Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Áp dụng căn cứ ly hôn giải quyết các trường hợp ly hôn theo luật định tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.66 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TUẤN ANH

ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN GIẢI QUYẾT
CÁC TRƢỜNG HỢP LY HÔN THEO LUẬT ĐỊNH
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2018

1


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ
đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành Luận văn này.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy (cô) giáo trong
trường và các thầy cô trong thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tại trường và về nguồn học liệu trong suốt
quá trình làm Luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn: gia đình và bạn bè đã luôn động viên, ủng
hộ, giúp tôi về mọi mặt để hoàn thành Luận văn này.

Học viên


Nguyễn Tuấn Anh

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ - Giảng viên Khoa
Pháp luật dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN
HƢỚNG DẪN

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Tuấn Anh

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS:
BLTTDS:
HĐXX:
HN&GĐ:
TAND:
TANDTC:

TTLT:

Bộ luật Dân sự
Bộ luật Tố tụng Dân sự
Hội đồng xét xử
Hôn nhân và gia đình
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tối cao
Thông tư liên tịch

4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1 MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN GIẢI
QUYẾT CÁC TRƢỜNG HỢP LY HÔN THEO LUẬT ĐỊNH ........................ 7
1.1. Khái niệm ly hôn và căn cứ ly hôn .......................................................... 7
1.1.1. Khái niệm ly hôn ................................................................................................ 7
1.1.1.1. Quyền yêu cầu ly hôn là quyền nhân thân của vợ, chồng được pháp
luật thừa nhận và bảo hộ ……………………………………………………..8
1.1.1.2. Quy định mở rộng quyền yêu cầu ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014……………………………………………………………….10
1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn ................................................................................. 12
1.1.2.1. Khái niệm căn cứ ly hôn..................................................................... 14
1.1.2.2. Nội dung căn cứ ly hôn ...................................................................... 25
1.2. Khái niệm và đặc điểm của áp dụng căn cứ ly hôn giải quyết các
trƣờng hợp ly hôn theo luật định ................................................................. 35
1.2.1. Khái niệm áp dụng căn cứ ly hôn giải quyết các trƣờng hợp ly hôn theo
luật định ....................................................................................................................... 35

1.2.2. Đặc điểm của áp dụng căn cứ ly hôn giải quyết các trƣờng hợp ly hôn
theo luật định .............................................................................................................. 36
1.2.2.1. Áp dụng pháp luật về căn cứ ly hôn là một quá trình nhận thức, đánh
giá về thực trạng quan hệ hôn nhân đã đến mức vợ chồng cần phải ly hôn hay
chưa………………………………………………………………………….37
1.2.2.2. Áp dụng pháp luật về căn cứ ly hôn bằng phán quyết của Tòa án….42
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 46
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN GIẢI QUYẾT
CÁC TRƢỜNG HỢP LY HÔN THEO LUẬT ĐỊNH TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI..................................... 47

5


2.1. Thực tiến áp dụng căn cứ ly hôn giải quyết các trƣờng hợp ly hôn
theo luật định tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội
những năm qua .............................................................................................. 47
2.1.1.Áp dụng căn cứ ly hôn giải quyết các trƣờng hợp thuận tình ly hôn..... 48
2.1.2. Áp dụng căn cứ ly hôn giải quyết các trƣờng hợp ly hôn theo yêu cầu
của một bên vợ, chồng............................................................................................... 50
2.1.3. Thuận lợi áp dụng căn cứ ly hôn giải quyết các trƣờng hợp ly hôn theo
luật định tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội ............ .53
2.1.4. Khó khăn áp dụng căn cứ ly hôn giải quyết các trƣờng hợp ly hôn theo
luật định tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội. ............ 54
2.2. Một số kiến nghị áp dụng căn cứ ly hôn theo luật định tại Tòa án
nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội ....................................... 58
2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nội dung căn cứ ly hôn ..................... 58
2.2.2. Kiến nghị giải pháp giải quyết các trƣờng hợp ly hôn theo đúng bản
chất hôn nhân tan vỡ ................................................................................................. 60
2.2.3. Đào tạo, bồi dƣỡng, nâng cao hơn nữa nhận thức, năng lực, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm phán ................................................................ 63
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 64
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 1

