về phát hành trái
phiếu doanh nghiệp để tăng quy mô vốn của doanh nghiệp, vấn đề về phát hành trái
phiếu của ngân hàng thương mại, vấn đề về đô la hoá nền kinh tế và những ảnh
hưởng của đô la hoá đối với nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có một công
trình khoa học nào nghiên cứu về nhu cầu phát hành trái phiếu trong nước bằng


3
ngoại tệ của các doanh nghiệp Việt Nam để từ đó xây dựng khuôn khổ pháp lý cơ
bản cho việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nước bằng ngoại tệ. Do đó, có
thể khẳng định đề tài luận văn này sẽ nghiên cứu và giải quyết một vấn đề mới, chưa
được khai thác trước đây.
3. Về đối tƣợng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu và làm rõ các vấn đề sau:


Nghiên cứu để làm sáng tỏ thực trạng và nhu cầu huy động vốn nói chung và
huy động vốn bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng ở thời
điểm hiện tại;



Nghiên cứu để làm rõ khái niệm Đô la hoá nền kinh tế và mục tiêu của chính
sách Đô la hoá nền kinh tế;



Nghiên cứu để chỉ ra rằng chính sách Đô la hoá nền kinh tế cần được vận dụng

một cách mềm dẻo, căn cứ vào yêu cầu phát triển nền kinh tế trong từng giai
đoạn lịch sử của đất nước;



Nghiên cứu để chứng minh rằng huy động vốn trong nước bằng ngoại tệ của
doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay là cần thiết và sẽ đem lại nhiều lợi ích
cho nền kinh tế hơn là những thiệt hại mà Đô la hoá nền kinh tế có thể gây ra
trong giai đoạn hiện nay;



Nghiên cứu để tìm ra khuôn khổ pháp lý cơ bản (một số vấn đề pháp lý trọng
yếu) điều chỉnh việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nước bằng ngoại
tệ.

4. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu: Do hiện tại, pháp luật đã cho phép các doanh
nghiệp trong nước được phát hành trái phiếu quốc tế để huy động vốn bằng ngoại tệ
từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài nên Luận văn này sẽ không nghiên cứu vấn đề
phát hành trái phiếu quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam. Luận văn sẽ chỉ giới hạn
phạm vi nghiên cứu trong việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nước bằng
ngoại tệ. Vì vậy, tất cả các cụm từ và thuật ngữ được sử dụng trong Luận văn này
liên quan đến trái phiếu chỉ nhằm phản ánh và hướng đến việc phát hành trái phiếu
doanh nghiệp trong nước bằng ngoại tệ.
Về không gian nghiên cứu: Luận văn tiến hành nghiên cứu ở trong nước
và trên thế giới để làm sáng tỏ các đối tượng nghiên cứu. Đối với các vấn đề về
thực trạng nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ, đề xuất về cơ sở pháp lý để doanh nghiệp
được phép phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ được tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá



4
các thông tin, chính sách của Nhà nước, các quy định pháp luật trong nước liên
quan. Đối với các nội dung liên quan đến Đô la hoá, kinh nghiệm của các nước về
chính sách chống Đô la hoá nền kinh tế thì Luận văn tiếp cận và tiến hành nghiên
cứu vấn đề này ở cả phạm vi ngoài Việt Nam thông qua việc tham khảo các công
trình nghiên cứu khoa học, các ấn phẩm, các bài báo, tư liệu lịch sử và quan điểm
có liên quan của một số học giả nước ngoài.
Về thời gian nghiên cứu: Một vấn đề được phản ánh toàn diện nhất khi
có góc nhìn từ quá khứ tới hiện tại và tương lai. Trên nguyên tắc này, các vấn đề
trình bày, phân tích trong Luận văn được nghiên cứu trong quá khứ, đánh giá thực
trạng ở hiện tại và dự báo diễn biến ở tương lai để đảm bảo mỗi nội dung được
phân tích, mỗi đề xuất được nêu ra dựa trên góc nhìn tổng thể, toàn diện.
5. Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn:
Luận văn nghiên cứu nhằm đạt được một số mục đích sau:


Chứng minh thực trạng thiếu vốn ngoại tệ của các doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay và chỉ ra chính sách Đô la hoá nền kinh tế là “rào cản” lớn nhất và là “cội
nguồn” của việc vì sao doanh nghiệp trong nước không được phát hành trái
phiếu trong nước bằng ngoại tệ.



Chứng minh chính sách Đô la hoá nền kinh tế cần phải được áp dụng một cách
khôn ngoan, linh hoạt để mang lại lợi ích cho nền kinh tế dựa trên một số kinh
nghiệm của các nước trên thế giới.




Đề xuất một số vấn đề trọng yếu trong hoạt động xây dựng pháp luật nhằm tạo
cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu trong nước bằng ngoại
tệ.
6. Câu hỏi nghiên cứu của Luận văn:

Để đạt được các mục tiêu trên, Luận văn sẽ tập trung làm sáng tỏ một số câu hỏi
cơ bản sau đây:


Thực trạng huy động vốn nói chung và huy động vốn bằng ngoại tệ của các
doanh nghiệp Việt Nam hiện tại như thế nào?



Có hay không trên thực tế nhu cầu phát hành trái phiếu trong nước bằng ngoại tệ
để huy động vốn phục vụ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp?



Đô la hoá nền kinh tế là gì?



Chính sách chống Đô la hóa nền kinh tế của Việt Nam có đem lại lợi ích cho nền
kinh tế trong giai đoạn hiện nay?


5



Bài học nào từ thực tiễn thi hành chính sách chống Đô la hoá nền kinh tế ở các
nước trên thế giới?



Liệu có phải là đề xuất hợp lý khi cho phép doanh nghiệp Việt Nam phát hành
trái phiếu trong nước bằng ngoại tệ?



