Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn thi hành tại tòa án nhân dân quận cầu giấy, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.73 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHÙNG THỊ PHƢƠNG THẢO

PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 62380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ
và trích dẫn trong Luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo chính xác, tin cậy và trung thực.
Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách khách quan và
phù hợp với thực tiễn tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội


Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phùng Thị Phƣơng Thảo


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

BĐS

: Bất động sản

GCNQSDĐ

: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC


: Tòa án nhân dân tối cao

TCĐĐ

: Trách nhiệm hình sự

TTDS

: Tố tụng dân sự

UBND

: Uỷ ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu
bảng
2.1

Tên bảng
Kết quả các vụ án đất đai được TAND quận Cầu Giấy thụ

Trang

42

lý, giải quyết (từ năm 2013 - năm 2017)

2.2

Kết quả hòa giải các vụ án TCĐĐ tại TAND quận Cầu Giấy

46

(từ năm 2013 - năm 2017
2.3

Kết quả giải quyết các vụ án TCĐĐ tại TAND quận Cầu

46

Giấy (từ năm 2013 - năm 2017)
2.4

Kết quả xét xử; kháng cáo, kháng nghị; hủy, sửa bản án đã
tuyên của TAND quận Cầu Giấy (từ năm 2013 - năm 2017)

47


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………….
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài………………………………

2. Tình hình nghiên cứu …………………………………………………...
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………...
3.1. Mục đích nghiên cứu …………………………………………………..
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………..
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu………………………………………
4.1. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………......
4.2. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ……………………………………………….
6. Những đóng góp mới của luận văn…………………………………….
7. Kết cấu của luận văn…………………………………………………….

Trang
1
1
2
3
3
3
4
4
4
4
5
5

Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT
ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THÔNG QUA TÒA
ÁN NHÂN DÂN…………………………………………………………….
1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai………………………………………..
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai ………………………………………..

1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai …………………………………....
1.1.3. Các dạng tranh chấp đất đai phổ biến……………………………….
1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai ………………………….
1.1.5. Hậu quả của tranh chấp đất đai …………………………………….

6
6
6
7
8
10
14
1.2. Lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân 15
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân 15
1.2.2. Mục đích, ý nghĩa của giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa
án nhân dân ………………………………………………………………...
18
1.2.3. Các hình thức giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải quyết
tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nói riêng.…………………………… 19
1.2.4. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai thông quaTòa án nhân dân 21
1.2.5. Vai trò, ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa


án nhân dân …………………………………………………………….........
Kết luận Chƣơng 1………………………………………………………….

24
25

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ……………………… 26
2.1. Nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ……………..... 26
2.1.1. Nội dung các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai…………….
26
2.1.2. Nội dung các quy định của Luật đất đai năm 2013 về giải quyết
tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân ………………………………….
28
2.1.3. Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết
tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân ………………………………….
32
2.1.4. Nội dung các quy định về hệ thống Tòa án nhân dân……………… 40
2.2. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp đất
đai tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy - thành phố Hà Nội…………… 41
2.2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, dân số, tình hình kinh tế - xã hội của
quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội tác động đến thực tiễn thi hành pháp
luật giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội…………………………………………………………...
41
2.2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại
Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội……………………... 45
Kết luận Chƣơng 2…………………………………………………………
60
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI……………………………………………………………………...
61
3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
và nâng cao hiệu quả thi hành tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy,

thành phố Hà Nội ………………………………………………………….. 61
61
3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai .
3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành tại Tòa án nhân dân quận
Cầu Giấy, thành phố Hà Nội………………………………………………
63
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và
nâng cao hiệu quả thi hành tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố
Hà Nội ……………………………………
65
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai từ
thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy - thành phố Hà Nội. 65


3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết tranh
chấp đất đai tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy - thành phố Hà Nội…... 72
Kết luận Chƣơng 3…………………………………………………………
78
PHẦN KẾT LUẬN ……………………………………………………....... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường (đặc biệt trong những
năm gần đây), tình hình tranh chấp đất đai (TCĐĐ) ngày càng tăng về số lượng lẫn
tính chất phức tạp về nội dung. Các dạng TCĐĐ phổ biến trên thực tế là tranh chấp
hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng

đất (QSDĐ); tranh chấp do lấn, chiếm đất; tranh chấp QSDĐ và tài sản gắn liền với
đất; TCĐĐ là tài sản chung của vợ chồng trong các vụ án ly hôn... Đã có nhiều công
trình nghiên cứu, tìm hiểu về TCĐĐ chỉ ra nguyên nhân, bao gồm nguyên nhân chủ
quan và nguyên nhân khách quan; đồng thời, đề xuất các giải pháp khắc phục. Pháp
luật về giải quyết TCĐĐ ra đời nhằm hướng dẫn các bên tranh chấp có thái độ, cách
hành xử văn minh khi giải quyết bất đồng, mâu thuẫn về đất đai; đồng thời, tạo cơ
sở pháp lý cho hoạt động giải quyết TCĐĐ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nói chung và của Tòa án nhân dân (TAND) nói riêng. Thực tiễn áp dụng pháp luật
đất đai trong giải quyết TCĐĐ của các cơ quan nhà nước nói chung và của TAND
nói riêng thời gian qua đạt được những kết quả tích cực như giải quyết ổn thỏa
nhiều vụ việc TCĐĐ phức tạp, kéo dài; nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật không chỉ của các bên đương sự mà còn của đội ngũ cán bộ, công chức
nhà nước, thẩm phán làm nhiệm vụ giải quyết TCĐĐ v.v... Song bên cạnh những
kết quả đạt được, việc thi hành pháp luật trong lĩnh vực này của TAND còn bộc lộ
một số hạn chế như vẫn còn một số lượng đáng kể các vụ án xét xử sơ thẩm bị
kháng nghị, hủy quyết định của cấp sơ thẩm; hiệu quả thực thi thấp v.v... Điều này
có nguyên nhân từ việc áp dụng chưa đúng, chưa chính xác pháp luật trong giải
quyết TCĐĐ của các thẩm phán - cho dù pháp luật đất đai (trong đó có các quy định
về giải quyết TCĐĐ) thường xuyên được sửa đổi, bổ sung nhằm phù hợp với thực
tiễn. Để khắc phục hạn chế này, việc tiếp tục nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp
luật giải quyết TCĐĐ tại TAND vẫn cần thiết. Đặc biệt là trong bối cảnh Luật Đất
đai năm 2013, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2014 và Bộ luật Dân sự
(BLDS) năm 2015 v.v... được ban hành với những sửa đổi, bổ sung về giải quyết
TCĐĐ của TAND.
Cầu Giấy là một quận nội thành nằm ở phía Tây của Thủ đô Hà Nội được
thành lập trên cơ sở tách một phần diện tích tự nhiên - dân số của huyện Từ Liêm (cũ).
Trong những năm qua, tốc độ đô thị hóa khu vực phía Tây của Hà Nội nói chung và
của quận Cầu Giấy nói riêng phát triển rất nhanh chóng và mạnh mẽ. Hệ thống cơ
sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội được đầu tư xây dựng đồng bộ, hiện đại với
việc mở rộng tuyến đường 32 Hà Nội - Sơn Tây; đường Phạm Văn Đồng v.v...; phát