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) là hiện tượng xã hội, phát sinh và phát
triển cùng với sự phát triển của xã hội. Học thuyết Mác Lê Nin đã chỉ rõ:
Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước luôn bằng pháp luật điều chỉnh các quan
hệ HN&GĐ nhằm bảo đảm lợi ích của gia đình và xã hội. Hôn nhân là sự liên
kết đặc biệt giữa hai người có mong muốn tạo lập một cuộc sống chung của
vợ chồng, giữa một người nam và một người nữ khi đáp ứng đủ các điều kiện
kết hôn được quy định tại Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014.
Thuật ngữ “hôn nhân” được giải thích tại khoản 1 Điều 3 Luật HN&GĐ
năm 2014: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Việc kết
hôn phải được đăng ký và thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo
quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 và Luật Hộ tịch năm 2014.1
Trong quan hệ hôn nhân, việc kết hôn là tiền đề của việc xác lập quan
hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận thông qua việc cấp giấy
Chứng nhận kết hôn để hình thành nên quan hệ hôn nhân. Trong quan hệ
HN&GĐ, yếu tố tình cảm và sự gắn bó giữa các chủ thể trong quan hệ này là
một nét đặc trưng khác biệt rất lớn so với các quan hệ dân sự thông thường.
Trong rất nhiều trường hợp, yếu tố tình cảm là yếu tố chính để chủ thể quyết
định việc xác lập, tồn tại hay chấm dứt quan hệ HN&GĐ.
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội chịu sự tác động, chi phối bởi nhiều
yếu tố. Hôn nhân phải bảo đảm quyền tự do kết hôn của nam, nữ nhằm xác

lập quan hệ vợ chồng, chung sống với nhau suốt đời và quyền tự do ly hôn
của vợ chồng nhằm chấm dứt quan hệ hôn nhân. Khi quan hệ hôn nhân đã
thực sự tan vỡ, sự tồn tại của nó chỉ là “bề ngoài và giả dối”.
Ly hôn được xem là mặt trái, mặt bất bình thường của quan hệ hôn
nhân nhưng không thể thiếu khi quan hệ hôn nhân giữa người vợ và người
1

Điều 9 Luật HN&GĐ năm 2014;

1


chồng đã thực sự tan vỡ, không thể hàn gắn được. Trong trường hợp này, việc
ly hôn sẽ giải phóng cho vợ chồng và những thành viên gia đình thoát khỏi
những mâu thuẫn, xung đột cũng như giải thoát cho nhau khỏi sự đau khổ cả
về mặt tình thần cũng như thể xác.
Ly hôn phải dựa trên bản chất là quan hệ hôn nhân đã thực sự đổ vỡ,
hôn nhân thực sự đã “chết”. Việc ly hôn không phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của vợ và chồng hay ý chí của bất cứ một ai khác. Pháp luật về căn cứ ly hôn
phải theo đúng bản chất của hôn nhân đã tan vỡ. Quyền tự do ly hôn chính
đáng của vợ chồng được Nhà nước bằng pháp luật tôn trọng và bảo hộ; nhưng
cũng bằng pháp luật để Nhà nước kiểm soát quyền tự do ly hôn đó. Bởi lẽ,
giải quyết ly hôn luôn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ
chồng, gia đình và xã hội. Theo Lê Nin: “Thực ra tự do ly hôn tuyệt không có
nghĩa là làm “tan rã” những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố
những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể
có và vững chắc cho một xã hội văn minh”.2
Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử các vụ án ly hôn tại TAND quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội những năm qua cho thấy, quy định về căn cứ ly hôn
theo Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn còn trừu tượng, có tính chất chung chung

khó áp dụng và dễ tùy tiện. Nhiều vụ việc ly hôn với những tình tiết giống
nhau nhưng khi giải quyết, Tòa án lại cho kết quả khác nhau: có trường hợp
Tòa án giải quyết ly hôn, có trường hợp lại xử bác yêu cầu ly hôn của vợ
chồng. Hiện nay, vẫn còn thiếu các quy định cụ thể và giải thích về nội dung
căn cứ ly hôn từ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã dẫn đến thực tiễn áp
dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn theo luật định thiếu
tính thống nhất, dễ tùy tiện khi xét xử, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự, gia đình và xã hội. Tình hình đó đòi hỏi cần phải nghiên cứu về
nội dung căn cứ ly hôn và áp dụng căn cứ ly hôn giải quyết các trường hợp ly
hôn theo Luật HN&GĐ hiện hành.
2

V.I.Lênin, “Về quyền dân tộc tự quyết”, Toàn tập, Tập 25, Nxb Tiến bộ,
Matxcova 1980, tr.335;