Cần xây dựng khuôn khổ pháp lý như thế nào để chỉnh việc phát hành trái phiếu
doanh nghiệp trong nước bằng ngoại tệ?
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, mô tả,

so sánh để chỉ ra thực trạng, đánh giá nhu cầu vay vốn ngoại tệ thực tế của doanh
nghiệp; sử dụng phương pháp suy luận, tổng hợp để chỉ ra vai trò, sự cần thiết của
việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nước bằng ngoại tệ; sử dụng phương
pháp so sánh, đánh giá để thấy được kinh nghiệm áp dụng chính sách chống Đô la
hoá nền kinh tế của một số nước trên thế giới, từ đó vận dụng các bài học kinh
nghiệm trong việc điều chỉnh chính sách chống Đô la hoá tại Việt Nam một cách phù
hợp và đề xuất xây dựng khuôn khổ pháp lý cơ bản điều chỉnh việc phát hành trái
phiếu doanh nghiệp bằng ngoại tệ.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn


Ý nghĩa khoa học: Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên và đề
cập một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận về nhu cầu phát
hành trái phiếu bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp Việt Nam trong thực tiễn và
đưa ra khuôn khổ pháp lý cơ bản để doanh nghiệp phát hành trái phiếu bằng

ngoại tệ ở trong nước.



Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về thực
trạng thiếu vốn bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các
doanh nghiệp đặc thù như doanh nghiệp Nhà nước. Đồng thời, Luận văn đã chỉ
ra những rào cản của pháp luật đối với việc phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ ở
trong nước, từ đó, đưa ra giải pháp để giải quyết tình trạng nêu trên thông qua
việc kiến nghị khuôn khổ pháp lý cơ bản để doanh nghiệp phát hành trái phiếu
bằng ngoại tệ ở trong nước.
9. Về bố cục của Luận văn:

Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, Luận văn được kết cấu thành 3
chương:


6


Chương 1: NHU CẦU PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU TRONG NƯỚC BẰNG
NGOẠI TỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM



Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC RÀO CẢN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP
LUẬT CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU TRONG
NƯỚC BẰNG NGOẠI TỆ




Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG
PHÁP LUẬT VỀ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU TRONG NƯỚC BẰNG
NGOẠI TỆ


7

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1
NHU CẦU PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU TRONG NƢỚC BẰNG
NGOẠI TỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1.1. Khái quát về trái phiếu doanh nghiệp và phát hành trái phiếu doanh
nghiệp bằng ngoại tệ
1.1.1. Trái phiếu doanh nghiệp
Theo nghĩa kinh tế, có thể hiểu: trái phiếu là công cụ xác nhận quan hệ hợp
đồng giữa bên vay (bên phát hành trái phiếu) và bên cho vay (chủ sở hữu trái phiếu)
được định rõ trên trái phiếu. Bên phát hành (có thể là công ty, chính phủ trung ương
hoặc chính quyền địa phương) cam kết hoàn trả tiền gốc (là giá trị danh nghĩa của
trái phiếu) cho bên sở hữu trái phiếu vào một ngày xác định (ngày đáo hạn) cũng như
một khoản tiền lãi cố định trong suốt thời gian trái phiếu chưa đến hạn.1
Theo định nghĩa trên thì trái phiếu thực chất là một sự thỏa thuận vay vốn giữa
hai chủ thể, là chứng từ xác nhận khoản nợ giữa bên phát hành (bên vay) và bên mua
trái phiếu (bên cho vay). Bên vay có thể là doanh nghiệp hoặc Chính phủ trung ương
hoặc địa phương. Bên cho vay rất rộng, có thể là bất cứ tổ chức, cá nhân, các nhà đầu
tư tài chính có tiền nhàn rỗi và có nhu cầu mua trái phiếu của người phát hành để
hưởng lãi trái phiếu trong thời hạn đã thoả thuận. Khoản nợ nêu trên phát sinh khi
bên phát hành bán trái phiếu cho bên mua trái phiếu để huy động vốn, phục vụ hoạt
động kinh doanh hoặc nhằm đáp ứng các nhu cầu hợp pháp khác của bên vay. Để có

khoản tiền vốn này, bên phát hành phải cam kết với bên mua trái phiếu về việc sẽ trả
cho bên mua tiền lãi đã ghi trên trái phiếu trong thời hạn của trái phiếu và phải hoàn
trả phần nợ gốc vào ngày đáo hạn toàn bộ của trái phiếu.
Thời hạn trả tiền lãi và nợ gốc không nhất thiết phải khác nhau mà tùy
thuộc vào sự cam kết của bên vay. Tiền nợ gốc thường được cam kết hoàn trả vào
cuối kỳ, khi trái phiếu đáo hạn, tuy nhiên, tiền lãi có thể trả định kỳ hay cuối kỳ theo
sự lựa chọn của bên phát hành. Trong nhiều trường hợp, bên phát hành cam kết trả
lãi cuối kỳ, tức thanh toán tiền lãi cho bên mua cùng thời điểm với việc trả nợ gốc
khi trái phiếu đáo hạn. Nghĩa vụ của bên phát hành là cam kết chắc chắn về mức lãi,
kỳ hạn trả lãi, các yếu tố ảnh hưởng đến lãi (nếu có) mà bên mua trái phiếu được
1

Xem truy cập ngày 05/08/2018


8
hưởng và thời hạn hoàn trả tiền nợ gốc trước khi chào bán trái phiếu. Trên cơ sở
nghĩa vụ của bên phát hành, bên sở hữu trái phiếu chắc chắn được hưởng một khoản
lãi trái phiếu mà bên phát hành đã cam kết định kỳ hoặc cuối kỳ (thường được ghi
sẵn trên trái phiếu) và được hoàn trả toàn bộ số nợ gốc vào ngày đáo hạn của trái
phiếu. Đây được coi là quyền lợi thuần tuý về mặt kinh tế của người sở hữu trái
phiếu.
Như vậy, dưới góc độ kinh tế, có thể hiểu trái phiếu là chứng từ nhận nợ, theo
đó bên phát hành cam kết trả cho bên mua trái phiếu tiền lãi theo thời hạn định trước
và tiền gốc khi trái phiếu đáo hạn để nhận được một khoản tiền nhất định, đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của mình.
Theo nghĩa pháp lý, “Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi
ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành”.2
Trong khái niệm này, trước hết, trái phiếu là một loại chứng khoán nhưng bản thân
chứng khoán cũng bao gồm nhiều loại như: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, hợp

