BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÙI LAN OANH
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015
VỀ XÁC ĐỊNH CHỨNG CỨ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN LA
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380103
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS.HOÀNG NGỌC THỈNH
Hà Nội – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường đại học Luật Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Bùi Lan Oanh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH CHỨNG CỨ ...... 5
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ......................................................................... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chứng cứ và xác định chứng cứ trong tố tụng dân sự5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của chứng cứ ..................................................... 5
1.2. Nội dung của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về xác định chứng cứ 17
1.2.1. Xác định chứng cứ từ tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ
liệu điện tử................................................................................................... 17
1.2.2. Xác định chứng cứ từ vật chứng ....................................................... 20
1.2.3.Xác định chứng cứ từ lời khai của đương sự, lời khai của người làm
chứng ........................................................................................................... 21
1.2.4. Xác định chứng cứ từ kết luận giám định ......................................... 24
1.2.5. Xác định chứng cứ từ biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ ......... 25
1.2.6. Xác định chứng cứ từ kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá
tài sản........................................................................................................... 27
1.2.7. Xác định chứng cứ từ văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do
người có chức năng lập tại chỗ ................................................................... 30
1.2.8. Xác định chứng cứ từ văn bản công chứng ...................................... 31
1.2.9. Xác định chứng cứ từ các nguồn khác mà pháp luật có quy định .... 32
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 34
CHƢƠNG 2 THỰC TIỄN XÁC ĐỊNH CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ CỦA CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN LA ................ 35
2.1. Thực tiễn xác định cứ trong tố tụng dân sự của các Tòa án nhân dân ở
tỉnh Sơn La .................................................................................................. 35
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm việc xác định
chứng cứ trong tố tụng dân sự của các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La. .... 49
2.2.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xác định chứng cứ trong tố
tụng dân sự .................................................................................................. 49
2.2.2. Kiến nghị nhằm bảo đảm việc xác định chứng cứ trong tố tụng dân
sự của các Tòa án ở tỉnh Sơn La ................................................................. 53
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 64
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật dân sự
BLTTDS
Bộ luật Tố Tụng dân sự
Luật HNGĐ
Luật Hôn nhân và gia đình
TTDS
Tố tụng dân sự
PLTTDS
Pháp luật Tố tụng dân sự
VADS
Vụ án dân sự
UBND
Ủy ban Nhân dân
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
TAND
Tòa án nhân dân
CHXHCN
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
BA, QĐ
Bản án, Quyết định
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình chứng minh, muốn giải quyết đúng đắn bất cứ một vụ việc
dân sự nào, cần phải xác định được sự thật khách quan hay nói cách khác là
cần phải tìm ra được sự thật của vụ việc để có cơ sở kết luận đúng đắn về vụ
việc đó. Muốn làm được điều đó, cần phải có chứng cứ để chứng minh bản
chất của sự việc. Chứng cứ là phương tiện của việc chứng minh, của việc xác
định các sự kiện có ý nghĩa với việc giải quyết một vụ việc dân sự. Trong suốt
quá trình tố tụng giải quyết một vụ việc dân sự, chứng cứ đóng vai trò hết sức
quan trọng, nó như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả quá trình, từ khi vụ án được
thụ lý cho tới khi được xét xử, tháo gỡ từng nút thắt trong vụ án dân sự và
việc dân sự. Chính bởi tầm quan trọng đó, chứng cứ và chứng minh đã trở
thành một chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, đồng
thời nó cũng trở thành một đề tài nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà
làm luật. Các quy định về chứng cứ và xác định chứng cứ trong BLTTDS
năm 2015 đã được hoàn thiện hơn, đặc biệt trong bối cảnh nguyên tắc bảo
đảm tranh tụng đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, các
quy định của BLTTDS năm 2015 về xác định chứng cứ vẫn bộc lộ những
điểm hạn chế, mâu thuẫn. Thực tiễn xác định chứng cứ của các Tòa án nhân
dân ở tỉnh Sơn La trong những năm qua cho thấy việc áp dụng vẫn còn những
vướng mắc, khó khan, nhiều quy định có các cách hiểu và áp dụng khác nhau.
Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài: “Các quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 về xác định chứng cứ và thực tiễn áp dụng tại các Tòa án
nhân dân ở tỉnh Sơn La” làm đề tài luận văn thạc sĩ ứng dụng của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự không phải vấn đề
mới. Từ trước tới nay, vấn đề này luôn nhận được nhiều sự quan tâm, nghiên
2
cứu của các giảng viên, cán bộ nghiên cứu pháp luật và giới luật gia. Điển
hình là một số công trình nghiên cứu sau đây:
- Luận văn tiến sĩ của tác giả Nguyễn Minh Hằng với đề tài “Hoạt động
cung cấp, thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam” năm 2007;
- Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự theo quy
định của pháp luật Việt Nam - tác giả Lê Thị Giang Yên - Luận văn thạc sĩ –
năm 2007.
- Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự - tác giả Đinh Quốc Trí - Luận văn thạc sĩ - năm 2012.
- Chứng cứ và nghệ thuật chứng minh trong các vụ án dân sự, kinh
doanh thương mai - tác giả Hồ Ngọc Điệp - NXB.Phương Đông – 2007.
- Một vài suy nghĩ về chứng cứ và chứng minh được quy định trong tố
tụng dân sự - tác giả Tưởng Duy Lượng - Tạp chí Tòa án Nhân dân số 20, 21
năm 2004.
- Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự - tác giả Dương Quốc
Thành - Tạp chí Tòa án Nhân dân số 1 năm 2004 v.v..
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Một số vấn đề lý luận và
chứng minh trong tố tụng dân sự” do TS Nguyễn Công Bình làm chủ nhiệm
năm 2012;
- Bài viết “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” của tác giả
Hoàng Ngọc Thỉnh (Tạp chí Luật học)…
Những công trình nghiên cứu trên tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận cơ bản về chứng cứ, chứng minh và phân tích, đánh giá những quy định
của pháp luật Việt Nam về chế định này. Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm này
được viết trước khi Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam được sửa đổi, bổ sung
năm 2015 nên chưa đề cập tới những vấn đề và quy định mới được sửa đổi,
bổ sung.
3
Sau khi BLTTDS 2015 có hiệu lực thi hành đã có cuốn “Bình luận khoa
học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” - Chủ biên TS. Bùi Thị Huyền, Nhà
xuất bản Lao động, năm 2016 và cuốn “”Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015” - Chủ biên PGS.TS. Trần Anh Tuấn, Nhà xuất bản Tư
pháp, năm 2017 đã chỉ ra những điểm mới của BLTTDS năm 2015 về xác
định chứng cứ và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Làm rõ hơn những vấn đề chung về chứng cứ, xác định chứng cứ như
khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chứng cứ và xác định chứng cứ
- Phân tích, đánh giá các quy định của BLTTDS năm 2015 về chứng cứ
và xác định chứng cứ, từ đó chỉ ra những điểm còn hạn chế và chưa hợp lý
trong các quy định pháp luật hiện hành về xác định chứng cứ.
- Đánh giá, những vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn xác định chứng
cứ khi giải quyết các vụ án dân sự của các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La.
Luận văn không đi sâu nghiên cứu về thực tiễn xác định chứng cứ của Tòa án
khi giải quyết việc dân sự.
- Đề xuất được các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm việc
xác định chứng cứ đúng đắn, khách quan, toàn diện trong tố tụng dân sự của
các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La.
Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ ứng dụng, tác giả tập trung nghiên cứu
những vấn đề chung về xác định chứng cứ như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của
chứng cứ, xác định chứng cứ và thực tiễn xác định chứng cứ trong tố tụng dân sự
của các Toàn án nhân dân ở tỉnh Sơn La từ tháng 7/2016 đến nay.
Luận văn cũng chỉ tập trung nghiên cứu về xác định chứng cứ trong giải
quyết các vụ án dân sự theo thủ tục thông thường, không nghiên cứu về xác
định chứng cứ khi giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn, thủ tục giải
quyết việc dân sự và giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài.
4
4. Đối tƣ ng nghi n cứu
Nghiên cứu các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về xác
định chứng cứ. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này tại các
TAND ở tỉnh Sơn La.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về
pháp luật và một số phương pháp khác cụ thể như: phương pháp phân tích
tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp thống kê và tham
khảo các công trình nghiên cứu của các chuyên gia.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 2 chương.
Chương 1. Những vấn đề chung về xác định chứng cứ trong tố tụng dân sự
Chương 2. Thực tiễn xác định chứng cứ trong tố tụng dân sự của các Tòa án
nhân dân ở tỉnh Sơn La và một số kiến nghị.
5
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chứng cứ và xác định chứng cứ trong
tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của chứng cứ
Khi giải quyết được vụ việc dân sự thì mọi sự kiện, tình tiết của vụ việc
dân sự cần phải được làm sáng tỏ. Và để làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ
việc dân sự, Tòa án phải sử dụng chứng cứ do các bên đương sự cung cấp
hoặc Tòa án thu thập. Chứng cứ là một vấn đề trung tâm, cốt lõi trong hoạt
động tố tụng dân sự. Chứng cứ là công cụ giúp các bên đương sự chứng minh
cho các yêu cầu và phản đối yêu cầu của mình và là cơ sở để Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự.
Theo Từ điển Tiếng Việt, chứng cứ là “Cái được dẫn ra để dựa vào đó
mà xác định điều gì đó đúng hay sai, thật hay giả”1. Dưới góc độ luật pháp,
“chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình
tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách
quan của vụ án”2 . Dưới góc độ khoa học pháp lý, “Chứng cứ là cái có thật,
theo một trình tự do luật định được Tòa án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ
việc dân sự.”3
Như vậy, chứng cứ trong vụ việc dân sự là những tin tức, dấu vết về
các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được thể hiện dưới những hình thức
1
Đại Từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, Bộ Giáo dục đào tạo – Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa
Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, tr 415.
2
Điều 93 BLTTDS năm 2015.
3
Giáo trình luật Tố tụng dân sự, trường đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an Nhân dân, năm 2017, tr 169
6
nhất định mà tòa án sử dụng làm cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự. Một
thông tin về vụ việc dân sự chỉ được coi là chứng cứ khi thỏa mãn ba thuộc
tính: khách quan, liên quan, hợp pháp.
Thứ nhất, tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải
là cái có thật, tồn tại ngoài ý muốn của những người tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng. Trong quá trình tố tụng, những người tiến hành
tố tụng và những người tham gia tố tụng không thể tạo ra chúng theo ý muốn
chủ quan của họ mà chỉ có thể thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng
chúng. Chứng cứ có tính khách quan bởi chứng cứ là cơ sở để nhận thức vụ
việc dân sự. Theo lý luận về nhận thức thì người ta chỉ nhận thức đúng bản
chất của sự việc, sự vật khi nó được phản ánh lại một cách khách quan.
