Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.65 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG QUANG HUY

ĐỀ TÀI

NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM HÒA GIẢI
CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hướng nghiên cứu

HÀ NỘI 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG QUANG HUY

ĐỀ TÀI

NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM HÒA GIẢI
CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ



Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hướng nghiên cứu

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình

HÀ NỘI 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Công Bình.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng
và được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.

Tác giả luận văn

Đặng Quang Huy


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

VADS

: Vụ án dân sự

VVDS

: Vụ việc dân sự


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TRÁCH
NHIỆM HÒA GIẢI CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ............... 6
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa
án trong tố tụng dân sự ................................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng
dân sự ............................................................................................................ 6
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố
tụng dân sự .................................................................................................. 10
1.2. Cơ sở của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng
dân sự.............................................................................................................. 14
1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong
tố tụng dân sự .............................................................................................. 14
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án
trong tố tụng dân sự .................................................................................... 17
1.3. Các yếu tố quyết định hiệu quả thực hiện nguyên tắc trách nhiệm
hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự ................................................... 22
1.3.1. Các quy định của pháp luật về hòa giải trong tố tụng dân sự .......... 22
1.3.2. Trình độ, kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vụ và trách nhiệm của cán
bộ Tòa án, đặc biệt là Thẩm phán .............................................................. 23
1.3.3. Nhận thức pháp luật và thái độ của đương sự đối với hòa giải trong
tố tụng dân sự .............................................................................................. 24
1.4. Mối quan hệ của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong
tố tụng dân sự với các nguyên tắc khác của pháp luật tố tụng dân sự .... 24
1.4.1. Mối quan hệ với nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự ...................................................................................................... 24
1.4.2. Mối quan hệ với nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố
tụng dân sự .................................................................................................. 25



1.4.3. Mối quan hệ với nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng ...................................................................... 26
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM HÒA GIẢI
CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH ........................................................ 28
2.1. Trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi cho các
đương sự thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án ...................... 28
2.1.1. Trách nhiệm tiến hành hòa giải vụ việc dân sự của Tòa án ............. 28
2.1.2. Trách nhiệm tạo thuận lợi cho các đương sự thỏa thuận giải quyết vụ
việc dân sự của Tòa án................................................................................ 41
2.2. Việc hòa giải vụ việc dân sự phải theo đúng quy định của pháp luật
Tố tụng dân sự ............................................................................................... 45
2.2.1. Nguyên tắc tiến hành hòa giải .......................................................... 45
2.2.2. Thành phần phiên họp hòa giải ........................................................ 48
2.2.3. Nội dung hòa giải .............................................................................. 54
2.2.4. Trình tự, thủ tục tiến hành hòa giải .................................................. 55
2.2.5. Xử lý kết quả hòa giải ....................................................................... 56
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM
HÒA GIẢI CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VÀ
KIẾN NGHỊ ....................................................................................................... 65
3.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án
trong tố tụng dân sự Việt Nam..................................................................... 65
3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện nguyên tắc trách nhiệm
hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam ................................... 65
3.1.2. Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện nguyên tắc trách nhiệm
hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự ................................................... 67
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện
nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự ............ 72



3.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả nguyên tắc trách nhiệm hòa giải
của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam................................................. 74
3.2.1. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật nguyên tắc trách nhiệm hòa giải
của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam ................................................. 74
3.2.2. Kiến nghị về thực hiện nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án
trong tố tụng dân sự Việt Nam .................................................................... 80
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 86


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong xu thế chung của hội nhập quốc tế, Việt Nam có chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện công cuộc cải cách, đổi mới một cách
toàn diện và sâu sắc theo quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Một
trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp được đề cập trong Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đó là “Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật
dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp”, trong đó khuyến khích việc giải quyết một
số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài và Tòa án hỗ trợ bằng
quyết định công nhận việc giải quyết đó. Hòa giải giúp giải quyết những mâu
thuẫn, tranh chấp trong đời sống xã hội, góp phần giải quyết triệt để những mâu
thuẫn, tranh chấp đó giữa các đương sự nói riêng và xã hội nói chung.
Cụ thể hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW và tiếp nối tinh thần của BLTTDS
(BLTTDS) năm 2004, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm
2011, BLTTDS sự năm 2015 tiếp tục ghi nhận nguyên tắc trách nhiệm hòa giải
của Tòa án trong TTDS (TTDS) như một nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của pháp
luật TTDS. Đồng thời BLTTDS năm 2015 đã có những thay đổi, bổ sung kịp
thời nhằm đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc hòa giải trên thực tế tại Tòa án.
Có thể nhận thấy sau khi ban hành và được áp dụng trên thực tiễn, những

quy định của BLTTDS năm 2015 cụ thể hóa nguyên tắc trách nhiệm hòa giải
của Tòa án trong TTDS còn bộc lộ nhiều vướng mắc và bất cập. Điều đó thể
hiện ở những khía cạnh như sự chưa tương thích với pháp luật dân sự về vấn đề
này; một số quy định còn chưa rõ ràng, cần đợi các văn bản hướng dẫn của
TANDTC (TANDTC) để hướng dẫn thi hành; việc Tòa án thực hiện các thủ tục
hòa giải đã đúng với tinh thần là tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa
thuận với nhau về việc giải quyết vụ án1 và đúng quy định của BLTTDS hay
không. Chính những vấn đề này đã và đang ảnh hưởng đến việc thực hiện tinh
thần của nguyên tắc hòa giải trong TTDS và trực tiếp xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của các đương sự trong vụ việc dân sự.