2


Đề tài “Áp dụng căn cứ ly hôn giải quyết các trường hợp ly hôn theo
luật định tại Toà án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực, bên cạnh những kết quả
đạt được trong việc giải quyết các vụ việc HN&GĐ thì việc áp dụng căn cứ ly
hôn vẫn còn tồn tại một số bất cập, vướng mắc. Mặc dù đã có một số văn bản
hướng dẫn Luật HN&GĐ năm 2014 nhưng những hướng dẫn này còn mang tính
hình thức, chưa được cụ thể, chi tiết. Nội dung căn cứ ly hôn chỉ mang tính định
tính, chưa được lượng hóa cụ thể và hướng dẫn chi tiết nên dẫn tới cùng một tính
chất vụ việc giống nhau nhưng với những thẩm phán trực tiếp giải quyết đôi khi
lại có cách giải quyết vụ việc khác nhau và chưa thống nhất, đồng bộ trong

ngành Tòa án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Một số trường hợp, các thẩm phán giải quyết các vụ việc ly hôn vẫn
còn có sự nhầm lẫn giữa căn cứ ly hôn với nguyên nhân ly hôn, động cơ ly
hôn, dẫn đến chưa đảm bảo tốt nhất quyền lợi của vợ chồng, gia đình và xã
hội trong quan hệ hôn nhân, gia đình.
Trong cuộc hội thảo về Luật HN&GĐ năm 2014 tại Trường Đại học
Luật Hà Nội đã xác định: “Mặc dù Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định căn
cứ ly hôn có kết hợp xem xét đến yếu tố lỗi của các bên nhưng lỗi chỉ được
xem xét với tư cách là nguyên nhân dẫn đến tình trạng vợ chồng trầm trọng,
đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do
vậy, việc vận dụng căn cứ để giải quyết ly hôn trên thực tế không đơn giản.
Trên thực tế, khi giải quyết ly hôn, Tòa án phải cân nhắc rất thận trọng để
giải quyết cho các bên ly hôn, bảo đảm quyền tự do ly hôn của một bên nhưng
phù hợp với quy định của pháp luật về căn cứ ly hôn”. 3
3

Đại học Luật Hà Nội (2017) - Hội thảo khoa học: Một số vấn đề về thực hiện
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ngày 15/06/2017, Hà Nội;

3


Sau khi Luật HN&GĐ năm 2014 được ban hành, đã có một số công
trình khoa học nghiên cứu về căn cứ ly hôn.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai với đề tài “Căn cứ
ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014”. Nội dung chủ yếu tại luận
văn này, tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai đã đánh giá và phân tích áp dụng các
căn cứ ly hôn để giải quyết các vụ việc ly hôn.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Inthavong Souphaphone năm 2014 với đề
tài “Căn cứ ly hôn - So sánh pháp luật Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam

với pháp luật Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào”. Trong luận văn này, tác giả
Inthavong Souphaphone đã nghiên cứu, so sánh, phân tích và đối chiếu các
quy định về căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp luật của Lào và Việt Nam về
căn cứ ly hôn.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Nông Thị Nhung năm 2014 với đề tài
“Căn cứ ly hôn - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại tỉnh Lạng Sơn”. Trong
luận văn này, tác giả Nông Thị Nhung đã nghiên cứu, phân tích và đánh giá
thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn tại các
Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Bài viết của tác giả Lê Đức Hiển trên tạp chí Dân chủ & Pháp luật với
đề tài “Hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn trong Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014” đã đưa ra một số đề xuất để hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly
hôn trong việc giải quyết các vụ việc ly hôn tại các Tòa án.
Có thể nói, chưa có công trình nghiên cứu nào về “Áp dụng căn cứ ly
hôn giải quyết các trường hợp ly hôn theo luật định tại Toà án nhân dân quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội”. Đề tài luận văn đề cập đến vấn đề lý luận,
nghiên cứu về nội dung căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 và vấn đề
thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn giải quyết trường hợp vợ chồng thuận tình ly
hôn hoặc một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn tại TAND quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội.