Những cái có được là do sự tưởng tượng, hư cấu không bao giờ nói lên được
bản chất sự vật, sự việc và không thể làm cơ sở của nhận thức. Vì vậy, chứng
cứ trong vụ việc dân sự trước tiên phải là những thông tin có thật, tất cả các
thông tin giả mạo về vụ việc dân sự, được tạo ra trái với sự thật khách quan
đều không được coi là chứng cứ
Xác định tính khách quan của chứng cứ, trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự tòa án loại bỏ được những cái không có thật, không sử dụng để giải quyết
vụ việc dân sự bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng,
đúng đắn. Tuy nhiên, có những trường hợp đó là chứng cứ thu thập được là có
thật nhưng chúng lại mâu thuẫn với nhau. Trong những trường hợp như vậy,
đương sự, các cá nhân, cơ quan và tổ chức giao nộp chứng cứ và Tòa án phải
tiếp tục tìm kiếm thông tin khác để làm sáng tỏ vụ việc. Việc đánh giá tính khách
quan của chứng cứ phải dựa vào pháp luật và niềm tin nội tâm xuất phát từ
những kiến thức, kinh nghiệm của người đánh giá chứng cứ.
Những gì thật ở đây được hiểu là các thông tin, tình tiết, sự kiện về vụ
việc dân sự chứ không phải là các tài liệu chứa đựng các thông tin đó. Chẳng
7
hạn, trong một vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà, đương sự xuất
trình cho Tòa án bản hợp đồng gốc có công chứng. Trong trường hợp này, các
thông tin trong nội dung của bản hợp đồng là chứng cứ chứ không phải bản
hợp đồng.
Thông thường các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự đã tồn tại trước
khi vụ việc diễn ra tại Tòa án nên chỉ những gì tồn tại khách quan, phản ánh
đúng bản chất của sự việc mới được Tòa án sử dụng trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự. Bằng các biện pháp khác nhau, Tòa án và các chủ thể khác
tiến hành cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ mà
không thể tạo ra chứng cứ theo ý muốn chủ quan của họ. Ở đây cần phải phân
biệt tính khách quan của chứng cứ và quá trình hình thành chứng cứ. Đa số
các chứng cứ là sản phẩm hành vi của con người tạo ra. Tại thời điểm hình
thành, nó có ý nghĩa xác định một sự kiện, tình tiết nào đó của vụ việc dân sự.
Khi sự kiện, tình tiết đó đã ra đời và được coi là chứng cứ của vụ việc thì nó
lại tồn tại khách quan với ý thức của con người, kể cả người tạo ra nó. Vì vậy,
tất cả những gì mà được chủ thể nào đó do các động cơ khác nhau cố tình tạo
ra với mục đích làm thay đổi hiện tượng, bản chất của sự việc đã diễn ra đều
bị coi là sự kiện giả mạo, tình tiết giả mạo và đều không được coi là chứng
cứ. Người nào đưa ra yêu cầu và cung cấp thông tin giả mạo thì sẽ bị Tòa án
bác yêu cầu vì không có chứng cứ chứ không phải thông tin giả mạo là căn cứ
để Tòa án bác yêu cầu của đương sự.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, mặc dù có tình tiết sự
kiện tồn tại khách quan, phản ánh đúng bản chất của sự việc nhưng theo quy
định của pháp luật chúng lại không được coi là chứng cứ để giải quyết vụ việc
dân sự. Chẳng hạn trong trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học...
Thứ hai, tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải làm
rõ một tình tiết, sự kiện nào đó của đối tượng chứng minh tức là giữa chứng
8
cứ và vụ việc dân sự có mối quan hệ nhất định. Nhờ chứng cứ mà tòa án có
thể rút ra kết luận về một tình tiết, sự kiện này hay tình tiết, sự kiện nào đó
thuộc đối tượng chứng minh của vụ việc dân sự. Chứng cứ có tính liên quan
bởi chứng cứ là cơ sở để Tòa án giải quyết vụ việc dân sự.
Tính liên quan của chứng cứ có thể liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp.
Thông thường, chứng cứ bao gồm những tin tức liên quan trực tiếp tới vụ việc
dân sự. Những thông tin lien quan trực tiếp đến vụ việc dân sự có thể giúp
Tòa án rút ran gay kết luận về đối tượng chứng minh hay thông qua chứng cứ
đó tòa án có thể khẳng định ngay được có hay không tình tiết, sự kiện của vụ
việc dân sự. Chẳng hạn kết luận giám định gien AND có thể giúp Tòa án xác
định cha cho con. Bên cạnh đó, có những thông tin liên quan gián tiếp đến vụ
việc dân sự tức là dựa vào đó Tòa án không thể đưa ra ngay kết luận về đối
tượng chứng minh nhưng nhờ chúng tòa án vẫn có khả năng đưa ra những kết
luận nhất định về vụ việc dân sự đang giải quyết. Trong trường hợp này Tòa
án phải kết hợp nhiều thông tin gián tiếp mới có thể đưa ra một kết luận về
đối tượng chứng minh. Chẳng hạn: Trong tranh chấp xác định cha cho con, bị
đơn chỉ ra rằng mình không có quan hệ với mẹ đứa trẻ vào thời gian có thể
thụ thai vì địa điểm khác nhau. Để chứng minh điều này bị đơn xuất trình giấy
công tác, vé xe, hóa đơn thanh toán tiền nghỉ khách sạn, chỉ ra người biết
được mình ở địa điểm khác vào thời gian mẹ đứa trẻ có thể thụ thai.v..v. Sư
kiện bị đơn ở địa điểm khác không phải là sự kiện mà quan hệ pháp luật giữa
các đương sự trực tiếp liên quan đến. Tuy vậy, nếu những bằng chứng bị đơn
đưa ra là có thực thì sẽ giúp cho tòa án kết luận được bị đơn không phải là cha
của đưa trẻ. Những sự kiện này tuy có tính chất trung gian, gián tiếp liên quan
đến vụ việc dân sự được sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự nên cũng được
coi là chứng cứ. Như vậy, tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở cả hai mặt là
liên quan trực tiếp và liên quan gián tiếp, tức là qua một khâu trung gian. Căn
9
cứ vào tính liên quan của chứng cứ, trong quá trình giải quyết vụ việc, tòa án
có thể loại bỏ được những cái không có tính liên quan tới vụ việc dân sự. Từ
đó, không phải xác minh làm rõ chúng, bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc
dân sự được nhanh chóng, đúng đắn. Ngoài ra, trong tố tụng dân sự người ta
còn sử dụng lý thuyết về suy đoán pháp lý.