2
triển các khu đô thị mới Trung Yên, Yên Hòa… Đây là điều kiện quan trọng để
quận Cầu Giấy phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội. Giá đất ở địa phương này
tăng với tốc độ chóng mặt kéo theo các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai phức tạp,
kéo dài. Mặt khác, phát huy truyền thống cách mạng trong công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân quận Cầu Giấy đã không ngừng
vượt khó để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Cùng với sự chuyển mình đi
lên của đất nước, tốc độ phát triển kinh tế của quận Cầu Giấy không ngừng được
nâng cao góp phần cải thiện chất lượng đời sống của nhân dân. Đóng góp vào thành
tựu phát triển chung của quận Cầu Giấy không thể không ghi nhận những kết quả
của thực tiễn thi hành pháp luật giải quyết TCĐĐ tại TAND quận Cầu Giấy vào
việc duy trì sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Dẫu vậy, thực tiễn thi hành
pháp luật giải quyết TCĐĐ tại TAND quận Cầu Giấy vẫn để lại những suy nghĩ,
trăn trở khi số lượng không nhỏ các vụ việc TCĐĐ được xét xử bị kháng cáo, kháng
nghị hoặc hủy bản án. Điều này đặt ra yêu cầu phải có sự nghiên cứu để tìm ra
nguyên nhân và đưa ra giải pháp khắc phục. Mặt khác, việc tìm hiểu thực tiễn thi
hành pháp luật giải quyết TCĐĐ tại TAND đã được nhiều công trình khoa học
nghiên cứu. Tuy nhiên, tìm hiểu và đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật giải quyết
TCĐĐ tại TAND quận Cầu Giấy một cách có hệ thống, đầy đủ, toàn diện trên
phương diện lý luận và thực tiễn tham chiếu với các đạo Luật Đất đai năm 2013,
BLTTDS năm 2014, BLDS năm 2015 v.v... thì dường như vẫn còn ít công trình
khoa học nghiên cứu. Do vậy, đề tài này vẫn còn nhiều dư địa để nghiên cứu.
Với những lý do cơ bản trên đây, học viên lựa chọn đề tài "Pháp luật giải
quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn thi hành tại Tòa án nhân dân quận Cầu
Giấy, thành phố Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu pháp luật giải quyết TCĐĐ và thực tiễn thi hành tại TAND đã
có nhiều công trình được công bố mà tiêu biểu là một số công trình khoa học cụ thể

sau đây: 1) Lê Xuân Thân (2004), Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh; 2) Chu Đức Thắng (2004), Áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân ở cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay,
Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; 3) Lưu Tiến
Dũng (2005), Bàn về áp dụng pháp luật trong công tác xét xử, Tạp chí TAND, số 5;
4) Phạm Thanh Hải (2005), Trao đổi thêm về việc áp dụng Điều 136 Luật Đất đai
năm 2003, Tạp chí TAND, số 5; 5) Nguyễn Văn Cường (2005), Những vấn đề cần
trao đổi khi áp dụng Điều 136 Luật Đất đai năm 2003, Tạp chí TAND, số 8; 6) Thủy
Nguyên (2005), Áp dụng Luật hôn nhân gia đình khi giải quyết vụ án có yếu tố
nước ngoài, Tạp chí TAND, số 9; 7) Ban Biên tập Tạp chí TAND (2005), Những


3
vấn đề trao đổi khi áp dụng Điều 136 Luật Đất đai năm 2003, Tạp chí TAND, số 9;
8) Hoàng Việt Trung (2014), Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất từ thực tiễn
xét xử của Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học,
Học viện Khoa học Xã hội; 9) Tưởng Duy Lượng (2005), Bình luận về một số vụ án
hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; 10) Phan Thị Hương Thủy
(2005), 99 tình huống và tư vấn pháp luật về thừa kế nhà và quyền sử dụng đất,
Nxb Tư pháp, Hà Nội; 11) Nguyễn Hữu Ước (2008), Nghị quyết của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao từ năm 2000 - 2007, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
12) Nguyễn Thị Lan Phương (2017), Áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp đất
đai qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại - tỉnh Quảng Bình, Luận văn thạc
sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; 13) Định Thị Phương Thảo
(2016), Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn xét xử tại Tòa án
nhân dân quận Bình Thạnh - Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội; 14) Trần Đức Thịnh (2017), Thực tiễn thi hành pháp
luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình - tỉnh
Hòa Bình, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Đại học Mở Hà Nội v.v... Các công trình

nghiên cứu, bài viết nêu trên về cơ bản đều được tiếp cận, nghiên cứu, nhận định và
đánh giá dưới nhiều khía cạnh và ở những mức độ khác nhau về những nội dung có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến pháp luật về TCĐĐ và giải quyết TCĐĐ
thông qua TAND. Qua đó đã phần nào làm giàu thêm kiến thức lý luận và thực tiễn
về vấn đề TCĐĐ và giải quyết TCĐĐ.
Tuy nhiên, tìm hiểu pháp luật về giải quyết TCĐĐ và thực tiễn thi hành tại
TAND quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội một cách có hệ thống, đầy đủ và toàn diện
thì dường như vẫn còn ít được nghiên cứu. Chính vì vậy, rất cần có một công trình
nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này một cách hệ thống toàn diện cả về lý luận và
thực tiễn. Trên cơ sở tham khảo và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học có liên quan đến đề tài đã công bố, luận văn đi sâu tìm hiểu pháp luật về
giải quyết TCĐĐ và thực tiễn thi hành tại TAND quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận văn là đưa ra các giải pháp hoàn
thiện pháp luật về giải quyết TCĐĐ và nâng cao hiệu quả thi hành tại TAND quận
Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn xác định những nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về TCĐĐ và giải quyết TCĐĐ thông
qua TAND trên những vấn đề cụ thể sau: i) Phân tích khái niệm và đặc điểm của


4
TCĐĐ; các dạng TCĐĐ; nguyên nhân và hậu quả của TCĐĐ; ii) Phân tích khái
niệm và đặc điểm của giải quyết TCĐĐ; ý nghĩa của giải quyết TCĐĐ; các nguyên
tắc giải quyết TCĐĐ; các hình thức giải quyết TCĐĐ; đặc điểm và tính ưu việt của
giải quyết TCĐĐ bằng TAND; yêu cầu của việc giải quyết TCĐĐ bằng TAND...
- Phân tích thực trạng pháp luật về giải quyết TCĐĐ; đánh giá thực tiễn thi

hành tại quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
- Đưa ra định hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giải quyết
TCĐĐ và nâng cao hiệu quả thi hành tại TAND quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Dựa trên mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn xác định đối tượng
nghiên cứu khu trú vào các nội dung cụ thể sau đây:
- Quy định về giải quyết TCĐĐ của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
- Quy định của BLTTDS năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC)
hướng dẫn về đường lối xét xử các vụ án TCĐĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND.
- Các quan điểm lý luận, trường phái lý thuyết về TCĐĐ, giải quyết TCĐĐ
và thi hành pháp luật về giải quyết TCĐĐ tại TAND.
- Các văn bản về nghiệp vụ xét xử các vụ việc TCĐĐ của TAND thành phố
Hà Nội.
- Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết TCĐĐ tại TAND quận Cầu
Giấy, thành phố Hà Nội...
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ có hạn của một bản luận văn thạc sĩ luật học, tác giả giới
hạn phạm vi nghiên cứu đề tài vào một số nội dung cụ thể sau đây:
- Về địa bàn, phạm vi: Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết TCĐĐ tại
TAND quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Từ năm 2013 (thời điểm Luật Đất đai năm 2013 được ban
hành) đến nay.
- Về đối tượng nghiên cứu: Các quy định hiện hành về giải quyết TCĐĐ và
các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật giải quyết TCĐĐ tại TAND.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã
sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:

- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:


5
i) Phương pháp phân tích, phương pháp lập luận lô gic, phương pháp hệ
thống, nghiên cứu liên ngành v.v được sử dụng khi nghiên cứu Chương 1. Lý luận
về TCĐĐ và giải quyết TCĐĐ thông qua TAND.
ii) Phương pháp diễn giải, phương pháp phân tích kết hợp với luận giải v.v...
được sử dụng nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thi hành pháp luật về
giải quyết TCĐĐ tại TAND; yêu cầu nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải
quyết TCĐĐ tại TAND v.v...
iii) Phương pháp bình luận, phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh,
phương pháp nghiên cứu hệ thống… được sử dụng khi đánh giá thực trạng thi hành
pháp luật về giải quyết TCĐĐ tại TAND quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
iv) Phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp… được sử dụng khi đề
cập định hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết
TCĐĐ tại TAND quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
v) Phương pháp lập luận lôgic được sử dụng khi nghiên cứu đề xuất các giải
pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết
TCĐĐ tại TAND quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội v.v...
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở tham chiếu với Luật Đất đai năm 2013, luận văn đã có một số
đóng góp nhất định. Những đóng góp này được khu trú vào một số vấn đề cụ thể sau:
- Luận văn hệ thống hóa và góp phần bổ sung cơ sở lý luận về TCĐĐ và
giải quyết TCĐĐ thông qua TAND dưới góc độ pháp luật.
- Luận văn phân tích, bình luận, đánh giá về thực trạng thi hành pháp luật
về giải quyết TCĐĐ tại TAND quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
- Luận văn đề xuất định hướng, giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao

hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết TCĐĐ tại TAND quận Cầu Giấy, thành
phố Hà Nội.
Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích cho những ai quan tâm tìm hiểu về
lĩnh vực pháp luật này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh
chấp đất đai thông qua tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực
tiễn thi hành tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp đất đai và nâng cao hiệu quả thi hành tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội.


6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THÔNG QUA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng xã hội xuất hiện ở bất cứ hình thái
kinh tế - xã hội nào. Ở nước ta hiện nay, TCĐĐ đã trở thành một vấn đề phổ biến.
Vậy TCĐĐ là gì ? Trước khi tìm hiểu về khái niệm TCĐĐ, chúng ta cần hiểu thế
nào là tranh chấp? Theo Đại Từ điển tiếng Việt (năm 1998) thì tranh chấp là giành
giật, giằng co nhau cái không rõ thuộc về bên nào, là bất đồng, trái ngược nhau.
Khái niệm TCĐĐ được giải thích trong Luật Đất đai năm 2013 như sau:
"Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai
hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai"1. Phân tích quy định trên của Luật Đất đai

năm 2013, chúng ta thấy rằng các nhà làm luật đưa ra định nghĩa về TCĐĐ là tranh
chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan
hệ đất đai. Các nhà làm luật đã định nghĩa bằng cách sử dụng chính thuật ngữ cần
định nghĩa để định nghĩa: "tranh chấp đất đai là tranh chấp...". Cách định nghĩa như
vậy chưa giúp người đọc hiểu được tranh chấp là gì? Bản chất của nó như thế nào?.
Tranh chấp là những mâu thuẫn, xung đột, những quan điểm, ý kiến khác nhau,
thậm chí là đối nghịch, trái ngược nhau về cùng một vấn đề. Trong quan hệ đất đai,
tranh chấp chính là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể về các vấn đề lợi
ích, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên chủ thể trong quan hệ đất đai. Trong bất cứ
quan hệ nào, lợi ích luôn là vấn đề được các chủ thể đặt lên hàng đầu, lợi ích luôn
gắn liền với quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Nói một cách trực diện là nếu không
có lợi ích sẽ khó có thể phát sinh quan hệ và không có quan hệ thì cũng không làm
phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể với nhau. Vì thế, nói đến
quyền và nghĩa vụ không thể không nhắc tới lợi ích đằng sau nó. Trong nội hàm của
khái niệm TCĐĐ tại khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013, các nhà làm luật chỉ
nói đến "quyền và nghĩa vụ" là chưa đầy đủ. Điều này đã được quy định tại Luật
Đất đai năm 2003, nhưng đến Luật Đất đai 2013 vẫn không có sự sửa đổi là chưa
phù hợp với bản chất của các quan hệ xã hội nói chung, quan hệ đất đai nói riêng và
vô hình chung thu hẹp nội hàm khái niệm TCĐĐ trong thực tế. Tiếp tục phân tích
khái niệm TCĐĐ tại quy định này: "Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền,
nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên...". Trong khái niệm này,
nhà làm luật đã xác định chủ thể của TCĐĐ là hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất
đai; đó có thể là bất đồng giữa những người sử dụng đất với nhau hoặc giữa người
1. Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013.


7
sử dụng đất với cơ quan quản lý nhà nước về đất đai về lợi ích, quyền và nghĩa vụ
của người sử dụng đất. Như vậy trong khái niệm này, nhà làm luật xác định một bên
chủ thể trong tranh chấp phải là người sử dụng đất; bởi đối tượng của tranh chấp là

lợi ích, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, chủ thể còn lại có thể là người sử
dụng đất khác hoặc là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai.
Về mặt nguyên tắc, một TCĐĐ sẽ được giải quyết bởi cơ quan tư pháp là
TAND cấp có thẩm quyền hoặc cơ quan hành chính là Ủy ban nhân dân (UBND) cấp
có thẩm quyền (Điều 203 Luật Đất đai năm 2013). TCĐĐ thuộc thẩm quyền giải quyết
của TAND được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự (TTDS). Bên cạnh đó, còn có
một dạng TCĐĐ liên quan đến địa giới hành chính giữa các cấp đơn vị hành chính (xã,
huyện, tỉnh). Dạng tranh chấp này không nằm trong nội hàm của khái niệm TCĐĐ quy
định tại khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013; vì đây là tranh chấp về quyền quản lý
nhà nước về mặt lãnh thổ giữa các đơn vị hành chính liên quan đến tổ chức bộ máy nhà
nước. Như vậy, có thể thấy việc nhà làm luật xác định chủ thể và nội hàm của TCĐĐ
như trên là phù hợp và nhất quán với chính sách đất đai của Nhà nước ta. Có chăng như
đã phân tích ở trên, khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 cần thiết quy định rõ tranh
chấp là gì và đưa thêm cụm từ "lợi ích" vào khái niệm, theo đó có thể định nghĩa
TCĐĐ như sau: Tranh chấp đất đai là những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích, quyền
và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Bên cạnh các đặc điểm chung của tranh chấp; TCĐĐ còn có các đặc điểm
riêng chủ yếu sau:
Một là, đặc điểm về chủ thể. Do tính đặc thù của chế độ sở hữu toàn dân về
đất đai ở nước ta: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu2.
Nên TCĐĐ ở nước ta chỉ là tranh chấp diễn ra giữa người sử dụng đất với nhau hoặc
giữa người sử dụng đất với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác; chứ không có tranh
chấp về quyền sở hữu đất đai. Do đó, pháp luật đất đai quy định Nhà nước không thừa
nhận việc đòi lại đất đã được điều chỉnh cho người khác khi thực hiện chính sách đất
đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hai là, ở nước ta không có tranh chấp về quyền sở hữu đất đai mà chỉ tồn
tại tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hay nhiều bên
trong quá trình SDĐ. Do pháp luật nước ta chỉ thừa nhận một chế độ sở hữu đất đai

- Chế độ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu.
Ba là, tranh chấp liên quan đến cơ sở pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ của người sử dụng đất giữa một bên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân trong việc ra quyết định giao đất, cho thuê đất; quyết
2. Điều 4 Luật Đất đai năm 2013.