1

Điều 10 BLTTDS năm 2015


2

Trước tình hình đó, việc nghiên cứu nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của
Tòa án trong TTDS Việt Nam để bảo đảm việc hiểu những tư tưởng và áp dụng
đúng tinh thần của nguyên tắc là một yêu cầu cấp thiết. Chính vì vậy, Học viên
đã lựa chọn đề tài “Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng
dân sự” nghiên cứu làm Luận văn tốt nghiệp của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Hòa giải là một vấn đề quan trọng của TTDS, đã và đang được nhiều nhà
nghiên cứu lý luận và thực tiễn quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu về hòa
giải trong TTDS đã được công bố.
Về luận án, luận văn, có Luận án Tiến sĩ Luật học:“Chế định hòa giải
trong pháp luật TTDS Việt Nam – Cơ sở lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần
Văn Quảng bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004; Luận văn Thạc

sĩ Luật học: “Hòa giải vụ việc dân sự theo pháp luật TTDS Việt Nam” của tác
giả Lê Bích Ngọc bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2013; Luận văn
thạc sĩ luật học: “Hòa giải VADS và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân
trên địa bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Phạm Kim Ngân bảo vệ tại Trường
Đại học Luật Hà Nội năm 2016; Luận văn thạc sĩ luật học: “Hòa giải VADS và
thực tiễn thực hiện tại tỉnh Điện Biên”của tác giả Hà Thị Thanh Thủy bảo vệ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016…
Về các bài viết đăng trên các tạp chí pháp luật, có bài “Điểm mới của
BLTTDS năm 2015 về hòa giải VADS và những nội dung cần hướng dẫn” của
tác giả Bùi Thị Huyền đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 08/2016; bài
“Quy định về hòa giải VADS trong BLTTDS năm 2015 và những nội dung cần
làm rõ” của tác giả Bùi Thị Huyền đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số
12/2016; bài “Đa dạng hóa cách tiếp cận đối với hòa giải vụ án dân sự” của
tác giả Nguyễn Bích Thảo đăng trên Tạp chí Nghề luật số 05/2010; bài “Bình
luận các sai sót từ việc hòa giải thánh một vụ án dân sự” của tác giả Nguyễn
Thị Hạnh và Vũ Thị Hương đăng trên Tạp chí Nghề luật số 03/2017…
Tuy vậy, qua nghiên cứu các công trình đã công bố cho thấy, chưa có
công trình nào nghiên cứu trực tiếp và cụ thể về nguyên tắc trách nhiệm hòa
giải của Tòa án trong TTDS Việt Nam. Vì vậy, có thể nói, luận văn của Học
viên là công trình khoa học nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về


3

nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS Việt Nam.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận về nguyên tắc trách nhiệm
hòa giải của Tòa án trong TTDS, các quy định của pháp luật Việt Nam về
nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS và thực tiễn thực hiện
nguyên tắc này tại các Tòa án Việt Nam.

Tuy vậy, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ Luật học, tác giả chỉ
tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc trách nhiệm
hòa giải của Tòa án trong TTDS, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS và thực tiễn
thực hiện chúng tại các Tòa án Việt Nam trong những năm gần đây. Trong đó,
việc nghiên cứu cũng tập trung chủ yếu vào trách nhiệm hòa giải của Tòa án đối
với vụ án dân sự (VADS) và loại việc dân sự yêu cầu Tòa án công nhận thuận
tình ly hôn. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành qua việc đối chiếu
với các quy định trách nhiệm hòa giải VADS của Tòa án theo pháp luật TTDS
một số nước để đối chiếu, so sánh và tham khảo.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS và xây dựng
nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự khoa học, hợp
lý theo tinh thần cải cách tư pháp. Để đạt được các mục đích nêu trên, việc
nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nguyên tắc trách
nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở của
nguyên tắc, các yếu tố quyết định hiệu quả thực hiện nguyên tắc và mối quan
hệ của nguyên tắc này với các nguyên tắc khác của TTDS.
Thứ hai, phân tích làm rõ được nội dung của nguyên tắc trách nhiệm
hòa giải của Tòa án trong TTDS theo quy định của pháp luật TTDS Việt Nam
hiện hành, cụ thể là các quy định của BLTTDS năm 2015 về nguyên tắc trách
nhiệm hòa giải của Tòa án và đánh giá đúng được thực trạng của chúng.
Thứ ba, khảo sát thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm hòa giải


4

của Tòa án trong TTDS tại các Tòa án Việt Nam, phát hiện ra những vướng

mắc, bất cập trong thực tiễn thực hiện, đồng thời tìm ra các giải pháp nhằm
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn.
5. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, những quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp. Đồng thời, tác
giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như phân tích, chứng
minh, tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu, sử dụng các kết quả
thống kê thực tiễn xét xử của ngành Tòa án.
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về
“Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự”. Ý nghĩa
khoa học và thực tiễn của Luận văn có thể khái quát những điểm sau:
- Luận văn đã luận giải làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc
trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS;
- Luận văn đã phân tích, làm rõ những quy định của BLTTDS năm 2015
về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS và việc thực hiện
trên thực tiễn đồng thời đã chỉ ra những bất cập trong các quy định của pháp luật
về nguyên tắc này và thực tiễn thực hiện làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
giải quyết vụ việc dân sự, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự trong VVDS;
- Luận văn đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS và thực
tiễn thực hiện để nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này tại các Tòa án;
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu,
giảng dạy pháp luật TTDS tại các cơ sở đào tạo luật cũng như trong việc giải
quyết vụ việc dân sự của các Tòa án Việt Nam.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương.