Trong tố tụng dân sự người ta còn sử dụng lý thuyết về suy đoán pháp
lý tức là cho phép suy đoán về một tình tiết, sự kiện của vụ việc pháp lý
nhưng chỉ trong những trường hợp pháp luật cho phép. Pháp luật dân sự Việt
Nam cũng thừa nhận lý thuyết về suy đoán pháp lý trong một số trường hợp
như tuyên bố một người là đã chết4 hay vấn đề suy đoán lỗi đối với trường
hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo quy định tại
khoản 2,3 điều 601 Bộ luật dân sự 2015: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao
độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở
hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi
thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi,
trừ trường hợp sau đây…”. Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 cũng suy đoán
về xác định cha cho con5: Trong trường hợp này cha, mẹ không thừa nhận
con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
4
Điều 71 BLDS năm 2015. Tuyên bố chết
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong
trường hợp sau đây:
a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin
tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là
còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt
vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy
định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
5
Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Xác định cha, mẹ
1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ
chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có
thai trong thời kỳ hôn nhân.
10
Thứ ba, chứng cứ có tính hợp pháp của chứng cứ được thể hiện ở chỗ
chứng cứ phải được rút ra từ nguồn chứng cứ và quá trình cung cấp, thu thập,
nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chứng cứ phải theo trình tự do pháp luật quy
định. Bởi thông tin về vụ việc dân sự chỉ có giá trị pháp lý khi được rút ra từ
nguồn chứng cứ và được cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng
theo trình tự do pháp luật quy định mới đảm bảo tính khách quan, mới đảm
bảo tính chính xác, phản ánh đúng bản chất sự việc của thông tin. Trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự, các chủ thể chứng minh phải tuân thủ đúng
các quy định của pháp luật về cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử
dụng chứng cứ. Đối với những gì không được rút ra từ các nguồn do pháp luật
quy địnhhoặc không được thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng theo
đúng quy định của pháp luật thì không được coi là chứng cứ, không được sử
dụng giải quyết vụ việc dân sự. Như vậy, những thông tin về vụ việc dân sự
được coi là chứng cứ phải là những thông tin có đầy đủ cả ba thuộc tính khách
quan, liên quan và hợp pháp.
Những thông tin về vụ việc dân sự được coi là chứng cứ có thể được
các đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự lưu giữ, thu thập và cung cấp cho Tòa án hoặc do Tòa
án thu thập theo yêu cầu của đương sự hoặc chủ động thu thập chứng cứ. Các
bên đương sự có thể có những nghiên cứu, đánh giá và sử dụng các tài liệu
của vụ việc theo quan điểm của riêng mình nhằm mục đích để bảo vệ tốt nhất
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đó, những thông tin mà các bên
đương sự đương sự đưa ra để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình
được gọi là bằng chứng. Tuy nhiên, những thông tin này chỉ được coi là
chứng cứ khi được Tòa án sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự.
Những thông tin, phân tích, lập luận, đánh giá của đương sự và người bảo vệ
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
11
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nếu không được Tòa án sử dụng
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự thì sẽ không được coi là chứng cứ.
Một vấn đề nữa cũng cần phải xem xét ở đây, đó là khái niệm chứng cứ
và nguồn chứng cứ là hai khái niệm khác nhau. Nếu như chứng cứ là các
thông tin về vụ việc dân sự thỏa mãn ba dấu hiệu khách quan, liên quan và
hợp pháp thì vật, tài liệu mà từ đó Tòa án rút ra được các thông tin về vụ việc
dân sự được gọi là nguồn chứng cứ. Nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng các
thông tin về chứng cứ, cho phép có thể thu được chứng cứ, nhận thức được
một cách cụ thể rõ ràng về chứng cứ, là nơi chứa đựng chứng cứ mà từ đó có
thể rút ra được chứng cứ. Tuy nhiên, không phải bất kỳ vật, tài liệu nào do các
bên đương sự cung cấp, thu thập cũng được coi là nguồn chứng cứ mà phải do
pháp luật quy định. Như vậy, có thể thấy nguồn chứng cứ là những hình thức
biểu hiện sự tồn tại của chứng cứ, được quy định bởi các quy phạm pháp luật,
mà từ đó có thể rút ra được chứng cứ. Khái niệm chứng cứ và nguồn chứng
cứ là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Các thông tin về vụ việc dân sự được rút ra từ nguồn chứng cứ, thỏa
mãn ba đặc điểm: khách quan, liên quan, hợp pháp được các đương sự, người
đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
và những người tham gia tố tụng khác thu thập, xuất trình cho Tòa án trong
quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập để chứng mình cho yêu cầu hoặc
phản đối yêu cầu của đương sự. Song, chỉ những thông tin nào được để xác
định các tình tiết, sự kiện của vụ việc cũng như xác định yêu cầu hay phản đối
yêu cầu của đương sự là có căn cứ và hợp pháp thì mới được coi là chứng cứ6.