8
định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; quyết định cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất (GCNQSDĐ); quyết định về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất v.v... là tranh chấp hành chính. Việc giải quyết
các tranh chấp này do Tòa hành chính giải quyết.
Trong khi đó, tranh chấp về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người
SDĐ giữa những người SDĐ với nhau hoặc giữa họ với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
khác khi thực hiện giao dịch về QSDĐ là tranh chấp mang tính chất dân sự. Việc
giải quyết loại tranh chấp này thuộc thẩm quyền của Tòa dân sự.
Bốn là, TCĐĐ luôn gắn liền với quá trình SDĐ của các chủ thể nên khi xảy
ra không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các bên tranh chấp mà còn làm ảnh
hưởng đến các bất động sản (BĐS) liền kề, gây mất ổn định, bất đồng trong nội bộ
nhân dân và ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, làm cho những chính sách, quy
định pháp luật về đất đai của Nhà nước không được thực thi một cách triệt để.
1.1.3. Các dạng tranh chấp đất đai phổ biến
Tranh chấp đất đai là biểu hiện của những bất đồng, trái ngược trong quan
điểm, suy nghĩ của các chủ thể có quyền quản lý và sử dụng đất đai. Những biểu hiện
này rất đa dạng, phong phú; vì vậy TCĐĐ cũng tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau, tùy theo mục đích nghiên cứu và tiêu chí phân loại mà TCĐĐ được chia thành
các loại. Căn cứ vào bản chất pháp lý, có thể chia TCĐĐ thành các dạng cơ bản sau:
Thứ nhất, tranh chấp về QSDĐ. Đặc trưng của dạng tranh chấp này là các
bên chủ thể đều có QSDĐ và có sự chiếm hữu, sử dụng thực tế đất đai có tranh
chấp. Dạng tranh chấp này được chia ra thành một số tranh chấp cụ thể sau:

Một là, tranh chấp ai là người có QSDĐ. Đây có thể là tranh chấp toàn bộ
một thửa đất hoặc nhiều thửa đất, tranh chấp một phần của thửa đất (tranh chấp ranh
giới đất liền kề) giữa những người sử dụng đất với nhau về ranh giới giữa những
vùng đất mà họ được Nhà nước cho phép quản lý và sử dụng. Loại tranh chấp này
thường nảy sinh do một bên tự ý thay đổi mốc giới hoặc hai bên không xác định
được với nhau về mốc giới sử dụng đất hoặc do quá trình quản lý, cấp GCNQSDĐ
chưa rõ ràng, còn nhiều sai sót.
Hai là, tranh chấp về QSDĐ, tài sản gắn liền với đất trong quan hệ ly hôn
giữa vợ và chồng. Tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân được pháp luật quy
định thuộc sở hữu chung hợp nhất. QSDĐ và các tài sản gắn liền với đất như nhà
cửa, công trình xây dựng v.v... là những tài sản có giá trị lớn. Vì vậy, khi vợ chồng
"đường ai nấy đi" thường sẽ nảy sinh dạng tranh chấp này. Dạng tranh chấp này còn
liên quan đến dạng tranh chấp tặng cho QSDĐ; vì trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng
thường được bố mẹ chồng hoặc bố mẹ vợ tặng cho QSDĐ.
Ba là, tranh chấp về QSDĐ, tài sản gắn liền với đất trong quan hệ thừa kế.
Dạng tranh chấp này phát sinh khi các chủ thể có quyền thừa kế theo quy định của
pháp luật đối với phần di sản thừa kế là QSDĐ và/hoặc tài sản gắn liền với đất trong


9
trường hợp không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp một phần hay toàn bộ và
các bên không tự thỏa thuận phân chia được với nhau.
Bốn là, tranh chấp trong quan hệ tặng cho QSDĐ không có hợp đồng.
Trường hợp này giữa các bên tặng cho thường có quan hệ thân thiết, gần gũi với nhau
như bố mẹ với con cái, anh chị, em ruột với nhau; nên khi tặng cho, các bên không làm
văn bản, hợp đồng tặng cho. Tranh chấp thường xuất hiện khi bên tặng cho muốn
đòi lại QSDĐ đã cho trước đây. Dạng tranh chấp này thường có cả tài sản trên đất;
vì khi được tặng cho, bên được tặng cho đã xây dựng nhà cửa, công trình trên đất.
Năm là, tranh chấp đòi lại QSDĐ, tài sản gắn liền với đất. Tranh chấp này
phát sinh khi người có QSDĐ, tài sản gắn liền với đất cho người khác mượn, ở nhờ

hoặc cho thuê nhà, đất nay những người đó không trả lại. Tranh chấp đòi lại QSDĐ,
tài sản gắn liền với đất cũng phát sinh do có sự thay đổi trong chính sách, pháp luật
về đất đai của Nhà nước qua các giai đoạn mà đất đã được chia cấp cho người khác.
Loại tranh chấp này thường có các dạng sau: i) Tranh chấp đòi lại QSDĐ, tài sản
gắn liền với đất khi cho thuê, cho mượn, ở nhờ; ii) Tranh chấp đòi lại QSDĐ, tài sản
gắn liền với đất của người thân trong những giai đoạn trước đây mà qua các cuộc
điều chỉnh ruộng đất đã được chia cấp cho người khác. Trong dạng tranh chấp này
bao gồm cả tranh chấp của hộ gia đình xã viên đòi lại đất đã góp vào hợp tác xã, tập
đoàn sản xuất kho vào hoặc ra khỏi hợp tác xã, tập đoàn sản xuất; iii) Tranh chấp
đòi lại quyền sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc diện
không được pháp luật cho sở hữu nhà ở tại Việt Nam nhờ người thân đứng tên mua
hộ nhà, đất. Nay người đứng tên mua hộ không làm thủ tục sang tên hoặc không trả
lại nhà; iv) Tranh chấp đòi lại QSDĐ và tài sản gắn liền với đất của dòng họ, nhà
thờ, thánh thất, chùa chiền. Do hoàn cảnh lịch sử của đất nước, các cơ sở này được
Nhà nước mượn, trưng dụng vào các mục đích khác nhau, nay không trả nên họ đòi lại.
Thứ hai, các dạng tranh chấp về quyền và nghĩa vụ trong quá trình thực
hiện hợp đồng liên quan đến QSDĐ, tài sản gắn liền với đất. Khác với các dạng
tranh chấp trên đây, ở dạng tranh chấp này, các bên bị ràng buộc quyền và nghĩa vụ
với nhau trên cơ sở hợp đồng. Các dạng tranh chấp cụ thể được phân chia theo từng
loại hợp đồng bao gồm tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại, thế chấp và hợp đồng góp vốn bằng QSDĐ.
Trong số các dạng tranh chấp này thì phức tạp nhất là tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng, hợp đồng thế chấp và hợp đồng bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ.
Mặc dù, Luật Đất đai năm 2013 không quy định về quyền bảo lãnh QSDĐ của
người SDĐ. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn xảy ra tranh chấp về mức bồi thường do
hợp đồng bảo lãnh bằng QSDĐ được ký kết trong giai đoạn trước nhưng nay mới
phát sinh tranh chấp hoặc đến nay vẫn chưa giải quyết xong.