5

Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của
Tòa án trong tố tụng dân sự
Chương 2: Nội dung nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố
tụng dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành
Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa
án trong tố tụng dân sự và một số kiến nghị


6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM
HÒA GIẢI CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của
Tòa án trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố
tụng dân sự
Nguyên tắc, theo cách hiểu chung nhất là “những quy định, phép tắc, tiêu
chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm việc”2. Theo đó, nguyên tắc của một
ngành luật cũng được xây dựng dựa trên những nền tảng này. Dưới góc nhìn
khoa học pháp lý, nguyên tắc được hiểu là những tư tưởng pháp lý mang tính
chỉ đạo có tính chất xuất phát điểm, thể hiện sự toàn diện và có ý nghĩa bao
quát, quyết định sự đúng đắn về nội dung, chất lượng và hiệu quả pháp luật.
Chính vì vậy, bất kì một hoạt động nào muốn đi đúng hướng đều đòi hỏi hoạt
động đó phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Hoạt động TTDS là một
dạng hoạt động tư pháp với nhiệm vụ bảo đảm cho việc giải quyết vụ án tiến

hành được nhanh chóng và đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích của Nhà nước.
Chính vì vậy, hoạt động TTDS phải được tiến hành theo những trình tự,
thủ tục chặt chẽ do pháp luật TTDS quy định dựa trên những nguyên tắc nhất
định. Trong khoa học pháp lý, nguyên tắc của TTDS được hiểu là: “những tư
tưởng chỉ đạo, biểu thị những đặc trưng TTDS, được quy định trong pháp luật
làm nền tảng cho các hoạt động TTDS”3. Qua đó, nguyên tắc của TTDS là
những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo mang tính chất định hướng, chi phối tất cả
các giai đoạn hoặc một số giai đoạn của quá trình TTDS. Những nguyên tắc này
được thể hiện dưới hình thức các quy phạm pháp luật TTDS.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì khái niệm trách nhiệm được hiểu là: “điều
phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình”4. Theo Hán – Việt tân từ
điển thì trách nhiệm được hiểu là “phần việc mà mình phải gánh nhận, và phải
Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr. 1217
Nguyễn Công Bình (1998), Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong
TTDS Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật Học, Hà Nội, tr. 12
4
Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr. 1678
2
3


7

chịu luôn kết quả xấu tốt của việc đó” 5. Trong đời sống xã hội, ở những lĩnh
vực khác nhau, thuật ngữ “trách nhiệm” được dùng theo nhiều nghĩa khác
nhau. Trong khoa học pháp lý, “trách nhiệm” được dùng với cả hai khía cạnh
tích cực và tiêu cực. Ở góc độ tính cực, trách nhiệm có nghĩa là chức trách,
công việc được giao, nó bao hàm cả quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy
định. Ở khía cạnh tiêu cực, trách nhiệm được hiểu là hậu quả bất lợi mà cá nhân

hoặc tố chức phải gánh chịu khi không thực hiện hay thực hiện không đúng
quyền và nghĩa vụ được giao phó6. Chính vì vậy, trách nhiệm của Tòa án có thể
được hiểu là việc Tòa án phải làm, nếu Tòa án không làm, Tòa án sẽ phải chịu
hậu quả về việc không tiến hành đó.
Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án là một nguyên tắc cơ bản và
đặc trưng của pháp luật TTDS, được ghi nhận trong các BLTTDS qua từng thời
kì. Hơn nữa, một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp được đề cập trong
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó là “Hoàn thiện chính sách, pháp luật
hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp”, trong đó khuyến khích
việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài và
Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó7. Có thể thấy, hòa
giải tại Tòa án đóng vai trò hết sức quan trọng và cần thiết.
Trong xu thế chung về hội nhập quốc tế và phát triển, các mối quan hệ
pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động ngày càng đa dạng
và phức tạp. Khi các chủ thể tham gia vào các mối quan hệ pháp luật đó, họ khó
có thể tránh khỏi các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh. Nếu các mâu thuẫn này
không được giải quyết một cách kịp thời sẽ để lại nhiều hệ quả không tốt cho
các bên tham gia vào quan hệ pháp luật nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp trong các mối quan hệ pháp luật
nói trên, các chủ thể quan hệ pháp luật có thể lựa chọn nhiều phương thức giải
quyết tranh chấp khác nhau. Có thể kể đến như tự thương lượng, tự thỏa thuận
Nguyễn Quốc Hùng (1975). Hán Việt Tân từ điển, Nxb. Khai trí, TP Hồ Chí Minh, tr. 485
Nguyễn Cửu Việt (2004). Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội,
tr. 323
7
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội, tr. 7
5
6