đồng đầu tư… Tuy nhiên, trái phiếu khác với các loại chứng khoán khác ở chỗ trái
phiếu là bằng chứng xác nhận nợ của tổ chức phát hành đối với người sở hữu trái
phiếu. Tổ chức phát hành trái phiếu là các tổ chức được phép theo quy định của pháp
luật như Chính phủ, doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn để thực hiện các mục
đích của mình (ví dụ: chính phủ phát hành trái phiếu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
nhà nước, thường trong tình huống bội chi ngân sách nhà nước; doanh nghiệp phát
hành trái phiếu khi cần vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh…). Người sở hữu trái phiếu
là cá nhân, tổ chức, các nhà đầu tư đã bỏ một khoản tiền để mua trái phiếu của tổ
chức phát hành. Quyền của người sở hữu trái phiếu phát sinh đối với một phần vốn
nợ của tổ chức phát hành được lượng hóa bằng tích số của mệnh giá trái phiếu và số
trái phiếu mà họ sở hữu, bao gồm quyền được hưởng lãi suất theo thoả thuận trong
một thời hạn nhất định và được hoàn trả toàn bộ tiền gốc trái phiếu vào ngày đáo
hạn. Cũng theo khái niệm trên, phần vốn nợ chính là số tiền mà người mua bỏ ra để
mua trái phiếu của tổ chức phát hành. Vì sở hữu một phần vốn nợ của tổ chức phát
hành nên quyền lợi của người sở hữu trái phiếu có nhiều điểm khác so với quyền của
người sở hữu cổ phiếu.
Người sở hữu trái phiếu biết trước kỳ trả lãi, thời hạn hoàn trả tiền nợ gốc và
việc trả cả gốc và lãi là nghĩa vụ bắt buộc của tổ chức phát hành, không phụ thuộc
vào kết quả kinh doanh. Trong khi đó, người sở hữu cổ phiếu không có quyền yêu
cầu công ty phát hành thanh toán vốn gốc trừ những trường hợp luật định (khi cổ
2

Khoản 3 Điều 6 Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 (được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 62/2010/QH12).


9
đông phản đối nghị quyết của công ty có nguy cơ đe dọa nghiêm trọng tới quyền lợi
của mình); và việc trả cổ tức phải phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của tổ
chức phát hành. Bên cạnh đó, vì sở hữu một phần vốn nợ của doanh nghiệp, khác với
cổ đông là đồng sở hữu chủ của công ty, người sở hữu trái phiếu chỉ là chủ nợ của tổ

chức phát hành, họ không có quyền tham dự đại hội cổ đông để biểu quyết về các
vấn đề đưa vào chương trình nghị sự của tổ chức phát hành (trừ trái phiếu chuyển đổi
do công ty cổ phần phát hành nhưng ngay cả trường hợp này, chủ sở hữu trái phiếu
cũng chỉ được hưởng quyền của cổ đông kể từ ngày trái phiếu được chính thức
chuyển thành cổ phiếu phổ thông).
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, trái phiếu là một loại chứng khoán nợ, xác nhận
quyền lợi của người sở hữu trái phiếu đối với khoản tiền đã bỏ ra để mua trái phiếu
từ tổ chức phát hành.
Trái phiếu doanh nghiệp, có thể hiểu là loại chứng khoán nợ do doanh
nghiệp chứ không phải chính phủ phát hành. Trái phiếu doanh nghiệp là phương tiện
chủ yếu để các doanh nghiệp huy động vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình.
Khác với trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có độ rủi ro nhất định và mức
độ rủi ro hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ tín nhiệm của công ty phát hành.3 Nói đến
mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp là nói đến khả năng hoàn trả tiền vay cả gốc và
lãi của doanh nghiệp. Nói cách khác, là tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài
chính của doanh nghiệp sẽ quyết định mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp.
Nghị định số 90/2011/NĐ-CP (Về phát hành trái phiếu doanh nghiệp)
định nghĩa: “Trái phiếu doanh nghiệp là loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát
hành, xác nhận nghĩa vụ trả gốc, lãi và các nghĩa vụ khác (nếu có) của doanh nghiệp
đối với chủ sở hữu trái phiếu”.
Như vậy, trái phiếu doanh nghiệp là loại chứng khoán nợ nhưng khác với các
loại trái phiếu khác, bên phát hành trái phiếu luôn là doanh nghiệp. Tuy nhiên không
phải mọi doanh nghiệp đều được phát hành trái phiếu và doanh nghiệp cũng không
hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn loại trái phiếu sẽ phát hành mà phải tuân thủ
những giới hạn của pháp luật. Cụ thể, chỉ công ty cổ phần và công ty trách nhiệm
hữu hạn được thành lập và hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt
Nam mới được phép phát hành trái phiếu. Hơn nữa, tùy thuộc vào bản chất của việc
phát hành trái phiếu là phát hành riêng lẻ hay phát hành ra công chúng mà doanh
nghiệp phát hành phải thỏa mãn một số điều kiện luật định khác. Bên cạnh đó, các
loại trái phiếu mà doanh nghiệp được phép phát hành cũng được pháp luật định sẵn,