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam đã xây dựng khái niệm chứng cứ
dựa trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm khoa học về chứng cứ
trong pháp luật tố tụng dân sự ở các nước, đó là xuất phát từ thực tế khách
6
Giáo trình luật Tố tụng dân sự, trường đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an Nhân dân, năm 2017, tr 170.
12
quan của bản thân chứng cứ không lệ thuộc vào ý thức con người; đánh giá
chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, mỗi chứng cứ đều có nguồn gốc dẫn
đến sự hình thành nên nó, sự tồn tại của chứng cứ luôn ở dạng động, liên quan
đến nhau. Từ đó, Điều 93 BLTTDS năm 2015 đưa ra khái niệm chứng cứ như
sau: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình
tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách
quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là
có căn cứ và hợp pháp”.
Khái niệm trên đã được định nghĩa một cách khá đầy đủ, cụ thể và rõ
ràng trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện khái niệm về chứng cứ của BLTTDS
năm 2004 và BLTTDS năm 2011. Khái niệm đều đã nêu lên được bản chất
cũng như những thuộc tính của chứng cứ đó là tính khách quan, tính liên
quan, tính hợp pháp và phải được Tòa án sử dụng để giải quyết vụ việc dân
sự. Trong khái niệm này chứng cứ là những gì có thật phản ánh tính khách
quan của chứng cứ. Tuy nhiên, việc quy định khái niệm chứng cứ như trên
vẫn chưa thực sự toàn diện, chưa cụ thể và chưa bao quát hết các đặc điểm
của chứng cứ, bởi trước hết khi định nghĩa chứng cứ là “những gì có thật” là
chưa cụ thể, trừu tượng. Thông thường để đưa ra một định nghĩa hay khái
niệm người ta thường dung một hình ảnh,một thuật ngữ, một vấn đề đã rõ để
giải thích về một vấn đề cần làm rõ. Song ở đây cụm từ “…là những gì có
thật” còn chung chung, trừu tượng, không cụ thể, không phù hợp để giải thích
một khái niệm pháp lý.
Như đã phân tích ở trên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình
các bên đương sự thường đưa ra các bằng chứng, tài liệu, vật chứng để chứng
minh cho yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Để
13
bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và khách quan, Tòa án cần
phải xác minh, nghiên cứu, đánh giá các thông tin mà đương sự đưa ra là
khách quan, có liên quan và có được cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá,
sử dụng theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định hay không. Do đó,
chứng cứ là các thông tin về vụ việc mà thỏa mãn ba dấu hiệu: khách quan,
liên quan và hợp pháp.
Chứng cứ được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết
khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương
sự là có căn cứ và hợp pháp. Như vậy, nội hàm này của khái niệm đã phản
ánh được tính liên quan của chứng cứ. Bên cạnh đó, chứng cứ được “giao
nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập
được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”. Với nội hàm này của
khái niệm đã phản ánh chứng cứ có thể được đương sự, các cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác như người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người thẩm định
giá, người định giá tài sản giao nộp cho Tòa án hoặc được Tòa án thu thập
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Tuy nhiên với định nghĩa này
chưa phản ánh được đầy đủ thuộc tính hợp pháp của chứng cứ. Như đã phân
tích ở trên, tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện ở chỗ thông tin về vụ việc
dân sự phải được rút ra từ nguồn chứng cứ và không chỉ được giao nộp, cung
cấp, thu thập theo trình tự do pháp luật quy định mà còn phải được nghiên
cứu, đánh giá theo quy định của pháp luật. Do đó, cần hoàn thiện khái niệm
chứng cứ để bảo đảm khái niệm chứng cứ của Điều 93 BLTTDS phản ánh
được đầy đủ ba thuộc tính của chứng cứ.
Từ các phân tích trên có thể rút ra khái niệm về chứng cứ như sau: “Chứng
cứ là những thông tin có thật liên quan đến vụ việc dân sự được rút ra từ nguồn
do pháp luật và được cung cấp, thu thập, nghiên cứu theo một trình tự do pháp
luật quy định được Tòa án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự”.
14
2.1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa của xác định chứng cứ
Lý luận về chứng cứ đã chỉ ra rằng, các chứng cứ của vụ việc dân sự có
thể được phản ánh thông qua ý thức của con người hoặc các sự vật, tài liệu nhất
định. Như vậy, phải thông qua con người, sự vật, tài liệu, Tòa án và những người
tham gia tố tụng mới có thể thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng được chứng
cứ. Con người, sự vật, tài liệu chứa đựng các thông tin về vụ việc dân sự (chứng
cứ) được gọi là nguồn chứng cứ. Chứng cứ được rút ra từ nguồn chứng cứ, vì
vậy, muốn xác định chứng cứ phải thông qua nguồn chứng cứ.
Theo Từ điển Tiếng Việt, xác định là “định ra, định rõ”7 . Như vậy ,
theo nghĩa chung nhất có thể hiểu xác định chứng cứ là việc chỉ ra những
thông tin nào được coi là chứng cứ.