10

Thứ ba, các dạng tranh chấp phát sinh trong quá trình quản lý đất đai của
Nhà nước. Chủ thể của dạng tranh chấp này tương đối đặc biệt hơn so với các dạng
tranh chấp kể trên, đó là một hoặc cả hai bên tranh chấp là cơ quan được Nhà nước
giao quyền quản lý đất đai. Nhà nước thông qua các cơ quan này thực hiện quyền
quản lý về đất đai trên phạm vi toàn quốc, trong quá trình đó cũng phát sinh một số
dạng tranh chấp sau:
Một là, tranh chấp về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu
hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi
ích quốc gia, công cộng. Đây là tranh chấp giữa cơ quan quản lý về đất đai với
người SDĐ khi họ cho rằng mức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa thỏa đáng;
Hai là, tranh chấp về địa giới hành chính. Loại tranh chấp này thường xảy
ra giữa các cấp đơn vị hành chính (xã, huyện, tỉnh) liền kề với nhau; vì nhiều lý do
như ở vị trí dọc theo các triền sông lớn, không có mốc giới, ranh giới rõ ràng nhưng
có vị trí quan trọng (cửa sông, cửa biển...) hoặc có nguồn tài nguyên phong phú
(khoáng sản, lâm, hải sản...). Đây là dạng tranh chấp mà cả hai bên đều là các cơ
quan được Nhà nước giao quản lý đất đai tại địa phương.
Ba là, các tranh chấp về mục đích sử dụng đất. Để đảm bảo sự quản lý chặt
chẽ đất đai, sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả v.v..., Nhà nước đã có
sự phân bổ và xây dựng quy hoạch sử dụng đất. Theo đó, căn cứ vào mục đích sử
dụng mà đất đai được chia thành đất nông nghiệp, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi
trồng thủy sản, đất ở (đất thổ cư)... Trong quá trình sử dụng đất thường phát sinh
tranh chấp khi các bên sử dụng đất sử dụng không đúng mục đích theo quy hoạch
như tranh chấp phát sinh trong nhóm đất nông nghiệp giữa đất trồng lúa với đất
nuôi trồng thủy sản, tranh chấp về mục đích sử dụng đất giữa đất trồng cây lâu năm
và đất trồng cây hàng năm; tranh chấp phát sinh trong nhóm đất thổ cư như tranh
chấp đất hương hỏa và đất thổ cư hay tranh chấp về mục đích sử dụng đất giữa các
nhóm đất với nhau như chuyển đất nông nghiệp sang thành đất thổ cư không theo
quy hoạch... Các chủ thể của dạng tranh chấp này là người được Nhà nước giao đất
và cơ quan, tổ chức được Nhà nước trao quyền quản lý đất đai.
1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai

Bất cứ hiện tượng tự nhiên, xã hội nào xảy ra cũng đều có nguyên nhân.
TCĐĐ là một hiện tượng xã hội xảy ra với tần suất và mức độ ngày càng phổ biến
và phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả nước, gây ảnh hưởng tiêu cực đến
cuộc sống của các bên tranh chấp và trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, tìm hiểu nguyên
nhân để góp phần hạn chế, tiến tới loại bỏ các nguyên nhân đó sẽ có tác dụng rất lớn
trong việc giải quyết, giảm thiểu tranh chấp. TCĐĐ là những mâu thuẫn, xung đột,
bất đồng về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ quản lý và
SDĐ. Vậy tại sao các chủ thể lại phát sinh những bất đồng, xung đột này? Liệu có


11
phải các tranh chấp nảy sinh hoàn toàn là do ý chí của các bên chủ thể hay còn
những lý do nào khác? Mỗi dạng TCĐĐ đều có những nguyên nhân riêng, nhưng
nhìn chung các TCĐĐ xảy ra đều do những yếu tố khách quan và chủ quan. Có thể
thấy các TCĐĐ ở nước ta do một số nguyên nhân cơ bản sau đây.
1.1.4.1. Nguyên nhân khách quan
Tìm hiểu về TCĐĐ ở nước ta, tác giả nhận thấy loại tranh chấp này bắt
nguồn từ một số nguyên nhân khách quan cơ bản sau:
Một là, chiến tranh kéo dài đã để lại những hậu quả nặng nề cho đất nước
ta. Chính sách, pháp luật về đất đai được ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu của từng
thời kỳ để đảm bảo vừa phục vụ công cuộc kháng chiến cứu nước vừa duy trì, phát
triển đất nước. Do yêu cầu của nhiệm vụ chính trị ở hai miền Nam, Bắc có sự khác
nhau, nên các chính sách, pháp luật về đất đai ở hai miền cũng không giống nhau.
Ở miền Bắc, Đảng và Chính phủ đã tiến hành cải cách ruộng đất, xóa bỏ
chế độ chiếm hữu ruộng đất của thực dân, phong kiến và xác lập quyền sở hữu
ruộng đất cho người nông dân sau khi Cách mạng tháng Tám thành công (tháng 9
năm 1945). Đến năm 1960, chính sách, pháp luật đất đai có sự chuyển biến mạnh
mẽ khi Hiến pháp năm 1959 ra đời xác lập hình thức sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể và sở hữu tư nhân về đất đai. Đất đai được góp vào làm tư liệu sản xuất chung
thông qua con đường hợp tác hóa nông nghiệp với sự ra đời của hàng loạt các hợp

tác xã nông nghiệp3. Hiện nay, rất nhiều các tranh chấp đòi lại đất do đã đóng góp
vào hợp tác xã có nguyên nhân từ thời kỳ này. Trong khi đó ở miền Nam, Chính
phủ cách mạng đã tiến hành chia cấp ruộng đất cho người nông dân hai lần vào các
năm 1940 - 1949 và năm 1954. Tuy nhiên đến cuối năm 1957, ngụy quyền Sài Gòn
đã thực hiện cải cách điền địa, thực hiện việc "truất hữu" đất đai của nông dân nhằm
xóa bỏ thành quả cách mạng về ruộng đất, gây ảnh hưởng đến quyền sở hữu ruộng
đất của người nông dân.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, Nhà nước tiến hành hợp tác hóa nông
nghiệp; đồng thời, thành lập hàng loạt các nông, lâm trường quốc doanh. Các chủ
thể này được giao quản lý diện tích đất lớn nhưng sử dụng không có hiệu quả. Đến
năm 1978 - 1979 và 1982 - 1983, Nhà nước hai lần điều chỉnh ruộng đất, cùng với
chính sách chia cấp đất theo kiểu bình quân đã dẫn đến những xáo trộn lớn về ruộng
đất, về diện tích, ranh giới và mục đích sử dụng đất. Những xáo trộn về chính sách
đất đai trong giai đoạn này, vô hình chung là nguyên nhân nảy sinh nhiều dạng
TCĐĐ. Sau hơn 30 năm đổi mới, bộ mặt đất nước ta đã có một diện mạo mới, to
đẹp hơn, đàng hoàng hơn với nhiều khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu du
lịch mới v.v... được xây dựng. Cùng với đó là sự thu hẹp diện tích đất nông nghiệp,
3. "Báo cáo về nhiệm vụ kế hoạch ba năm (1958-1960) phát triển và cải tạo kinh tế quốc dân",
ngày 17/02/2006.