8

hoặc hòa giải thông qua bên thứ ba, trọng tài. Trong trường hợp các bên không
thể giải quyết mẫu thuẫn thông qua những phương thức trên, một trong các chủ
thể của quan hệ pháp luật sẽ lựa chọn phương thức khởi kiện để yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Sau khi Tòa án thụ lý, Tòa án sẽ
tiến hành giải quyết vụ việc dân sự theo yêu cầu của đương sự và trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự, hòa giải trong TTDS là một thủ tục tố tụng bắt
buộc đối với hầu hết các vụ việc dân sự. Như vậy, có thể thấy trong trường hợp
các chủ thể lựa chọn việc khởi kiện, yêu cầu tại Tòa án để giải quyết tranh chấp,
yêu cầu của mình, tranh chấp của các bên vẫn có thể được giải quyết thông qua
con đường hòa giải tại Tòa án. Chính vì vậy, cần phải có sự minh thị giữa hai
khái niệm đó là hòa giải và hòa giải trong TTDS.
Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt thì Hòa giải là: “thuyết phục các bên đồng
ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa” 8. Khái niệm này đã làm
rõ được mục đích của hòa giải tuy nhiên lại không đề cập đến chủ thể, bản chất
và nội dung của hòa giải.
Theo cuốn Từ điển luật học Black Law thì hòa giải (mediation) được
hiểu là: “sự can thiệp, sự điều chỉnh, là hành vi của người thứ ba làm trung
gian hòa giải giữa hai bên tranh chấp nhằm dàn xếp, thuyết phục, giải quyết
tranh chấp giữa họ”9. Khái niệm hòa giải theo Từ điển luật học Black Law đã
nêu rõ được hành vi, vai trò trung gian của bên thứ ba trung gian trong hòa giải
giúp đỡ hai bên bằng việc giải thích, đưa ra những lời khuyên dành cho họ để
giải quyết tranh chấp giữa họ. Bên thứ ba ở đây có thể được hiểu là trọng tài
hoặc các hòa giải viên. Tuy nhiên, việc hòa giải thông qua trọng tài hay hòa giải
viên không phải là hòa giải trong TTDS. Hiện nay chưa có một khái niệm cụ
thể về hòa giải trong TTDS mà chỉ đề cập đến hòa giải VADS. Theo tác giả
Nguyễn Ngọc Điệp, Lê Thị Kim Nga, Vũ Mạnh Thông thì “hòa giải là một chế

định quan trọng của Luật TTDS, là phương pháp giải quyết vụ án bằng chính
sự thỏa thuận, thương lượng của các đương sự”10. Quan điểm này của các tác
Viện Ngôn ngữ học (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 340
Henry Campbell Black (1990), Black Law Dictionary, tr. 152, nguyên văn: “Intervention; interposition; the
act of a third person who interferes between two contending parties with a view to reconcile them or persuade
them to adjust or settle their dispute “
10
Nguyễn Ngọc Điệp, Lê Thị Kim Nga, Vũ Mạnh thông (1999), Tìm hiểu ngành luật tố tụng dân sự, Nxb Mũi
Cà Mau, tr. 33
8
9


9

giả đã làm rõ được hòa giải là phương pháp để giải quyết VADS bằng chính sự
thỏa thuận của các đương sự. Song quan điểm này chưa nêu rõ được bản chất,
ai là chủ thể của hòa giải, ai là chủ thể tham gia hòa giải VADS…
Theo ThS. Tống Công Cường thì “hòa giải là việc Tòa án hướng dẫn
các đương sự tự nguyện thỏa thuận giải quyết vụ án”11. Còn theo quan điểm
của Giáo trình Trường Đại học Luật Hà Nội thì “Hòa giải VADS là hoạt động
tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án”12. Hai quan điểm này phần nào đã chỉ rõ hòa giải là một
hoạt động tố tụng trong TTDS, chủ thể tiến hành hòa giải, mục đích của hòa
giải và phần nào bản chất của hòa giải tuy nhiên lại chưa làm rõ được một số
vấn đề như thời điểm tiến hành hòa giải và điều quan trọng nhất đó là có phải
mọi thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án đều được Tòa án chấp
nhận hay không?
Bên cạnh đó, cần phân biệt hòa giải trong TTDS với các loại hình hòa giải
tranh chấp trên thực tế như: hòa giải cơ sở, hòa giải tại UBND, hòa giải tại bên

thứ ba,…Do đều là hòa giải nên giữa hòa giải trong TTDS hay hòa giải ngoài
TTDS đều mang bản chất là hình thức giải quyết tranh chấp và đều mang đặc
điểm chung của hòa giải. Thứ nhất, các hình thức hòa giải kể trên đều là các
biện pháp giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh trong quan hệ dân sự. Thứ
hai, các hình thức hòa giải đều có sự tham gia của chủ thể thứ ba đóng vai trò
trung gian giúp đỡ các bên giải quyết tranh chấp, đúng với định nghĩa hòa giải
(mediation) được định nghĩa trong cuốn Từ điển luật học Black Law là: “sự can
thiệp, sự điều chỉnh, là hành vi của người thứ ba làm trung gian hòa giải giữa
hai bên tranh chấp nhằm dàn xếp, thuyết phục, giải quyết tranh chấp giữa
họ”13.Thứ ba, các bên tranh chấp đều có quyền quyết định tự định đoạt khi tiến
hành giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa giải, bất kể là trong hay ngoài
TTDS. Điểm khác nhau cơ bản giữa hòa giải trong TTDS và hòa giải ngoài
TTDS đó là về chủ thể tiến hành, phạm vi loại việc và hiệu lực thi hành.
Tống Công Cường (2007), Luật tố tụng dân sự Việt Nam nghiên cứu và so sánh, NxbĐại học Quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh, tr. 306
12
Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. CAND, tr. 261
13
Henry Campbell Black (1990), Black Law Dictionary, tr. 152, nguyên văn: “Intervention; interposition; the
act of a third person who interferes between two contending parties with a view to reconcile them or persuade
them to adjust or settle their dispute “
11