Trong TTDS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình mỗi bên
đương sự đều đưa ra các bằng chứng chứng minh cho yêu cầu của mình là có
căn cứ, hợp pháp đồng thời bác bỏ yêu cầu của đương sự đối lập. Thông
thường, ban đầu khi khởi kiện đến Tòa án, bên cạnh đơn khởi kiện các đương
sự cung cấp cho Tòa án các tài liệu chứng cứ ban đầu để chứng minh cho việc
khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ. Trong suốt quá trình giải quyết vụ
việc dân sự các đương sự lại tiếp tục cung cấp chứng cứ cho Tòa án theo thủ
tục và thời hạn do pháp luật quy định để chứng minh cho yêu cầu hay phản
đối yêu cầu của mình đối với đương sự phía bên kia là có căn cứ và hợp pháp.
Để có các chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, các bên
đương sự phải trải qua quá trình phát hiện, thu thập từ các nguồn khác nhau
như từ vật chứng, lời khai của người làm chứng, yêu cầu cơ quan chuyên môn
giám định, định giá tài sản…. Sau đó, đương sự cung cấp các tài liệu, chứng
cứ này cho Tòa án, đồng thời phân tích, nghiên cứu, đánh giá các thông tin
này để xác định giá trị chứng minh của chúng. Quá trình thu thập, cung cấp,
7
Đại Từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, Bộ Giáo dục đào tạo – Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa
Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, tr 1848.
15
nghiên cứu, đánh giá các tài liệu chứng cứ của các bên đương sự sẽ giúp cho
đương sự xác định được những thông tin có thật, liên quan đến vụ việc, hợp
pháp, có lợi cho mình, từ đó đưa ra phương án sử dụng các thông tin này để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, để đảm bảo cho việc giải quyết vụ
án được chính xác, khách quan thì Tòa án phải thu thập chứng cứ. Điều này
xuất phát từ truyền thống lập pháp, trình độ dân trí, hoặc tài liệu, chứng cứ do
các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ, quản lý mà đương sự không thể
thu thập được hoặc thông tin về vụ việc do các bên cung cấp cho Tòa án mâu
thuẫn nhau hoặc các bên đương sự có các quan điểm đánh giá chứng cứ khác
nhau. Mặt khác, để xác định được chứng cứ hay giá trị chứng minh của chứng
cứ, Tòa án mà cụ thể là Thẩm phán hay Hội đồng xét xử cũng phải trải qua
quá trình nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Trên cơ sở đánh giá khách quan,
toàn diện toàn bộ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự, yêu cầu hay phản
đối yêu cầu của các bên đương sự và các tài liệu chứng cứ trong mối quan hệ
biện chứng với nhau, Tòa án sẽ xác định những thông tin có thật, liên quan
đến vụ việc dân sự, được cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá theo đúng
quy định của pháp luật nào sẽ được sử dụng để làm căn cứ giải quyết vụ việc
dân sự. Điều đó có nghĩa việc sử dụng thông tin nào để giải quyết vụ việc hay
việc xác định là chứng cứ phải do Tòa án quyết định. Bởi như khái niệm về
chứng cứ được đề cập đến ở trên một thông tin về vụ việc dân sự được coi là
chứng cứ khi phải được Tòa án sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự.
Từ các phân tích trên, có thể thấy, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì xác
định chứng cứ là một quá trình truy tìm, phát hiện, thu thập, xác minh, bảo
quản, bảo vệ, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ để giải quyết vụ việc
dân sự. Việc xác định chứng cứ nhằm xác nhận xuất xứ, nguồn gốc của thông
tin, tài liệu, vật chứng, xác nhận tính chân thực, khoa học, tính hợp pháp và
16
tính liên quan của chứng cứ đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. Để xác định
chứng cứ các đương sự và Tòa án phải trải qua quá trình thu thập, cung cấp, bảo
quản, bảo vệ, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Các bên đương sự sẽ
sử dụng các thông tin mà họ cho rằng khách quan, liên quan và hợp pháp để
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, chỉ có
những thông tin khách quan, liên quan, hợp pháp về vụ việc dân sự mà được Tòa
án sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự mới được coi là chứng cứ.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, xác định chứng cứ là việc xác định thông tin
về vụ việc dân sự thỏa mãn ba dấu hiệu khách quan, liên quan, hợp pháp từ
từng loại nguồn chứng cứ cụ thể. Điều 95 của BLTTDS năm 2015 tiếp cận
việc xác định chứng cứ theo nghĩa hẹp này. Và trong giới hạn của luận văn
thạc sĩ luật học ứng dụng, em nghiên cứu về xác định chứng cứ theo nghĩa
hẹp này.
Từ các phân tích, lập luận trên có thể rút ra khái niệm xác địnhchứng
cứ như sau: “ Xác định chứng cứ là việc Tòa án có thẩm quyền định rõ những
thông tin có thật liên quan đến vụ việc dân sự được rút ra từ nguồn do pháp
luật và được cung cấp, thu thập, nghiên cứu theo một trình tự do luật định
dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự”.
Việc xác định chính xác, khách quan có ý nghĩa quan trọng đối với quá
trình giải quyết vụ việc dân sự. Đối với, đương sự, việc xác định chính xác,
khách quan chứng cứ giúp cho quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được
bảo vệ kịp thời, cũng như đương sự phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi đối
với việc đưa ra yêu cầu hay phản đối yêu cầu mà không đưa ra được chứng
cứ. Đối với Tòa án, việc xác định chính xác, khách quan là cơ sở quyết định
bảo đảm tính chính xác, khách quan của bản án, quyết định dân sự, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực dân sự.