3

Xem truy cập ngày 05/08/2018


10
bao gồm: trái phiếu không chuyển đổi, trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu có bảo đảm,
trái phiếu không có bảo đảm, trái phiếu kèm theo chứng quyền hoặc trái phiếu không
kèm theo chứng quyền. Trong đó chỉ có công ty cổ phần được phép phát hành trái
phiếu chuyển đổi (có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của doanh nghiệp
phát hành).
Người sở hữu trái phiếu là người bỏ một khoản tiền mua trái phiếu của doanh
nghiệp phát hành và đối tượng này được pháp luật thừa nhận tương đối rộng bao
gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài. Các quyền và lợi ích
mà người sở hữu trái phiếu được hưởng đó là hưởng lãi, nhận nợ gốc và một số
quyền khác phát sinh từ việc sở hữu trái phiếu của doanh nghiệp phát hành. Điều dễ
nhận thấy là các quyền lợi này đều được xác định trước, được ghi nhận trên trái
phiếu hoặc trong phương án phát hành mà người mua trái phiếu được biết trước khi
quyết định mua. Theo đó, xét ở góc độ pháp lý, đây là quyền và lợi ích được định sẵn
theo thoả thuận giữa người sở hữu trái phiếu và doanh nghiệp phát hành.
Một số loại trái phiếu mà doanh nghiệp được phép phát hành theo Nghị định số
90/2011/NĐ-CP bao gồm (i) Trái phiếu không chuyển đổi có bảo đảm hoặc không
có bảo đảm, trái phiếu kèm theo chứng quyền hoặc không kèm theo chứng quyền (ii)
Trái phiếu chuyển đổi có bảo đảm hoặc không có bảo đảm, trái phiếu kèm theo
chứng quyền hoặc không kèm theo chứng quyền. Các loại trái phiếu này quyết định
chủ thể được phép phát hành là công ty cổ phần hay công ty TNHH và đem lại các
quyền và lợi ích khác nhau cho chủ sở hữu trái phiếu. Tuy nhiên, các loại trái phiếu
này đều có một số đặc điểm chung như sau:
Mệnh giá trái phiếu (hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu): là giá trị
được ghi trên trái phiếu. Giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là

một trong những căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà doanh nghiệp phát hành
phải trả cho chủ sở hữu trái phiếu. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền doanh nghiệp phát
hành phải hoàn trả cho bên mua khi trái phiếu đến hạn.
Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất được ghi trên trái phiếu hoặc được công bố bởi
doanh nghiệp phát hành. Lãi suất này được xác định trên cơ sở một tỷ lệ phần trăm
(%) nhất định trên mệnh giá trái phiếu mà doanh nghiệp phát hành trả cho người sở
hữu trái phiếu vào các kỳ trả lãi theo các điều kiện của trái phiếu.
Kỳ hạn trái phiếu: là khoảng thời gian tính từ ngày phát hành đến ngày đáo hạn
trái phiếu. Ngày đáo hạn là ngày mà khoản vốn gốc của trái phiếu được thanh toán


11
toàn bộ. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, thông thường trái phiếu có thời hạn từ 1
đến 5 năm, trái phiếu dài hạn có thời gian từ 5 năm trở lên.
Kỳ trả lãi: là khoảng thời gian doanh nghiệp phát hành trả lãi cho người sở hữu
trái phiếu. Theo đó, lãi suất có thể được xác định theo năm nhưng việc thanh toán lãi
suất trái phiếu được thực hiện mỗi năm 1 hoặc 2 lần, tùy theo điều kiện đã xác định
trước.
Như vậy, trái phiếu doanh nghiệp là một loại chứng khoán được doanh nghiệp
phát hành với mục đích huy động vốn tạm thời nhàn rỗi của tổ chức, cá nhân để bổ
sung vốn kinh doanh cho doanh nghiệp. Để phát hành trái phiếu, doanh nghiệp phát
hành không những phải thỏa mãn các điều kiện luật định mà còn phải tuân thủ các
quy định của pháp luật trước, trong và sau khi phát hành, đặc biệt đối với trường hợp
phát hành trái phiếu ra công chúng.
1.1.2. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp bằng ngoại tệ
1.1.2.1. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp
Trước ngày 29/06/2006, các cụm từ “phát hành trái phiếu”, “phát hành cổ
phiếu” nói riêng và “phát hành chứng khoán nói chung” đã được sử dụng rộng rãi
trong các văn bản pháp luật điều chỉnh chứng khoán và thị trường chứng khoán.4 Từ
khi Luật chứng khoán được ban hành (ngày 29/06/2006), các nhà làm luật đã thay

thế những cụm từ này bằng những cụm từ tương ứng như: “chào bán trái phiếu”,
“chào bán cổ phiếu” và “chào bán chứng khoán”. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật
hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật
Chứng khoán năm 2010 tỏ ra thiếu nhất quán trong việc sử dụng những cụm từ này.
Trong khi Nghị định 58/2012/NĐ-CP và Nghị định 60/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi
hành Luật chứng khoán và Luật chứng khoán sửa đổi sử dụng cụm từ “chào bán” đối
với các loại chứng khoán trong đó có trái phiếu thì Nghị định 90/2011/NĐ-CP (Về
phát hành trái phiếu doanh nghiệp) vẫn tiếp tục sử dụng cụm từ “phát hành trái
phiếu”. Cũng cần nói thêm rằng ngay trong Nghị định 58/2011/NĐ-CP và Nghị định
60/2015/NĐ-CP cụm từ “chào bán trái phiếu” đôi khi vẫn được sử dụng thay thế
cụm từ “phát hành trái phiếu”. Điều đó cho thấy các nhà làm luật hoặc thiếu nhất
quán trong việc sử dụng các thuật ngữ chuyên môn trong quá trình xây dựng pháp
luật; hoặc đã đồng nhất từ hai cụm từ “phát hành” và “chào bán”. Luận văn này sẽ
chính thức sử dụng cụm từ “phát hành trái phiếu” để đảm bảo phù hơp với Nghị định
90/2011/NĐ-CP, là văn bản trực tiếp điều chỉnh việc phát hành trái phiếu doanh
4

Xem Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998; Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003.


12
nghiệp (mặc dù Nghị định chỉ giới hạn phạm vi điều chỉnh trong phát hành trái phiếu
riêng lẻ trong khi Luận văn nghiên cứu cả phát hành trái phiếu ra công chúng).
Cho tới nay, chưa có văn bản pháp luật nào định nghĩa“phát hành trái phiếu”
mà chỉ quy định về chào bán chứng khoán nói chung. Ngay cả Nghị định
90/2011/NĐ-CP là văn bản trực tiếp điều chỉnh việc phát hành trái phiếu doanh
nghiệp cũng không có định nghĩa đối với loại hoạt động này của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, dựa trên các quy định hiện hành về phát hành và chào bán chứng khoán của
doanh nghiệp, có thể hiểu “phát hành trái phiếu doanh nghiệp” là toàn bộ các hoạt
động của doanh nghiệp phát hành trong quá trình xây dựng, thẩm định, phê duyệt