12
sự gia tăng dân số, vấn đề lao động và việc làm, và đặc biệt là tình trạng "sốt đất"
khi Nhà nước cho phép các giao dịch QSDĐ được tham gia trên thị trường BĐS,
khiến giá đất "leo thang". Gía đất tăng cũng là một tác nhân gây nên tình trạng tranh
chấp, khiếu kiện đất đai căng thẳng, kéo dài.
Hai là, do tác động của cơ chế thị trường đối với đất đai. Kể từ khi nền kinh
tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, dưới tác động của các quy luật khách
quan của kinh tế thị trường, Nhà nước đã thay đổi cơ chế quản lý đất đai: Hộ gia
đình, cá nhân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông nghiệp.

Nhà nước thực hiện việc giao đất, cho thuê đất cho tổ chức hộ gia đình, cá nhân sử
dụng ổn định lâu dài (gọi chung là người sử dụng đất). Người sử dụng đất được
chuyển QSDĐ trong thời hạn sử dụng đất v.v... Những thay đổi này đã trả lại cho
đất đai các giá trị ban đầu vốn có của nó. Người dân nói chung và người sử dụng đất
nói riêng ngày càng nhận thức được giá trị của đất đai. Hơn nữa, trong điều kiện
vốn đất đai là tài nguyên thiên nhiên hữu hạn trong khi nhu cầu sử dụng đất của xã
hội ngày càng tăng (do sự phát triển dân số). Đây là nguyên nhân khách quan phát
sinh TCĐĐ.
Ba là, chính sách, đất đai không nhất quán qua từng thời kỳ. Điều này thể hiện:
Trước khi Hiến pháp năm 1980 ra đời, ở nước ta có các hình thức sở hữu khác nhau về
đất đai. Việc mua bán, chuyển nhượng đất đai không bị pháp luật nghiêm cấm. Sau khi
Hiến pháp năm 1980 ra đời (ngày 18/12/1980) tuyên bố "Đất đai... là của Nhà nước
thuộc sở hữu toàn dân" (Điều 19). Cụ thể hóa quy định này của Hiến pháp năm 1980,
Luật Đất đai năm 1987 nghiêm cấm việc mua bán, chuyển nhượng đất đai, phát canh
thu tô dưới mọi hình thức (Điều 5). Tiếp đó, Luật Đất đai năm 1993 được ban hành
thay thế Luật Đất đai năm 1987 cho phép "người sử dụng đất được chuyển quyền sử
dụng đất trong thời hạn sử dụng đất" (Điều 1) v.v... Chính sự không nhất quán trong
chính sách, pháp luật đất đai qua các thời kỳ vô hình chung phát sinh bất đồng, mâu
thuẫn trong quản lý và sử dụng đất. "Đất đai có nguồn gốc rất đa dạng; chính sách
đất đai thay đổi qua nhiều thời kỳ; chủ trương, chính sách, pháp luật hiện hành về
đất đai còn một số nội dung chưa đủ rõ, chưa phù hợp; việc thể chế hoá còn chậm,
chưa thật đồng bộ. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai và các chính
sách, pháp luật có liên quan chưa nghiêm. Công tác tuyên truyền, giáo dục và quán
triệt các chủ trương, chính sách, pháp luật về đất đai còn kém hiệu quả; việc thực
hiện công khai, minh bạch trong quản lý đất đai chưa tốt"4.
Hơn nữa, TCĐĐ còn có nguyên nhân từ chính sách đất đai thiếu nhất quán
với các chính sách khác và đang trong quá trình biến động. Người viết xin đơn cử
4. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành trung ương khóa XI: Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày
31/10/2012 về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.



13
một dẫn chứng minh hoạ sau. Việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân
trực tiếp sản xuất nông nghiệp sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích nông nghiệp
dựa trên số nhân khẩu nông nghiệp hiện có tại thời điểm giao đất vô tình đã làm nảy
sinh việc vi phạm chính sách sinh đẻ có kế hoạch hoặc gia tăng tình trạng tảo hôn
để tách hộ gia đình mới để được giao thêm đất nông nghiệp…
1.1.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, TCĐĐ còn do một số nguyên nhân
chủ quan gây ra. Các nguyên nhân chủ quan cơ bản này bao gồm:
Một là, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn bộc lộ hạn chế, yếu kém
và buông lỏng trong một thời gian dài.
Do quản lý nhà nước về đất đai còn bộc lộ hạn chế, yếu kém nên hồ sơ, tài
liệu về đất đai không đầy đủ, cập nhật kịp thời những biến động trong quản lý và sử
dụng đất. Hiện nay, nước ta chưa xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về
đất đai đầy đủ, đồng bộ và thống nhất phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về đất
đai. Ý thức kỷ luật trong chấp hành quy hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền
phê duyệt chưa được tôn trọng và tuân thủ. Điều này có nghĩa là quy hoạch sử dụng
đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt bị thay đổi, điều chỉnh tùy tiện với những lý
do không thuyết phục. Có tình trạng lợi ích nhóm chi phối công tác lập, thẩm định, phê
duyệt, điều chỉnh và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Tính công khai minh
bạch thông tin về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa được coi trọng; việc tiếp cận,
tra cứu các thông tin này từ phía người dân, doanh nghiệp gặp không ít khó khăn, trở
ngại; còn tồn tại tình trạng quy hoạch treo. Công tác cấp GCNQSDĐ thực hiện chậm,
chưa hoàn thành dứt điểm trong phạm vi cả nước v.v... "Công tác quản lý nhà nước
về đất đai còn nhiều hạn chế, nhất là trong quy hoạch sử dụng đất, định giá đất, bồi
thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư, các thủ tục hành chính về đất
đai. Lợi ích của Nhà nước và người dân có đất bị thu hồi chưa được bảo đảm tương
xứng; nguồn lực về đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan

trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; việc sử dụng đất nhiều nơi còn lãng phí,
hiệu quả thấp; tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực này còn lớn; thị trường BĐS
phát triển không ổn định, thiếu lành mạnh, giao dịch "ngầm" còn khá phổ biến; tình
hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn diễn biến phức tạp"5.
Hai là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc giải quyết TCĐĐ có lúc, có nơi còn hữu
khuynh mất cảnh giác; việc giải quyết TCĐĐ còn mang nặng ý chí chủ quan, cảm tính
không đúng quy định của pháp luật... Đây là "kẽ hở" để kẻ xấu lợi dụng, kich động, lôi
kéo quần chúng nhân dân khiếu kiện đông người, kéo dài gây mất ổn định chính trị.

5. Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012, Sđd.