17
1.2. Nội dung của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về xác định
chứng cứ
Chứng cứ được rút ra từ nguồn chứng cứ. Như vậy xác định chứng cứ là
xác định những thông tin được rút ra từ nguồn chứng cứ mà thỏa mãn ba dấu
hiệu khách quan, liên quan và hợp pháp. Điều 94 BLTTDS năm 2015 đã liệt
kê cụ thể các loại nguồn chứng cứ và Điều 95 quy định về việc xác định
chứng cứ từ các loại nguồn từ Điều 94 BLTTDS. Tuy nhiên, khi nghiên cứu
Điều 95 BLTTDS, có thể thấy dường như nhà làm luật đã đồng nhất giữa
chứng cứ và nguồn chứng cứ. Bởi nếu các loại được liệt kê tại Điều 94
BLTTDS năm 2015 được xác định là nguồn chứng cứ nhưng đến Điều 95
BLTTDS lại được xác định là chứng cứ. Điều đó thể hiện sự không rõ ràng và
không nhất quán của nhà làm luật nên Điều 95 BLTTDS cần được sửa đổi
cho phù hợp với Điều 94 BLTTDS năm 20158.
1.2.1. Xác định chứng cứ từ tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được,
dữ liệu điện tử.
Không phải bất kỳ một tài liệu nào trên thực tế đọc được, nghe được,
nhìn được cũng được coi là nguồn của chứng cứ, mà chỉ các tài liệu đọc được,
nghe được, nhìn được thỏa mãn các điều kiện nhất định mới được coi là
nguồn của chứng cứ, khi nó có liên quan đến vụ việc dân sự.
- Các tài liệu đọc được: khoản 1 Điều 95 BLTTDS năm 2015 quy định
như sau: “Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính
hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền cung cấp, xác nhận”. Trước đây, theo hướng dẫn tại Nghị
quyết 04 của HĐTPTANDTC ngày 3/12/2012 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết
04/2012/NQ-HĐTPTATC), bản chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng
làm cơ sở lập ra các bản sao. Bản gốc được hiểu là bản viết đầu tiên, là văn
8
Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 – Chủ biên TS. Bùi Thị Huyền, Nhà xuất bản Lao
động, năm 2016
18
bản pháp lý được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. Như vậy, trên cơ sở định
nghĩa này, bản gốc chính là bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. Tuy
nhiên trên thực tế có xảy ra trường hợp đó là vì một lý do nào đó mà bản gốc
không còn, vì vậy thay vì dùng bản gốc, có thể dùng “bản được dùng làm cơ
sở lập ra các bản sao”. Những bản này sẽ không được gọi là bản gốc.
Ví dụ: A và B kết hôn và được cấp giấy đăng ký kết hôn (bản gốc). Vì
xảy ra hỏa hoạn nên giấy này không còn, A đề nghị cơ quan có thẩm quyền
cấp lại giấy đăng ký kết hôn. Giấy đăng ký kết hôn được cấp lại này không
được gọi là bản gốc, mà đó là bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao.
Thông thường khi giao nộp những tài liệu đọc được nội dung thì đương sự
có thể phải giao nộp bản chính của tài liệu đó; trong trường hợp không nộp
chính thì đương sự có thể nộp bản sao các tài liệu đó nhưng phải có công
chứng, chứng thực hợp pháp hoặc bản sao do cơ quan, tố chức có thẩm quyền
cung cấp, xác nhận và Tòa án phải đối chiếu bản sao với bản chính trước khi
nhận. Đối với những trường hợp, đương sự giao nộp cho Tòa án những tài
liệu đọc được nội dung bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải
kèm theo bản dịch sang Tiếng Việt và được công chứng, chứng thực.
Các thông tin về vụ việc dân sự được Tòa án rút ra từ các tài liệu đọc được
nêu trên mà thỏa mãn ba đặc điểm khách quan, liên quan, hợp pháp thì các
thông tin đó được xác định là chứng cứ giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên,
trên thực tế hiện nay nhiều bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng
do quy trình, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng dẫn
đến Tòa án phải hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên thông tin được
rút ra từ đó không được xác định là chứng cứ.
Tuy nhiên, trong trường hợp Tòa án có nghi ngờ về tính xác thực của các
tài liệu đọc được là bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận thì trách nhiệm chứng minh
19
thuộc về ai? Điều này chưa được pháp luật quy định, nên có thể coi đó là một
vướng mắc trong quá trình xác định giá trị chứng minh của các chứng cứ mà
đương sự cũng như những chủ thể khác giao nộp, cung cấp.
- Các tài liệu nghe được, nhìn được: khoản 2 Điều 95 BLTTDS năm
2015 quy định: “Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu
được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất
xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của
người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn
bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó”. Những tài liệu nghe
được, nhìn được ở đây có thể hiểu bao gồm băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi
hình, đĩa ghi hình, phim, ảnh, băng từ, băng video, các phần mềm,… Các tài
liệu nghe được, nhìn được là một nguồn chứng cứ quan trọng vì từ các tài liệu
này, Tòa án có thể rút ra được những tình tức, sự kiện liên quan đến tình tiết
của vụ việc dân sự. Trước đây, theo hướng dẫn tại Nghị quyết 04/2012/NQHĐTPTATC thì “các tài liệu nghe được, nhìn được phải được xuất trình
kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc
liên quan tới việc thu âm, thu hình đó”.