phương án phát hành, quyết định phương thức chào bán, đăng ký phát hành, công bố
thông tin trước khi phát hành ra công chúng, phân phối trái phiếu, báo cáo kết quả
phát hành cho cơ quan có thẩm quyền và một số các hoạt động liên quan khác trong
quá trình bán trái phiếu cho người mua.
Theo cách hiểu trên thì phát hành trái phiếu doanh nghiệp là một chuỗi các hoạt
động mà doanh nghiệp tiến hành, từ khi xây dựng phương án phát hành cho đến khi
hoàn tất việc phân phối trái phiếu tới tay người mua và cả việc báo cáo cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền về kết quả đợt phát hành. Mỗi hoạt động trong chuỗi này có vai
trò nhất định đối với một khâu của quá trình phát hành. Ví dụ, việc xây dựng phương
án phát hành thể hiện toàn bộ nội dung của đợt phát hành trong đó có các nội dung
về trái phiếu mà người mua đặc biệt quan tâm như loại trái phiếu, kỳ hạn, lãi suất trái
phiếu, nguồn vốn và kế hoạch thanh toán lãi và gốc trái phiếu. Trong khi phương
thức phát hành cũng được các nhà đầu tư chờ đợi vì sẽ quyết định đến điều kiện, thủ
tục sở hữu trái phiếu của người mua. Bên cạnh đó, việc công bố thông tin trước khi
phát hành là một thủ tục bắt buộc đối với hoạt động phát hành chứng khoán ra công
chúng thể hiện sự minh bạch của doanh nghiệp phát hành, nhằm cung cấp các thông
tin cần thiết để nhà đầu tư có quyết định đúng đắn khi đầu tư hoặc không đầu tư vào
trái phiếu của doanh nghiệp phát hành. Một hoạt động được coi là quan trọng nhất
trong quá trình phát hành đó là phân phối trái phiếu do hoạt động này có ảnh hưởng
trực tiếp tới kết quả phát hành trái phiếu của tổ chức phát hành. Tổ chức phát hành
thực hiện phân phối trái phiếu thành công đồng nghĩa với việc sẽ thu được một lượng
vốn lớn từ việc phát hành trái phiếu và ngược lại tổ chức phát hành sẽ thu được một
lượng vốn không như mong muốn nếu thực hiện phân phối trái phiếu không thành
công. Các hoạt động còn lại là những hoạt động không thể thiếu mà pháp luật yêu
cầu trong quá trình phát hành trái phiếu doanh nghiệp buộc phải đáp ứng.


13
Việc chuẩn bị đầy đủ và thực hiện tốt nhất các hoạt động này giúp cho đợt phát
hành trái phiếu của doanh nghiệp thành công và huy động được một lượng vốn mong

muốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp bằng ngoại tệ
Trên thế giới, việc phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ tương đối phổ biến và là
một phương thức huy động vốn hữu hiệu của các tập đoàn đa quốc gia. Một số trái
phiếu bằng ngoại tệ phổ biến là Eurobond, Eurodollar bond, Bulldog bond,… Ở Việt
Nam, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam được phát hành trái
phiếu ra thị trường quốc tế, được lựa chọn đồng tiền phát hành là đồng tiền của nước
mà doanh nghiệp dự kiến phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, pháp luật chưa cho phép
doanh nghiệp phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ tại thị trường trong nước. Vì vậy,
khái niệm về phát hành trái phiếu doanh nghiệp bằng ngoại tệ chưa được đề cập tại
bất kỳ văn bản pháp luật nào.
Dựa trên các quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp, về
chính sách ngoại hối của Chính phủ, và dựa vào định nghĩa phát hành trái phiếu
doanh nghiệp nói trên, có thể hiểu “Phát hành trái phiếu doanh nghiệp bằng ngoại
tệ” là “việc doanh nghiệp thực hiện các hoạt động theo quy định của pháp luật để
phát hành trái phiếu nhằm huy động vốn bằng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam”.
Các hoạt động mà pháp luật yêu cầu chính là các hoạt động mà một doanh
nghiệp phải thực hiện trong quá trình phát hành trái phiếu bao gồm việc xây dựng
phương án phát hành, chấp thuận và thực hiện các thủ tục nội bộ, thông qua phương
án phát hành, đăng ký phát hành, công bố thông tin trước phát hành, phân phối trái
phiếu, báo cáo cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và các hoạt động khác liên quan.
Mỗi hoạt động này có vai trò riêng trong quá trình phát hành trái phiếu. Việc chuẩn
bị và thực hiện tốt nhất các hoạt động này giúp cho doanh nghiệp phát hành thành
công đợt trái phiếu để huy động được một lượng ngoại tệ như mong muốn.
Đặc trưng cơ bản của phát hành trái phiếu doanh nghiệp bằng ngoại tệ so với
phát hành trái phiếu doanh nghiệp thông thường nằm ở đồng tiền sẽ huy động từ phát
hành trái phiếu. Đối với phát hành trái phiếu doanh nghiệp bằng ngoại tệ thì đồng
tiền phát hành là một đồng tiền nước ngoài, trong khi đồng tiền phát hành trái phiếu
doanh nghiệp hiện tại là đồng Việt Nam. Một số đồng ngoại tệ được coi là ngoại tệ
mạnh trên thế giới hiện nay gồm có: đồng đô la Mỹ, đồng Euro của Châu Âu, đồng

Bảng của Anh, đồng Yên của Nhật… trong đó, đô la Mỹ là đồng tiền được sử dụng
phổ biến trong các giao dịch tài chính, thương mại trên thế giới nói chung và ở Việt