10

Từ những phân tích trên, có thể kết luận: “Nguyên tắc trách nhiệm hòa
giải của Tòa án trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản và đặc
trưng trong TTDS, xác định trách nhiệm của Tòa án trong việc hòa giải vụ việc
dân sự theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTDS quy định và tạo điều kiện thuận

lợi cho các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ việc dân
sự trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức
xã hội”.
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố
tụng dân sự
Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS là một nguyên
tắc cơ bản, đặc trưng của pháp luật TTDS đồng thời có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong TTDS. Trong hoạt động tư pháp thì Tòa án giữ vai trò trung tâm và
là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước tiến hành xét xử các vụ việc
dân sự. Trong những năm qua việc hòa giải tại Tòa án đã góp phần giải quyết
được những tranh chấp về các lĩnh vực dân sự tránh được những tranh chấp
nghiêm trọng xảy ra và đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của các đương
sự trong các vụ việc dân sự.
Qua nghiên cứu cho thấy, nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án
trong TTDS có những ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS có ý
nghĩa đối với Tòa án
Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS góp phần tạo cơ
sở pháp lý cho việc tiến hành hòa giải các VVDS tại Tòa án. Việc hòa giải
thành các VVDS sẽ giúp Tòa án sớm giải quyết được VVDS, tránh được những
thủ tục tố tụng kéo dài, phức tạp trong quá trình giải quyết VVDS. Qua đó, Tòa
án sẽ giảm bớt được nhiều thời gian, công sức, tiền bạc cho việc giải quyết
VVDS đồng thời còn giải quyết được mâu thuẫn giữa các đương sự một cách
triệt để. Bên cạnh đó, hòa giải thành là một sự bảo đảm cho việc thi hành
nghiêm chỉnh, nhanh gọn các quyết định của Tòa án. Trong trường hợp hòa giải
thành, mỗi bên đương sự đều thỏa thuận trên cơ sở ý chí tự nguyện và phù hợp
với lợi ích của mình, nên họ tự nguyện trong việc thực hiện các quyết định của
Tòa án. Việc thi hành án do đó không cần sự tác động nào của Tòa án và trở



11

nên đơn giản, dễ dàng hơn, ít để lại hậu quả xấu. Khi các vụ tranh chấp dân sự
được đưa ra xét xử, bản án của Tòa án thường không dễ dàng được các đương
sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chấp nhận và thi hành
nghiêm túc, ngay cả khi nó đã có hiệu lực pháp luật.
Thực tế cho thấy đa số các bản án phải có sự can thiệp mạnh mẽ, dứt
khoát của cơ quan thi hành án thì mới được thực hiện một cách đúng đắn. Rất ít
những trường hợp các bên tự nguyện thi hành bản án của Tòa án. Một trong các
nguyên nhân của hiện tượng đó là do bên bị thi hành án chưa "tâm phục, khẩu
phục" đối với bản án của Tòa án. Họ cho rằng bị xử oan, quyền lợi của họ bị vi
phạm, hoặc cảm thấy bị thua thiệt. Do đó, họ chỉ miễn cưỡng chấp nhận bản án
sau khi đã kháng cáo, khiếu nại nhiều lần. Việc Tòa án tiến hành hòa giải, các
đương sự sẽ tự nguyện thi hành quyết định của Tòa án như một việc đương
nhiên cần phải làm để nhanh chóng kết thúc vụ việc tranh chấp, khắc phục các
hậu quả, thiệt hại để sau đó bắt tay vào việc khôi phục, phát triển các mối quan
hệ trong tương lai.
Khi các bên tranh chấp chấp nhận phương án hòa giải do Thẩm phán
hoặc Hội đồng xét xử của Tòa án đề xuất thì việc Tòa án không phải mở phiên
tòa đã giảm bớt được một cách đáng kể rất nhiều chi phí về thời gian, công sức,
tiền bạc của không chỉ bản thân họ, mà còn giảm bớt được gánh nặng xét xử,
giảm bớt được một phần đáng kể những chi phí của Tòa án (chi phí lấy lời khai,
khảo sát, điều tra, thu thập chứng cứ, chi phí cho việc mở các phiên tòa sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm...). Các quyết định công nhận sự thỏa
thuận của đương sự thường được giải quyết dứt điểm. Việc khiếu nại, kháng
nghị quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ít xảy ra. Trong khi
đó, nhiều vụ án đưa ra xét xử đã bị kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại nhiều lần,
diễn ra kéo dài, phức tạp, tốn kém tiền của, công sức, thời gian của Nhà nước
và đương sự.
Bên cạnh đó, trong trường hợp hòa giải không thành VVDS thì việc Tòa

án đã tổ chức hòa giải cũng giúp cho thẩm phán cũng như các đương sự trong
VVDS đó có cái nhìn rõ hơn, cụ thể hơn nội dung của VVDS với những tình
tiết, mâu thuẫn giữa họ trong đó. Từ đó Thẩm phán củng cố thêm hồ sơ vụ việc,
đưa ra định hướng giải quyết đúng đắn cho vụ việc, nâng cao hiệu quả xét xử.


12

Thứ hai, nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS có ý
nghĩa đối với các đương sự.
Hòa giải VVDS bảo đảm được quyền tự định đoạt của đương sự, là cơ
hội để các đương sự có thể bàn bạc, thỏa thuận với nhau về cách giải quyết
tranh chấp đã phát sinh giữa các bên. Hòa giải tại Tòa án giúp các đương sự
hiểu rõ về quyền tự định đoạt của mình trong quá trình giải quyết tranh chấp tại
Tòa án. Quyền tự định đoạt trong giải quyết tranh chấp thể hiện trước hết ở việc
các đương sự hoàn toàn được tự do thỏa thuận lựa chọn phương thức phù hợp
để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ giữa họ. Đương sự được
lựa chọn các hình thức giải quyết tranh chấp. Nếu tranh chấp được đưa ra Tòa,
thì toàn bộ quy trình, thủ tục giải quyết vụ kiện sẽ phải tuân theo các quy định
của pháp luật TTDS. Trong quy trình đó, Tòa án đại diện cho quyền lực của
Nhà nước sẽ đưa ra các quyết định có liên quan cũng như đưa ra phán quyết
cuối cùng về vụ kiện. Từ đó, việc hòa giải tại Tòa án góp phần nâng cao ý thức
pháp luật của các đương sự. Thông qua việc giải thích pháp luật của Tòa án
trong phiên hòa giải, các đương sự sẽ phần nào hiểu được quy định của pháp
luật về vấn đề mà họ đang tranh chấp. Từ đó, các bên có thể hiểu và tự quyết
định về việc giải quyết tranh chấp, không trái với quy định của pháp luật. Tòa
án sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết VVDS. Việc thỏa thuận như thế nào về việc giải quyết vụ án do chính các
đương sự thực hiện quyền quyết định và tự định đoạt của mình, Tòa án chỉ có
vai trò trung gian, giải thích pháp luật để các đương sự hiểu rõ về quyền và