14
Ba là, sự hiểu biết pháp luật đất đai và ý thức tôn trọng, chấp hành pháp
luật đất đai của không chỉ một bộ phận nhân dân mà còn của một số cán bộ, đảng
viên, công chức nhà nước, viên chức nhà nước còn hạn chế. "Ý thức chấp hành
pháp luật về đất đai của một bộ phận cán bộ và Nhân dân còn hạn chế. Việc thanh
tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi sai phạm chưa nghiêm. Hiệu lực, hiệu
quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn thấp. Tổ chức bộ máy,
năng lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai và các cơ quan liên quan còn nhiều bất
cập, hạn chế; một bộ phận còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, tham
nhũng"6. Đây cũng là một nguyên nhân gây ra TCĐĐ.
Bốn là, năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước làm nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với đất đai còn hạn chế chưa đáp ứng yêu
cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Điều này thể
hiện cán bộ thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền, giải quyết TCĐĐ thiếu khách
quan, thiên vị, không đúng quy định của pháp luật...
1.1.5. Hậu quả của tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai là hiện tượng xã hội không bình thường; bởi lẽ, chỉ khi
nảy sinh bất đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa hai hay nhiều bên trong

quan hệ đất đai thì mới xuất hiện loại tranh chấp này. Trong nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần ở nước ta thì TCĐĐ xảy ra là điều khó tránh khỏi. TCĐĐ phát
sinh sẽ gây ra một số hậu quả chủ yếu sau đây:
Một là, TCĐĐ là sự tổn thương về quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất đai.
Như phần trên đã đề cập, chỉ khi phát sinh bất đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa
vụ giữa hai hay nhiều bên trong quan hệ đất đai thì mới xuất hiện xung đột, TCĐĐ.
Hai là, TCĐĐ tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị - xã hội. Bởi lẽ,
với một đất nước nông nghiệp có khoảng 70% dân số là nông dân như Việt Nam thì
đất đai có vị trí và tầm quan trọng về nhiều mặt chính trị, kinh tế, xã hội và môi
trường... Nên đất đai là vấn đề nhạy cảm thu hút sự quan tâm của mọi thành viên
trong xã hội. TCĐĐ nếu không được giải quyết kịp thời, nhanh chóng và dứt điểm
sẽ phát triển thành những điểm nóng, đe dọa sự ổn định chính trị - xã hội ở từng địa
phương và trong phạm vi cả nước. Thực tiễn vụ việc TCĐĐ ở số 4 Nhà Chung, số
179 phố Nguyễn Lương Bằng (Hà Nội), vụ việc ở xã Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức,
Hà Nội) v.v... là minh chứng hùng hồn chứng minh cho nhận định của tác giả.
Ba là, TCĐĐ phá vỡ mối quan hệ, tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân; gây
chia rẽ sâu sắc sự bất động giữa các thành viên trong hộ gia đình, dòng họ và cộng
đồng dân cư. Nó khiến quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất đai rơi vào tình trạng tổn
thương, khủng hoảng và mất ổn định xã hội.

6. Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012, Sđd.


15
Bốn là, xét về khía cạnh kinh tế. TCĐĐ gây tốn kém tiền của, thời gian,
công sức và chi phí của xã hội. Điều này thể hiện:
i) Tranh chấp đất đai làm ngưng trệ quá trình sử dụng đất, khiến đất đai bị
bỏ hoang trong một thời gian và không được sử dụng nhằm tạo ra của cải vật chất.
ii) Các bên tranh chấp mất thời gian, công sức và tiền bạc vào cuộc chiến
pháp lý; theo đuổi việc khiếu kiện kéo dài, qua nhiều cấp xét xử. Điều này còn gây

tổn hại về sức khỏe và tinh thần của các bên đương sự.
iii) Các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước có thẩm quyền phải mất
nhiều thời gian, công sức vào việc giải quyết TCĐĐ.
iv) Xã hội phải mất một lượng chi phí thời gian, vật chất vào việc xem xét,
giải quyết TCĐĐ; thay vì khoản tiền này được đầu tư để phát triển sản xuất - kinh
doanh để tạo ra nhiều của cải hơn, tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động...
1.2. Lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Toà án nhân dân
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân
1.2.1.1. Định nghĩa giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân
Tranh chấp là những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng giữa các bên trong một
quan hệ xác định. Giải quyết tranh chấp là giải quyết, hóa giải những mâu thuẫn, bất
đồng, xung đột đó, khiến các bên tranh chấp không còn bất đồng, mâu thuẫn với
nhau nữa. Đó cũng là mục đích cao nhất của việc giải quyết tranh chấp. Nhưng
không phải lúc nào hoạt động giải quyết tranh chấp cũng đạt được kết quả là hóa
giải những bất đồng giữa các bên, bởi khi một bên đạt được lợi ích của mình thì bên
kia sẽ bị đặt ở vị thế bất lợi. Đặc biệt, TCĐĐ liên quan trực tiếp đến một loại tài sản
có giá trị rất lớn đối với mỗi con người và đối với toàn xã hội. Dung hòa được lợi
ích giữa các bên là điều có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì vậy, trong quá trình giải
quyết TCĐĐ, cơ quan có thẩm quyền không chỉ áp dụng các quy định của pháp
luật, chính sách đất đai của Nhà nước qua các thời kỳ mà còn phải đặc biệt lưu ý
đến phong tục, tập quán ở từng địa phương và quá trình sử dụng đất cụ thể của
người dân để đạt được kết quả giải quyết TCĐĐ hợp tình, hợp lý, được các bên tâm
phục, khẩu phục, tự nguyện tuân theo và nhận được sự đồng thuận của cộng đồng dân
cư. Vậy xét dưới góc độ học thuật, giải quyết TCĐĐ là gì?
Theo Từ điển Giải thích Thuật ngữ Luật học do Trường Đại học Luật Hà
Nội biên soạn (năm 1999) thì giải quyết tranh chấp đất đai được hiểu: "Giải quyết
TCĐĐ là giải quyết bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tổ chức trong quá
trình quản lý và sử dụng đất đai và trên cơ sở đó phục hồi các quyền lợi hợp pháp bị
xâm hại; đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật
về đất đai"7. Ở nước ta, giải quyết TCĐĐ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực

7. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999): Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học (Phần Luật Đất đai, Luật lao
động, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.


16
hiện thuộc về hai hệ thống cơ quan nhà nước, bao gồm cơ quan hành chính là
UBND và cơ quan tư pháp là TAND. Sự phân chia về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp có nguyên nhân sâu xa do lịch sử để lại và chính sách, pháp luật đất đai qua
các thời kỳ ở nước ta. TAND là cơ quan xét xử của nước ta, thực hiện quyền tư
pháp8. Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Như vậy, mọi tranh chấp trong xã hội phải được một
cơ quan tài phán độc lập phán xử mói đảm bảo sự công bằng, khách quan, vô tư và
đúng pháp luật. TCĐĐ là một dạng cụ thể của tranh chấp nói chung nên nó là lĩnh
vực thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án.
Nếu như quá trình giải quyết TCĐĐ của UBND được xác định là hoạt động
giải quyết mâu thuẫn bằng con đường hành chính thì quá trình giải quyết TCĐĐ của
TAND được xác định là hoạt động giải quyết thông qua hình thức tố tụng. Bắt đầu từ
khi đương sự nộp đơn khởi kiện tại TAND, đội ngũ cán bộ, công chức của cơ quan
TAND phải xem xét kĩ nội dung đơn khởi kiện để xác định vụ việc có thuộc thẩm
quyền giải quyết của mình hay không? Nếu theo quy định của pháp luật xét thấy vụ
việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì hướng dẫn đương sự nộp đơn và các tài
liệu cần thiết để thụ lý vụ án. Kể từ thời điểm này, quá trình giải quyết TCĐĐ của
TAND được tiến hành theo đúng các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Kết
quả của hoạt động giải quyết tranh chấp tại TAND hay gọi là sản phẩm "đầu ra" của
quá trình xét xử vụ án TCĐĐ là bản án hoặc quyết định của TAND. Nó là sự hàm
chứa công sức, trí tuệ của không chỉ Hội đồng xét xử mà còn của kiểm sát viên, luật
sư, thư ký tòa và những tổ chức, cá nhân có liên quan tham gia vào quá trình tố tụng
thông qua việc tranh tụng công khai tại phiên tòa. Hiến pháp năm 2013 quy định
bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá

nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành
(Điều 106). Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được bảo đảm thi
hành bởi sức mạnh cưỡng chế của quyền lực nhà nước (thông qua cơ quan Thi hành
án dân sự). Vì vậy, hoạt động giải quyết TCĐĐ của TAND có ý nghĩa rất lớn.
Như vậy, thông qua việc phân tích trên, theo tác giả, khái niệm giải quyết
TCĐĐ thông qua TAND được hiểu như sau: Giải quyết TCĐĐ thông qua TAND là
hoạt động tố tụng của cơ quan TAND nhằm mục đích giải quyết những mâu thuẫn,
xung đột, bất đồng về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp
luật đất đai khi người khởi kiện có đủ điều kiện nộp đơn khởi kiện tại Tòa án. Hoạt
động tố tụng của TAND được thực hiện thông qua hành vi tố tụng của đội ngũ cán
bộ, công chức ngành Tòa án và phải tuân theo các quy định của pháp luật. Kết quả

8. Điều 102 Hiến pháp 2013.


17
cuối cùng của hoạt động giải quyết TCĐĐ tại Tòa án là bản án hoặc quyết định có
hiệu lực và được Nhà nước đảm bảo thi hành bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước.
1.2.1.2. Đặc điểm của hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai thông qua
Tòa án nhân dân
Giải quyết TCĐĐ thông qua TAND là một hoạt động cụ thể, một dạng cụ
thể của giải quyết TCĐĐ nói chung do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực
hiện. Vì vậy, bên cạnh những đặc điểm chung của giải quyết TCĐĐ, giải quyết
TCĐĐ thông qua TAND còn có một số đặc điểm riêng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về điều kiện giải quyết TCĐĐ. Vụ việc TCĐĐ thông qua TAND
trước tiên phải trải qua bước hòa giải tiền tố tụng. Điều này có nghĩa là đối với giải
quyết TCĐĐ thông qua TAND muốn được thụ lý thì trước tiên vụ việc tranh chấp
phải được tiến hành hòa giải ở UBND xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND cấp
xã) nơi có đất tranh chấp. Trình tự hòa giải TCĐĐ được thực hiện như sau:
Một là, Nhà nước khuyến khích các bên TCĐĐ tự hòa giải hoặc giải quyết

TCĐĐ thông qua hòa giải ở cơ sở.
Hai là, TCĐĐ mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến
UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
Ba là, Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải TCĐĐ
tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ
chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải TCĐĐ tại UBND cấp xã được thực hiện trong
thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết TCĐĐ.
Bốn là, việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và
có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của UBND cấp xã. Biên bản
hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp.
Năm là, đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về
ranh giới, người sử dụng đất thì UBND cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài
nguyên và Môi trường đối với trường hợp TCĐĐ giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng
dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác.
Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường trình
UBND cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới
GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Thứ hai, hoạt động giải quyết TCĐĐ thông qua TAND mang tính chuyên
nghiệp cao. Bởi lẽ, như phần trên đã đề cập, TAND là cơ quan duy nhất có thẩm
quyền xét xử. Đội ngũ Thẩm phán của TAND các cấp hoạt động chuyên nghiệp,
được đào tạo bài bản có đủ năng lực chuyên môn, kiến thức pháp luật và được trang
bị kỹ năng tranh tụng, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, kỹ năng viết bản án và kỹ năng
xét xử…; Đồng thời, trong hoạt động tố tụng, họ không chỉ tuân thủ pháp luật mà
còn phải tuân thủ bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp của người Thẩm phán.


18
Thứ ba, giải quyết TCĐĐ thông qua TAND được thực hiện thông qua một
quá trình thủ tục tố tụng chặt chẽ do BLTTDS năm 2015 quy định về thời hạn giải

quyết xét xử sở thẩm và thời hạn giải quyết xét xử phúc thẩm; việc xét xử công khai,
phán quyết, bản án của TAND dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa và trải qua các
giai đoạn xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm và thi hành án dân sự v.v...
Thứ tư, giải quyết TCĐĐ thông qua TAND được thực hiện thông các
nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc xét xử qua hai cấp xét xử (xét xử sơ thẩm và xét
xử phúc thẩm); TANDTC không thực hiện chức năng xét xử; xét xử công khai trừ
trường hợp xét xử kín theo quy định của pháp luật; nguyên tắc xét xử có sự tham
gia của luật sư v.v...
Thứ năm, giải quyết TCĐĐ thông qua TAND chịu sự điều chỉnh của Luật
Đất đai năm 2013 và BLTTDS năm 2015.
Luật Đất đai năm 2013 điều chỉnh quan hệ về hòa giải TCĐĐ ở giai đoạn
tiền tố tụng (giai đoạn trước khi khởi kiện vụ việc TCĐĐ tại TAND); quy định về
tính hợp pháp của QSDĐ; quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất v.v...
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 điều chỉnh quan hệ về tố tụng khi TAND
thụ lý, xét xử công khai vụ việc TCĐĐ; trình tự, thủ tục, nguyên tắc xét xử vụ án
TCĐĐ tại TAND v.v...
1.2.2. Mục đích, ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua
Tòa án nhân dân
Như chúng ta đã biết, TCĐĐ xảy ra không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến các
bên tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị - xã hội, đến lợi ích của
Nhà nước, của xã hội và gây khủng hoảng quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất đai v.v...
Vì vậy, giải quyết TCĐĐ nói chung và giải quyết TCĐĐ thông qua TAND là việc
làm mang nhiều ý nghĩa cụ thể sau đây:
Thứ nhất, đối với các bên TCĐĐ.
Giải quyết tranh chấp nhằm mục đích hóa giải những mâu thuẫn, bất đồng,
xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đất đai. Nó
đảm bảo duy trì sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân, tránh gây ra những sứt mẻ về
tình cảm, những tổn thương về tâm lý giữa các thành viên trong gia đình, hàng xóm,
trong cộng đồng dân cư. Mặt khác, giải quyết TCĐĐ nhằm khôi phục và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Thông qua việc làm này giáo dục

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật đất đai không chỉ cho các bên đương sự mà
còn cho mọi người dân nói chung.
Thứ hai, đối với đội ngũ Thẩm phán nói riêng và cơ quan TAND nói chung.
Giải quyết TCĐĐ là một trong những nhiệm vụ của ngành TAND. Nó
thuộc chức năng giải quyết, xét xử các vụ án nói chung và các vụ án dân sự nói
riêng của TAND. Giải quyết tốt TCĐĐ không chỉ giúp TAND hoàn thành nhiệm vụ
mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó mà còn giúp nâng cao uy tín, vị thế của


×