14
Nam nói riêng. Vì vậy, đồng tiền này có thể sẽ là lựa chọn của đa số các doanh
nghiệp Việt Nam muốn phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ ở trong nước nếu pháp
luật cho phép.
Chủ thể phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ là doanh nghiệp Việt Nam. Tuy
nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng được phép phát hành trái phiếu bằng ngoại
tệ. Theo đó, chỉ những doanh nghiệp mà do đặc thù hoạt động sản xuất, kinh doanh
cần phải có ngoại tệ để sử dụng mới thuộc đối tượng được phát hành trái phiếu ngoại
tệ. Thông thường các doanh nghiệp có hoạt động nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, sản
xuất hàng hoá để xuất khẩu qua biên giới, thực hiện các dự án đầu tư ra nước
ngoài,…cần một lượng ngoại tệ để thanh toán, trao đổi với đối tác nước ngoài. Trong
thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay, số lượng các doanh nghiệp có các hoạt động xuất
nhập khẩu, hợp tác với các đối tác nước ngoài ngày càng nhiều dẫn tới nhu cầu cần
ngoại tệ để sử dụng vào các mục đích hợp pháp theo đó cũng trở nên cấp bách. Vì
vậy, việc phát hành trái phiếu để vay ngoại tệ từ các chủ thể có ngoại tệ nhàn rỗi sẽ
giúp cho các doanh nghiệp vay được một lượng ngoại tệ mong muốn kịp thời phục
vụ cho hoạt động kinh doanh của mình, giúp doanh nghiệp ổn định và tăng trưởng
bền vững.
1.2. Nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp Việt Nam và sự cần
thiết của việc phát hành trái ở trong nƣớc bằng ngoại tệ bởi các doanh nghiệp
này
1.2.1. Nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp Việt Nam
1.2.1.1. Vay vốn bằng ngoại tệ ở trong nước
Theo số liệu từ Uỷ ban giám sát tài chính quốc gia thì tính đến Tháng 5 năm
2018, tín dụng ước tăng 3,5% so với cuối năm 2017 (cùng kỳ 2017 tăng 4,3%).
Trong đó, tín dụng VND ước tăng 3,3%, chiếm 91,9% tổng tín dụng, tín dụng ngoại

tệ tăng 4,4% chiếm 8,1% tổng tín dụng (cuối năm 2017 là 7,9%). Tín dụng trung, dài
hạn có dấu hiệu tăng trở lại trong các tháng đầu năm 2018. Quý I năm 2018, tín dụng
trung và dài hạn tăng 4,3% trong khi tín dụng ngắn hạn tăng 2,6%. Tỷ trọng tín dụng
trung, dài hạn khoảng 53,2 (năm 2017 là 52,8%)5.
Các số liệu trên cho thấy tín dụng ngoại tệ có dấu hiệu tăng so với cùng kỳ năm
trước và tỷ lệ tín dụng ngoại tệ luôn có xu hướng tăng nhiều hơn so với tín dụng
bằng đồng Việt Nam. Đặc biệt tín dụng trung, dài hạn có dấu hiệu tăng nhiều hơn
vào những tháng đầu năm 2018 và dự báo sẽ giữ vững nhịp tăng trong những tháng
5

truy cập ngày 10/08/2018


15
cuối năm 2018. Nhu cầu vốn bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp trong nước luôn ở
mức cao đối với vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong bối cảnh thương mại quốc
tế mở rộng và việc hội nhập với kinh tế thế giới như là xu hướng tất yếu của các
doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, việc vay vốn ngoại tệ ở trong nước của doanh
nghiệp Việt Nam gặp một số khó khăn như sau:
Thứ nhất, chỉ những doanh nghiệp có hoạt động nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ,
đầu mối nhập khẩu xăng dầu và vay ngắn hạn để phục vụ sản xuất kinh doanh hàng
xuất khẩu qua biên giới mới được ngân hàng xem xét cho vay6. Việc giới hạn đối
tượng được vay đã thể hiện rất rõ chính sách thắt chặt cho vay ngoại tệ đối với các
doanh nghiệp trong nước. Điều này đồng nghĩa với việc rất nhiều doanh nghiệp có
nhu cầu vay ngoại tệ phục vụ sản xuất kinh doanh nhưng không được vay do không
thuộc đối tượng vay. Bên cạnh đó, bản thân các doanh nghiệp thuộc đối tượng vay
vốn phải chứng minh và cam kết có đủ nguồn ngoại tệ để trả nợ trước khi ngân hàng
quyết định cho vay. Điều này dẫn tới khó khăn là doanh nghiệp vay không được sử
dụng nguồn ngoại tệ thu về từ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá để tái đầu tư sang
các hoạt động kinh doanh khác hoặc phải đi vay đồng Việt Nam để mua ngoại tệ trả

cho ngân hàng. Đây là một trong những bất cập hiện nay.
Thứ hai, việc pháp luật cho phép TCTD (chủ yếu là ngân hàng thương mại)
được “độc quyền” cho vay ngoại tệ dẫn đến sự bất bình đẳng trong quan hệ cung cầu
vay ngoại tệ tại thị trường trong nước. TCTD được quyền xem xét, quyết định cho
vay, quyết định mức lãi và thủ tục cho vay đối với khách hàng dẫn tới thực tế, nhiều
doanh nghiệp đủ điều kiện được vay nhưng có thể chưa được xem xét cho vay do
không đáp ứng được các quy định nội bộ của TCTD.
Thứ ba, doanh nghiệp chưa được phép tiếp cận nguồn ngoại tệ nhàn rỗi trong
nhân dân thông qua hình thức vay trực tiếp từ người có ngoại tệ. Bất cập này xuất
phát từ chính sách ngoại hối của Nhà nước cấm các giao dịch của người cư trú,
người không cư trú được thực hiện bằng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, trừ những
trường hợp được phép theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam7. Với chính
sách này thì vay ngoại từ ngân hàng là con đường duy nhất để doanh nghiệp có nhu
cầu sử dụng ngoại tệ đáp ứng được nhu cầu đó. Chính sách này vô hình chung đã
làm tăng thế “độc quyền” của ngân hàng như hiện nay và đã tạo ra cũng như duy trì
sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào ngân hàng.
6

Xem Điều 3 Thông tư 24/2015/TT-NHNN.
Xem Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11, sửa đổi, bổ sung bởi Pháp lệnh số
06/2013/PL-UBTVQH13;
7