nghĩa vụ của mình trong VVDS, về tranh chấp giữa các bên, từ đó có thể các
đương sự sẽ thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp và hàn gắn
được phần nào mâu thuẫn giữa họ - điều mà không một bản án nào có thể làm
được. Bởi lẽ, trên thực tế, kể cả khi Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án giải quyết
VADS nhưng một số đương sự vẫn trong trạng thái “không phục” và cố gắng
kháng cáo “cầu may” hoặc không tự nguyện thi hành án. Có thể thấy trong
trường hợp đó, các mâu thuẫn của các đương sự vẫn còn rất gay gắt, chưa thể
hàn gắn được quan hệ giữa họ mặc dù đã có bản án của Tòa án giải quyết tranh
chấp đó. Do đó, hòa giải thành giúp cho việc thi hành án thuận lợi, các cam kết
đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án, nên các đương sự


13

tự giác thi hành các cam kết, mà không cần có sự tác động của cơ quan Nhà
nước, do đó việc thi hành án trở nên đơn giản dễ dàng, nhanh gọn không có
những hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS khẳng định lại
một lần nữa như là một cơ hội để các đương sự ngồi lại với nhau, làm rõ những
tình tiết, sự kiện trong VVDS, từ đó mở ra cơ hội để họ có thể thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết vụ việc. Chính vì những lý do trên, nguyên tắc này
có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các đương sự trong VVDS.
Thứ ba, nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS có ý
nghĩa đối với kinh tế - xã hội.
Đối với việc xét xử VVDS, thời gian, kinh phí tổ chức việc xét xử của
Tòa án và sự tham gia TTDS của đương sự, những người tham gia TTDS là rất
lớn. Khi đã có tranh chấp, thì việc giải quyết tranh chấp bao giờ cũng đòi hỏi
các đương sự, Nhà nước, xã hội phải bỏ ra chi phí thời gian, sức lực, tiền bạc,
mà những chi phí đó nhiều khi rất lớn, do việc giải quyết tranh chấp phải huy
động nhiều cơ quan chức năng, cơ quan chuyên môn và có thẩm quyền, huy

động nhiều người và phương tiện. Những công việc như: Thu thập chứng cứ để
chứng minh và khai báo tại Tòa án, tổ chức các buổi gặp gỡ, tiếp xúc, đối chất
giữa các đương sự và những cơ quan, những người có liên quan... đã làm hao
phí rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc của các đương sự, của xã hội cũng
như của Nhà nước. Với việc Tòa án có trách nhiệm phải tạo điều kiện hòa giải
cho các đương sự sẽ góp phần tạo điều kiện cho họ thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án. Từ đó, Tòa án sẽ sớm kết thúc việc giải quyết VVDS, tiết
kiệm được thời gian, công sức của Tòa án, tiền bạc của Nhà nước. Còn đối với
các đương sự, việc hòa giải thành sẽ giúp cho họ tiết kiệm được thời gian và
những chi phí không cần thiết ở những giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Bên cạnh đó, việc hòa giải VVDS còn giúp Tòa án giải quyết VVDS một
cách thấu tình, đạt lý, củng cố niềm tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của
Tòa án. Đồng thời với việc tham gia vào các phiên hòa giải do Tòa án tiến
hành, các đương sự hiểu biết hơn về pháp luật nói chung, quyền và nghĩa vụ
của bản thân trong VVDS nói riêng, từ đó cùng nhau tháo gỡ những mâu thuẫn,
bất đồng, khôi phục lại tình cảm hoặc ít nhất cũng giúp họ tham gia giải quyết


14

tranh chấp một cách có thiện chí và cởi mở hơn.
Với những kết quả từ việc hòa giải trong TTDS, các đương sự và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tương lai sẽ thận trọng hơn, khôn
ngoan hơn, hành xử, hoạt động kinh doanh, thương mại, trong mối quan hệ xã
hội đúng pháp luật hơn, văn minh hơn, để tránh khỏi những hậu quả nặng nề
như trong quá khứ. Điều đó sẽ góp phần có hiệu quả làm lành mạnh hóa các
quan hệ dân sự, giảm bớt các tranh chấp, mâu thuẫn trong cộng đồng, hoặc nếu
tranh chấp tương tự có xảy ra, thì các đương sự sẽ dựa trên kinh nghiệm thực
tiễn để tìm ra được phương thức giải quyết ổn thỏa, hiệu quả, ít tốn kém. Như
vậy, hòa giải góp phần vào việc giữ gìn an ninh, trật tự, công bằng xã hội, làm