4


3. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu các quy định của pháp luật
HN&GĐ hiện hành về căn cứ ly hôn và vấn đề áp dụng căn cứ ly hôn để giải
quyết các trường hợp ly hôn theo luật định.
Mục đích nghiên cứu: Làm sáng tỏ quy định của pháp luật HN&GĐ hiện
hành về nội dung căn cứ ly hôn để áp dụng chính xác khi giải quyết các trường

hợp ly hôn theo luật định (thuận tình ly hôn và ly hôn do một bên vợ, chồng yêu
cầu). Thông qua việc nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn áp dụng, luận văn
phát hiện những hạn chế, bất cập để từ đó có kiến nghị hoàn thiện quy định của
pháp luật và thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn hiện nay trong ngành Tòa án nói
chung và tại TAND quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu về nội dung căn cứ ly hôn và áp dụng căn cứ ly
hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn theo luật định (trường hợp vợ chồng
thuận tình ly hôn và trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ, chồng).
Luận văn không nghiên cứu vấn đề áp dụng căn cứ ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Luận văn đề cập nghiên cứu áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các trường
hợp ly hôn theo luật định tại TAND quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và pháp
luật điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ. Luận văn đã sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu truyền thống và cụ thể như phương pháp phân tích, lịch sử,
thống kê, tổng hợp ... để giải quyết các nội dung trong luận văn.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài.
Luận văn đã phân tích nội dung căn cứ ly hôn với những nhận thức,
quan điểm mới (chưa có các văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
quy định hoặc hướng dẫn áp dụng cụ thể vấn đề này). Trên cơ sở nghiên cứu
nội dung và thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các trường hợp ly

5


hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014: phát hiện những vướng mắc, bất cập từ quy
định của pháp luật và thực tiễn áp dụng; từ đó luận giải một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về vấn đề này.

Luận văn có thể được sử dụng trong các cơ sở nghiên cứu, đào tạo pháp
luật về lĩnh vực HN&GĐ, trong đó có các nội dung về căn cứ ly hôn và thực
tiễn áp dụng căn cứ ly hôn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục và tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu làm hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về căn cứ ly hôn và áp dụng pháp luật
về căn cứ ly hôn.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về căn cứ ly hôn tại Tòa án
nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

6


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN GIẢI QUYẾT
CÁC TRƢỜNG HỢP LY HÔN THEO LUẬT ĐỊNH
1.1. Khái niệm ly hôn và căn cứ ly hôn
1.1.1. Khái niệm ly hôn
Khái niệm ly hôn được định nghĩa trong nhiều văn bản. Theo từ điển
Từ và ngữ Việt Nam, ly hôn được định nghĩa: “vợ chồng bỏ nhau” 4. Trong từ
điển Luật học của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp lại định nghĩa: “Ly
hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo
yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”5. Khoản 14 Điều 3 Luật
HN&GĐ năm 2014 giải thích về ly hôn: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ
chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”.
Kết hôn và ly hôn là hai mặt trái ngược của quan hệ hôn nhân. Ly hôn
là sự chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa hai người vợ và chồng. Việc hình thành
mối quan hệ hôn nhân giữa hai người được Nhà nước công nhận thông qua
việc kết hôn. Vì vậy để chấm dứt mối quan hệ hôn nhân cũng cần được Nhà

nước công nhận bởi cơ quan có thẩm quyền là Tòa án bằng quyết định công
nhận thuận tình ly hôn hoặc bản án xử ly hôn.
Trong quan hệ hôn nhân, khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ,
không thể hàn gắn được thì ly hôn có thể là một trong những giải pháp tốt
nhất để giải thoát những xung đột không đáng có trong cuộc sống hôn nhân.
Tuy nhiên, mặt trái của ly hôn cũng tác động tiêu cực đến lợi ích của vợ
chồng, thành viên gia đình và xã hội.
Khái niệm ly hôn có một ý nghĩa rất quan trọng trong khoa học pháp lý
nói chung và khoa học Luật HN&GĐ nói riêng. Khái niệm đó cần phản ánh
được quan điểm của Nhà nước về ly hôn, tạo tiền đề lý luận cho việc xác định
bản chất của ly hôn, căn cứ để giải quyết ly hôn và các vấn đề phát sinh khác.
4

Nguyễn Lân (2006), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp TP Hồ Chí
Minh, tr.1057;
5

Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb từ điển Bách Khoa,
Nxb Tư pháp, tr 460;