16
Thứ tƣ, các doanh nghiệp Việt Nam có hoạt động đầu tư ra nước ngoài muốn
vay ngoại tệ để thực hiện các hoạt động đầu tư gặp rất nhiều khó khăn. Vì các dự án
đầu tư phải được Quốc Hội, Chính Phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ
trương đầu tư và phải được Bộ Kế hoạch đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước
ngoài8. Đây là điều kiện mà phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước không

thể đáp ứng được. Bất cập này làm hạn chế hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam.
1.2.1.2. Vay vốn bằng ngoại tệ từ nước ngoài
Theo Báo cáo về sử dụng vốn vay và quản lý nợ công 2017, kế hoạch 2018 của
Chính phủ gửi Quốc hội thì tính đến hết năm 2017 tổng dư nợ nước ngoài của quốc
gia là 2.451 triệu tỷ đồng, tăng so với năm 2016. Nguyên nhân chủ yếu là do quy mô
vay nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo hình thức tự vay, tự trả tăng nhanh.
Theo đó, tốc độ tăng dư nợ của các khoản vay trung và dài hạn là 22,56%, các khoản
vay ngắn hạn là 73% so với năm 2016. Vay ngắn hạn nước ngoài đã cán mốc 29,1 tỷ
Đô la Mỹ trong năm 2017. Vì vậy, để đảm bảo an toàn nợ quốc gia, Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt hạn mức vay nước ngoài của các doanh nghiệp, tổ chức tín
dụng theo hình thức tự vay tự trả năm 2018 không vượt quá 5 tỷ Đô la Mỹ, trong đó
dư nợ ngắn hạn cũng không được vượt quá 5 tỷ Đô la Mỹ9.
Hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam vay nước ngoài dưới hai hình thức (i) Vay
có bảo lãnh của Chính phủ (ii) Vay không có bảo lãnh của Chính phủ (tự vay tự trả).
Đối với vay có bảo lãnh của Chính phủ: Đây là hình thức vay mà Chính phủ
bảo lãnh cho nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp với bên cho vay. Hiện nay, bảo lãnh
Chính phủ được thực hiện dưới hình thức bảo lãnh cho khoản vay của doanh nghiệp
và bảo lãnh cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu tại thị trường quốc tế. Tuy nhiên,
dù với hình thức nào thì doanh nghiệp cũng phải đáp ứng được các điều kiện vay
theo quy định.
Theo hình thức vay này, doanh nghiệp được Chính phủ xem xét bảo lãnh phải
có dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc Hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo quy định của Luật đầu tư và Luật đầu tư
công10. Các dự án này là những dự án quan trọng quốc gia, chương trình mục tiêu

8

Xem Tiết d Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 24/2015/TT-NHNN.
truy cập

ngày 11/08/2018
10
Điều 41 Luật quản lý nợ công số 20/2017/QH14; Điều 4 Thông tư 99/2015/TT-BTC Hướng dẫn về phát
hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh.
9


17
quốc gia; chương trình sử dụng vốn ODA11; dự án nhà máy điện hạt nhân, dự án di
dân, tái định cư12; dự án xây dựng và kinh doanh cảng hàng không, vận tải hàng
không; dự án xây dựng và kinh doanh cảng biển quốc gia; dự án thăm dò, khai thác,
chế biến dầu khí; dự án xây dựng và kinh doanh sân gôn; các dự án khác có quy mô
vốn đầu tư từ 5000 tỷ đồng trở lên13. Ngoài ra, doanh nghiệp phải có tối thiểu 20%
vốn tự có để thực hiện dự án14 và Chính phủ cũng chỉ bảo lãnh tối đa đến 70% tổng
số vốn thực hiện dự án15. Đối với doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu quốc tế để
vay ngoại tệ, ngoài các điều kiện nêu trên còn phải đáp ứng một số các điều kiện
khác liên quan đến khả năng tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu
quả của việc sử dụng vốn vay,… và phải có tài sản đảm bảo cho khoản bảo lãnh của
Chính phủ. Đề án phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế để vay vốn phải được Bộ
Tài chính thẩm định và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt16.
Điều kiện trên cho thấy bảo lãnh Chính phủ chỉ dành cho các doanh nghiệp có
vốn Nhà nước thực hiện các dự án trọng điểm quốc gia, liên quan đến cơ sở hạ tầng,
xã hội, chính sách phát triển nền kinh tế vĩ mô. Các doanh nghiệp thuộc khu vực vốn
tư nhân rất khó để đáp ứng được các điều kiện trên do không có tiềm lực tài chính
hoặc không hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Thực tế này dẫn
đến phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không được vay nước ngoài có bảo
lãnh của Chính phủ.
Đối với vay vốn không có bảo lãnh của Chính phủ: Đây là hình thức tự vay
tự trả, không có bảo lãnh của Chính phủ. Hình thức vay này được thể hiện dưới hợp
đồng nhập khẩu trả chậm, hợp đồng vay dân sự, phát hành trái phiếu ra thị trường

quốc tế,…Đối với hình thức vay này, pháp luật không đặt ra điều kiện vay, lãi suất,
tài sản bảo đảm,…mà do các bên tự thoả thuận trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng.
Tuy nhiên, nhìn từ vị trí của bên đi vay, các yếu tố này thường không phải là những
yếu tố thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước khi vay bên nước ngoài.
Trước hết về điều kiện vay, trong quan hệ tự vay tự trả, bên cho vay luôn là
người đặt ra các điều kiện vay. Một trong những điều kiện được cho là khắt khe nhất
đó là bên vay phải chuyển toàn bộ các nguồn thu được từ hoạt động sản xuất kinh
doanh vào tài khoản của bên cho vay để thu hồi lãi và nợ gốc. Đồng thời, bên đi vay
không được mang tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp, cầm cố cho bất kỳ bên
11

Điều 17 Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13.
Điều 30 Luật đầu tư số 67/2014/QH13.
13
Điều 31 Luật đầu tư số 67/2014/QH13.
14
Điều 43 Luật quản lý nợ công số 20/2017/QH14.
15
Điều 45 Luật quản lý nợ công số 20/2017/QH14.
16
Điều 16 Nghị định 01/2011/NĐ-CP.
12


18
thứ ba nào tại nước của bên đi vay. Các điều kiện này làm hạn chế khả năng tài chính
của bên đi vay do không được dùng vốn vay để tái đầu tư, thiếu vốn lưu động phục
vụ cho kinh doanh. Ngoài ra, bên vay không huy động được thêm vốn lưu động do
không được mang tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp đảm bảo cho khoản vay.
Đây là một trong những hạn chế của việc vay vốn nước ngoài.