cho mối quan hệ xã hội phát triển không phải bằng mệnh lệnh mà bằng giáo
dục, thuyết phục và sự cảm thông của các thành viên trong xã hội.
Chính vì vậy, nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS
vừa đảm bảo tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và các bên đương sự, giản lược
được các giai đoạn trong quá trình TTDS, đồng thời giải quyết triệt để các mâu
thuẫn giữa các đương sự, tạo một môi trường pháp lý an toàn, góp phần vào
việc giữ an ninh, làm cho mối quan hệ xã hội phát triển không phải bằng mệnh
lệnh mà là bằng sự thương lượng, thuyết phục của các chủ thể quan hệ xã hội.
1.2. Cơ sở của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố
tụng dân sự
1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án
trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của quan hệ pháp luật tranh chấp hay yêu
cầu của các bên đương sự.
Hòa giải không được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự và tố tụng
hành chính. Trong quan hệ pháp luật giải quyết đối với vụ án hình sự là mối
quan hệ giữa Nhà nước với bị can, bị cáo (người thực hiện hành vi phạm tội).
Do đó, bị can, bị cáo không có quyền thỏa thuận với cơ quan đại diện cho Nhà
nước truy tố tội danh cũng như mức hình phạt mà bị can, bị cáo phải chấp hành.
Đối với tố tụng hành chính, mối quan hệ pháp luật cần giải quyết trong vụ án là
mối quan hệ hành chính giữa cơ các cá nhân, cơ quan, tổ chức bị quản lý với


15

các cơ quan Nhà nước thực hiện quyền quản lý Nhà nước có quyết định hành
chính, hành vi hành chính bị kiện. Chính vì vậy, pháp luật không đặt ra vấn đề
hòa giải giữa các chủ thể trong việc giải quyết các quan hệ pháp luật tố tụng
hình sự và tố tụng hành chính.
Đối với quan hệ pháp luật được giải quyết trong các vụ việc dân sự là

quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao
động. Trong quan hệ này, các chủ thể đều bình đẳng, các chủ thể trong quan hệ
này đều có quyền tự mình, bằng hành vi tố tụng của mình để tự dàn xếp, thương
lượng với nhau hoặc thông qua sự giúp đỡ của Tòa án thỏa thuận với nhau về
giải quyết vụ án. Pháp luật khuyến khích và bảo đảm để các đương sự hòa giải
với nhau về việc giải quyết tranh chấp dân sự. BLDS năm 2015 quy định:
“Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định pháp
luật được khuyến khích”14. Như vậy có thể thấy hòa giải là một biện pháp giải
quyết tranh chấp xuất phát từ việc giải quyết các tranh chấp của pháp luật nội
dung và được quy định trong BLTTDS. Hòa giải đã trở thành một nguyên tắc cơ
bản và quan trọng của pháp luật TTDS. Hòa giải như một công cụ để giải quyết
tranh chấp một cách triệt để, hàn gắn mâu thuẫn giữa các chủ thể của quan hệ
pháp luật nội dung có tranh chấp.
Thứ hai, trong TTDS, đương sự có quyền quyết định và tự định đoạt.
Các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại
hoặc lao động có tranh chấp được Tòa án thụ lý giải quyết tranh chấp thì các
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật là các đương sự trong VVDS có quyền tự
định đoạt trong quá trình Tòa án giải quyết VVDS. Theo đó, đương sự có quyền
tự định đoạt trong việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết VVDS của mình,
đồng thời họ có quyền tự định đoạt quyền lợi của mình thông qua việc thỏa
thuận với các đương sự còn lại về việc giải quyết vụ việc dân sự một cách có
thiện chí, tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã
hội tại phiên hòa giải do Tòa án tiến hành.
Do đó, pháp luật TTDS quy định về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của
Tòa án nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể khi tiến hành hoạt động

14

Khoản 2 Điều 7 Bộ luật dân sự năm 2015



16

hòa giải và xác định trách nhiệm của Tòa án trong việc giúp các đương sự thỏa
thuận với nhau, tạo điều kiện để các đương sự thực hiện quyền tự định đoạt về
giải quyết vụ việc dân sự. Việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền tự định
đoạt của đương sự trong TTDS có ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng trong
việc bảo đảm cho các đương sự thực hiện các quyền do pháp luật nội dung quy
định.
Thứ ba, bảo đảm yêu cầu đa dạng biện pháp giải quyết VVDS.
Các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao
động rất đa dạng và phong phú trong đời sống xã hội. Từ đó việc phát sinh các
tranh chấp, mâu thuẫn trong những quan hệ này là điều không thể tránh khỏi.
Mỗi tranh chấp có những nguyên nhân, nội dung, nhận thức của các đương sự
khác nhau. Do đó, đặt ra yêu cầu phải có tính linh hoạt và đa dạng các biện pháp
giải quyết tranh chấp để sớm giải quyết được những mâu thuẫn đó, hàn gắn
được quan hệ giữa những chủ thể của các quan hệ pháp luật nội dung, bảo đảm
trật tự xã hội. Trong trường hợp các bên lựa chọn phương thức khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết tranh chấp giữa họ thì việc áp dụng hòa giải trong giải
quyết VVDS là sự bổ sung cần thiết cho các đương sự về phương thức giải
quyết tranh chấp tại Tòa án ngoài việc xét xử. Hòa giải là “một biện pháp giải
quyết tranh chấp, theo đó, với sự giúp đỡ của bên thứ ba độc lập giữ vai trò
trung gian, các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp cho
phù hợp với quy định của pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội”15. Chính vì
vậy, việc pháp luật TTDS quy định nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án
là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu đa dạng biện pháp giải quyết các VVDS trên
thực tiễn.
Thứ tư, nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án được xây dựng dựa
trên cơ sở đường lối của Đảng về cải cách tư pháp.
Với những ý nghĩa về mặt tố tụng, ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội, việc

xây dựng quy định về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS
là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Việc xây dựng các quy định
về hòa giải được xây dựng trên cơ sở quán triệt tinh thần, tư tưởng chỉ đạo của
Nguyễn Thị Thúy (2014), Hoàn thiện chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn
thạc sỹ luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 8
15