Ví dụ: Trong một tai nạn giao thông, A là người bị hại được một người có
mặt tại hiện trường vụ tai nạn hôm đó cung cấp một băng ghi hình về sự việc
hôm xảy ra tai nạn. Trong trường hợp này, khi giao nộp băng ghi hình đó thì
A phải gửi kèm cho Tòa án bản xác nhận của người cung cấp băng ghi hình
đó về xuất xứ của đoạn băng.
Tuy nhiên, BLTTDS năm 2015 và Nghị quyết 04/2012/NQHĐTPTATC trước đây không có quy định cụ thể về văn bản xác nhận xuất xứ
của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó
nên đương sự có thể ngụy tạo các văn bản này thì các thông tin được rút ra từ
các tài liệu này có giá trị chứng minh hay không là vấn đề còn có các cách
20
hiểu và áp dụng khác nhau. Đặc biệt, đối với các tài liệu nghe được, nhìn
được không nằm trong tay của các đương sự mà do người làm chứng ghi âm,
ghi hình được nên họ sẽ không thể chủ động lập biên bản để xác nhận về việc
ghi âm, ghi hình đó nên rất khó có được văn bản xác, vì thế, những quy định
này cần sửa đổi để tạo thuận lợi hơn cho các chủ thể chứng minh.
- Thông điệp dữ liệu điện tử
Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ
liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình
thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Theo
Luật Giao dịch Điện tử năm 2010 thì thông tin trong thông điệp dữ liệu không
bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể hiện dưới dạng thông
điệp dữ liệu hay nói cách khác thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị
dùng làm chứng cứ chỉ vì đó là một thông điệp dữ liệu. Vì vậy, thông điệp dữ
liệu có giá trị như văn bản pháp lý thông thường. Thông điệp dữ liệu có giá trị
như văn bản gốc nếu nó được bảo đảm toàn vẹn từ khi khởi tạo lần đầu, được
lưu trữ và có thể truy cập được. Như vậy, các thông tin được rút ra từ thông
điệp dữ liệu thỏa mãn ba dấu hiệu khách quan, liên quan và hợp pháp có giá
trị chứng minh và được xác định là chứng cứ.
1.2.2. Xác định chứng cứ từ vật chứng
Khoản 4 Điều 95 BLTTDS quy định: “vật chứng là chứng cứ phải là
hiện vật gốc liên quan đến vụ việc” và nguồn chứng cứ có tính truyền thống.
Vật chứng được hiểu là tất cả những gì tồn tại bên ngoài thế giới khách quan
có hình dáng, kích cỡ…có thể xác định được bằng trực quan từ đó có thể thu
được thông tin về giải quyết vụ việc dân sự mà thỏa mãn ba dấu hiệu khách
quan, liên quan, hợp pháp thì được xác định là chứng cứ vật chứng. Do đó,
nếu quy định “vật chứng là chứng cứ” là không chính xác mà vật chứng là
nguồn chứng cứ, còn thông tin, dấu vết thu được từ vật chứng mới được xác
định là chứng cứ.
21
Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, không phải tất cả vật mà
đương sự cung cấp đều có thể là nguồn chứng cứ hay các thông tin được rút
ra từ các vật này đều được coi là chứng cứ mà nó phải thỏa mãn một số yêu
cầu nhất định bên cạnh việc thỏa mãn những thuộc tính của chứng cứ nói
chung theo quy định của BLTTDS. Để có thể là vật chứng trong vụ việc dân
sự có giá trị chứng minh, vật đó phải là hiện vật gốc chứa đựng chứng cứ mà
không phải các hiện vật được sao chép, mô phỏng. Mọi sự sao chép, tái hiện
lại vật chứng, vật được sao chép đó không được xem là vật chứng. Như vậy,
vật đó phải có tính đặc định và phải liên quan đến vụ việc dân sự, nếu “sao
chép” tái hiện lại vật chứng thì vật sao chép đó không được gọi là vật chứng.
Khi xác định vật chứng cũng cần phân biệt đâu là nguồn chứng cứ và đâu là
chứng cứ. Ví dụ: trong trường hợp A và B tranh chấp với nhau chiếc xe máy
thì chiếc xe đó là vật chứng, còn các thông tin về chiếc xe như chủng loại,
màu sắc, số khung, số máy, dấu vết trên chiếc xe đó thỏa mãn ba dấu hiệu
khách quan, liên quan, hợp pháp được xác định là chứng cứ. Tuy nhiên, quá
trình thu thập vật chứng và chứng cứ cần phải bảo đảm các trình tự, thủ tục
luật định đồng thời phải thực hiện tốt việc bảo quản, giữ gìn tài sản nhằm giữ
được tính đặc định của vật chứng.
1.2.3. Xác định chứng cứ từ lời khai của đương sự, lời khai của người
làm chứng
- Xác định chứng cứ từ lời khai của đương sự
Đương sự trong vụ việc dân sự là chủ thể có quyền và lợi ích liên quan
trực tiếp đến sự kiện hay quan hệ pháp luật đang có tranh chấp. Họ tham gia
trực tiếp vào quan hệ pháp luật đó để bảo vệ quyền lợi của chính mình. Lời
khai của đương sự thường được dựa trên trí nhớ của họ về một sự kiện đã xảy
ra trong quá khứ. Vì thế có thể có những sự việc mà đương sự nhớ không
chính xác dẫn đến lời khai ít nhiều có thể bị sai lệch, tính xác thực không cao.