Lãi suất vay cũng là một trở ngại đối với bên vay là các doanh nghiệp Việt
Nam. Lãi suất theo hình thức tự vay, tự trả do hai bên thoả thuận trên nguyên tắc tự
nguyện. Theo đó, mức lãi suất sẽ tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể căn cứ trên
nhu cầu vốn của bên đi vay và tham chiếu lãi suất trên thị trường. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, bên vay phải chấp nhận mức lãi suất cao để có vốn kịp thời phục
vụ hoạt động kinh doanh. Lãi suất cao được coi là một trong những yếu tố làm giảm
lợi nhuận của doanh nghiệp do tăng chi phí đầu vào. Đây cũng là một bất lợi mà các
doanh nghiệp phải chấp nhận khi đi vay nước ngoài.
Ngoài ra, khi vay nước ngoài, doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo hoặc phải
được bảo lãnh của bên thứ ba theo yêu cầu của bên cho vay. Vấn đề này cũng là một
trở ngại lớn đối với không ít doanh nghiệp trong nước. Vì nhiều doanh nghiệp không
có tài sản bảo đảm hoặc tài sản đã được dùng để đảm bảo cho khoản vay trong nước
và việc bảo lãnh của bên thứ ba chỉ phát sinh khi có quan hệ phụ thuộc như công ty
mẹ - công ty con. Do đó, nhiều doanh nghiệp trong nước không đáp ứng được yêu
cầu này của bên cho vay dẫn tới nhu cầu vốn ngoại tệ của doanh nghiệp vẫn chưa
được giải quyết. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, bên cho vay chấp nhận nhận
chính tài sản hình thành từ vốn vay làm tài sản đảm bảo cho khoản vay, phương án
này linh động và tạo điều kiện thuận lợi cho bên vay trong việc giải quyết nhu cầu
vốn ngoại tệ kịp thời cho hoạt động kinh doanh.
Như vậy, tình hình vay nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam cũng phản
ánh những thuận lợi và khó khăn nhất định. Với 29,1 tỷ đô la Mỹ vay nợ nước ngoài
năm 2017 (bao gồm cả vay nợ của Chính phủ) cho thấy các doanh nghiệp trong nước
đã phần nào đáp ứng được nguồn vốn ngắn, trung và dài hạn để phục vụ hoạt động
kinh doanh, theo đó, một số công trình, dự án trọng điểm quốc gia đã được triển khai
xây dựng góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế nói chung và tăng trưởng của
các doanh nghiệp nói riêng. Bên cạnh thuận lợi này thì việc vay vốn nước ngoài
trong thời gian vừa qua vẫn còn là những trở ngại cho các doanh nghiệp trong nước.
Cụ thể:



19
Trở ngại thứ nhất, đối với vay nước ngoài có bảo lãnh của Chính phủ. Không
phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng được Chính phủ bảo lãnh vay vốn nước ngoài,
mà chỉ những doanh nghiệp có dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương
đầu tư của Quốc Hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ mới thuộc diện để Chính phủ
xem xét cấp bảo lãnh. Điều kiện này đã giới hạn đối tượng được bảo lãnh rất ít ỏi và
thực tế chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước mới được giao, chỉ định thực hiện các dự
án nêu trên. Thực tế này đồng nghĩa với việc các khoản bảo lãnh của Chính phủ chỉ
dành cho các dự án trọng điểm quốc gia ảnh hưởng đến nền kinh tế, hạ tầng xã hội.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với tiềm lưc tài chính yếu không phải là đối
tượng được giao thực hiện các dự án này. Vì vậy, các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh vẫn phải tự vay vốn từ nước ngoài theo nguyên tắc tự vay trự trả.
Trở ngại thứ hai, đối với hình thức tự vay tự trả, doanh nghiệp phần lớn phải
chấp nhận các điều kiện mà bên cho vay đưa ra để có được số vốn mong muốn. Các
điều kiện của bên cho vay dẫn tới hai trường hợp (i) hoặc để có vốn kinh doanh, bên
vay chấp nhận các điều kiện về lãi suất vay cao, hạn chế về quyền đối với tài sản
hình thành từ vốn vay, cắt các khoản phải thu từ tài sản vay để trả nợ gốc, lãi,…(ii)
hoặc là bên vay quyết định không vay sau khi cân nhắc các điều kiện bất lợi cho
mình. Thực tế, đã có nhiều doanh nghiệp trong nước quyết định không vay bên nước
ngoài sau khi tính toán và thấy rằng huy động vốn thông qua việc vay trực tiếp nước
ngoài không thuận lợi cho doanh nghiệp. Vì vậy, việc thiếu vốn ngoại tệ vẫn là thực
trạng chung của các doanh nghiệp không thuộc đối tượng được Chính phủ bảo lãnh.
Trở ngại thứ ba, tỷ lệ nợ nước ngoài tăng làm giảm hạn mức vay nước ngoài
của doanh nghiệp trong nước. Tỷ lệ nợ nước ngoài tăng thực chất là do một số tập
đoàn nước ngoài vay tiền của công ty mẹ ở nước ngoài để mua lại các doanh nghiệp
Việt Nam trong thời gian qua. Điển hình là thương vụ Công ty Vietnam Beverage
(thuộc Tập đoàn Thai Bev, Thái Lan) đã vay công ty mẹ ở Thái Lan 4,8 tỷ Đô la Mỹ
để mua 53,59% vốn cổ phần của Sabeco17. Số nợ này đã làm tăng tỷ lệ nợ nước
ngoài và làm giảm hạn mức vay nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Bên
cạnh vụ mua bán nêu trên, các tỷ phú người Thái Lan cũng không ngừng thâu tóm

các thương hiệu lớn của Việt Nam như BigC Thăng Long, Metro,… Những thương
vụ mua bán này chỉ ra rằng, nếu các doanh nghiệp Việt Nam không được vay vốn
(đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ) kịp thời sẽ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh, làm
giảm sức cạnh tranh so với các tập đoàn nước ngoài ngay trên chính thị trường trong
17

truy cập ngày 25/07/2018


×