17

Đảng được ghi nhận tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có đoạn
“khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa
giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó” 16.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án
trong tố tụng dân sự
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thực tiễn là tiêu chuẩn,
thước đo của lý luận. Thực tiễn kiểm nghiệm để khẳng định tính đúng đắn, phù
hợp quy luật hoặc bác bỏ một luận điểm nào đó lỗi thời không phù hợp thực
tiễn. Mặt khác, thực tiễn cũng là tấm gương phản chiếu để phát triển lý luận.
Trong đời sống pháp luật, thực tiễn xét xử đã khẳng định hòa giải là một biện
pháp truyền thống quan trọng mang tính phổ biến trong việc giải quyết các
VVDS và việc quy định nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án là phù hợp
với thực tiễn. Điều đó được thể hiện ở những cơ sở sau đây:
Thứ nhất, nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án được dựa trên cơ
sở truyền thống giải quyết tranh chấp của nhân dân ta từ lâu đời.
Nguyên tắc hòa giải được hình thành một cách khách quan trước yêu cầu
của đời sống kinh tế, xã hội và chịu sự tác động sâu sắc của các yếu tố chính trị,
kinh tế, xã hội, tập quán trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Trong lịch
sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, làng xã trong

nền văn minh lúa nước là nơi hội tụ của những người nông dân với một cơ cấu
cộng đồng bền chặt. Ở một vùng đất thiên tai khắc nghiệt và nạn ngoại xâm
luôn rình rập, nhân dân ta luôn ý thức sâu sắc về sức mạnh đoàn kết cộng đồng.
Chỉ có đoàn kết mới có thể đấu tranh chiến thắng thiên tai và dịch họa để tồn tại
và phát triển. Mỗi con người từ khi sinh ra cho đến lúc từ giã cõi đời không thể
sống thiếu tình làng nghĩa xóm.Tuy nhiên, trong cuộc sống thường ngày, mâu
thuẫn tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng là tất yếu
không thể tránh khỏi. Nguyễn Trãi trong "Đại cáo Bình Ngô" đã từng nói: "Việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân". Sự yên dân, xét dưới góc độ theo nghĩa rộng đó
chính là sự hòa bình của dân tộc, nhưng xét dưới góc độ cụ thể "yên dân" ở đây
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội, tr. 7
16


18

chính là sự hòa thuận trong gia đình, họ hàng, đó là sự bình yên, trật tự trong
hàng xóm, trận tự, kỉ cương của toàn xã hội và hòa giải đã trở thành một truyền
thống tốt đẹp, góp phần giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp, củng cố khối đại đoàn
kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam. Hòa giải trở thành một biện pháp quan
trọng trong việc giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn. Thông qua hòa giải, mọi
người thấy được lẽ phải, điều hay, giải quyết kịp thời không để tranh chấp nhỏ
trở thành lớn, đơn giản trở thành phức tạp. Hòa giải góp phần tăng cường sự
hiểu biết và hòa hợp chứ không tăng thêm sự căng thẳng, đối đầu giữa các bên
tranh chấp, góp phần ngăn ngừa sự phát sinh tội phạm và tranh chấp phát triển
phức tạp, giữ gìn sự hòa thuận yên vui cho từng gia đình, làng xóm, sự hòa hợp
của cộng đồng dân tộc, tạo nên nội lực phát triển bền vững của đất nước. Trong
điều kiện đó, nguyên tắc hòa giải đã hình thành một cách khách quan vì nhu cầu
đoàn kết đấu tranh cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân và cộng đồng.

Thật vậy, từ thời kì Hậu Lê, các quy định về vấn đề hòa giải trong hệ
thống pháp luật chưa nhiều nhưng nó đã được các nhà lập pháp nhà Hậu Lê hết
sức chú trọng cả trong tư tưởng cũng như trong các quy định liên quan. Sau khi
lên ngôi vua được 16 năm, ngày 20 tháng 7 năm Hồng Đức thứ 7 (1476) Lê
Thánh Tông đã ban bố lệnh về xét xử việc anh em ruột tranh giành kiện tụng, cụ
thể như sau: "Quan cai trị thường xem nhân tài giỏi hay kém thì biết đời sống
nhân dân sướng hay khổ, muốn cho việc kiện tụng giảm bớt đều do xã trưởng
khuyên giải…"17. Như vậy, có thể thấy nguyên tắc hòa giải đã được hình thành
rất sớm trong hệ thống pháp luật thời kì này, nó xuất phát từ chính yêu cầu của
cuộc sống gia đình, cũng như truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta18.
Tháng 9 năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, việc giữ
gìn truyền thống đoàn kết từ lâu đời, tình cảm giữa người với người là một trong
những mục tiêu được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu. Để giải quyết tốt
các mâu thuẫn thường ngày xảy ra trong đời sống xã hội sao cho có tình có lý
và vẫn giữ gìn được tình đoàn kết dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc là một việc
làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Với ý nghĩa đó, nguyên tắc hòa giải đã
Hồng Đức thiện chính thư, Viện nghiên cứu Hán nôm, Viện khoa học xã hội Việt Nam (2006), Một số văn bản
điểu chế và pháp luật Việt Nam từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, tr. 481
18
Chế định hòa giải trong pháp luật Việt Nam thời kỳ Hậu Lê, truy cập ngày 20/6/2018
17


×