7


Việc Tòa án quyết định cho vợ chồng ly hôn hay bác đơn yêu cầu ly hôn
cũng phải dựa trên cơ sở áp dụng chính xác căn cứ ly hôn để giải quyết các
trường hợp ly hôn. Tuy nhiên, việc đánh giá đúng bản chất quan hệ hôn nhân
như thế nào là đã ở vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo
dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” và quan hệ hôn nhân đã đổ vỡ,
không thể hàn gắn được là một vấn đề nhạy cảm, hết sức khó khăn và phức tạp.
Theo tác giả, có thể khái niệm về ly hôn (với ý nghĩa là một thuật ngữ

pháp lý) như sau: “Ly hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật”.
Còn với ý nghĩa là một chế định của Luật HN&GĐ thì “ly hôn là quyền nhân
thân của vợ, chồng được pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện bằng
quyết định công nhận thuận tình ly hôn hoặc bản án xử ly hôn của Tòa án có
hiệu lực pháp luật”.
1.1.1.1. Quyền yêu cầu ly hôn là quyền nhân thân của vợ, chồng được pháp
luật thừa nhận và bảo hộ
Quyền yêu cầu ly hôn là một trong những quyền dân sự cơ bản của vợ,
chồng được quy định trong BLDS năm 2015 và Luật HN&GĐ năm 2014.
Điều 39 BLDS năm 2015 quy định: “1. Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn,
quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được
nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong
quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia
đình. Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều
có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình. 2. Cá nhân thực
hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật
này, Luật Hôn nhân và gia đình và luật khác có liên quan”.
Luật HN&GĐ năm 2014 đã cụ thể hoá về quyền yêu cầu ly hôn của vợ,
chồng tại Khoản 1 Điều 51: “1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết ly hôn”. Với những điều luật dẫn chiếu nêu trên, tác giả
hiểu rằng: quyền yêu cầu ly hôn là quyền nhân thân gắn với cá nhân vợ,
chồng. Thông thường, chỉ có vợ hoặc chồng hay cả hai vợ chồng mới có
quyền yêu cầu ly hôn.

8


Cả vợ và chồng đều có quyền được yêu cầu ly hôn trong trường hợp ly
hôn theo yêu cầu của một bên hoặc thuận tình ly hôn thì cả hai bên vợ và
chồng đều phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản được quy định trong

BLDS năm 2015 và Luật HN&GĐ năm 2014. Tuy nhiên, cũng có một trường
hợp, pháp luật đã có những quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người
chồng được quy định tại khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014, đó là:
“3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai,
sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”. Đây là quy định hạn chế
quyền yêu cầu ly hôn của người chồng khi người vợ đang trong thời kỳ có
thai, sinh con hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Quy định như vậy là để
bảo vệ người phụ nữ đang trong thờì kỳ “khó khăn” nên đã hạn chế tạm thời
quyền ly hôn của người chồng trong một khoảng thời gian theo luật định. Vì
nếu trong thời kỳ này mà người chồng ly hôn với người vợ thì có thể gây tổn
hại về mặt vật chất và tinh thần đối với người phụ nữ. Tuy nhiên, điều đó
không có nghĩa là trong khoảng thời gian này, người vợ cũng là chủ thể bị hạn
chế quyền yêu cầu ly hôn như đối với người chồng. Chủ thể bị hạn chế theo
khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ là người chồng. Nếu trong
khoảng thời gian theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014
mà người vợ có yêu cầu đơn phương ly hôn mà có căn cứ để giải quyết ly hôn
thì Tòa án vẫn thụ lý và giải quyết yêu cầu ly hôn của người vợ. Vì trong
khoảng thời gian này, người vợ không phải là đối tượng bị hạn chế quyền yêu
cầu ly hôn. Khi nhận hồ sơ khởi kiện yêu cầu ly hôn, Tòa án cũng rất cân
nhắc và đánh giá có hay không có căn cứ ly hôn khi xem xét hồ sơ và thụ lý
để giải quyết vì còn phải đảm bảo quyền của bà mẹ và trẻ em trong khoảng
thời gian này.
Ngoài việc hạn chế quyền ly hôn của người chồng trong khoảng thời gian
theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014, thì quyền yêu cầu
ly hôn là quyền bình đẳng giữa vợ và chồng. Việc giải quyết ly hôn tại Toà án
bởi bản án hoặc quyết định là điều tất yếu khi quan hệ hôn nhân thực sự tan vỡ
mà không thể hàn gắn được. Quyền yêu cầu ly hôn thể hiện ý chí tự nguyện
muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân, phù hợp với thực trạng khách quan của quan

9



hệ hôn nhân là không thể tiếp tục duy trì đời sống chung vợ chồng nên vợ hoặc
chồng thể hiện mong muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Qua đó có thể thấy, quyền yêu cầu ly hôn là một trong những quyền dân
sự cơ bản và là quyền nhân thân của vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân được
pháp luật quy định và đảm bảo thực hiện khi quan hệ hôn nhân đã không thể tiếp
tục duy trì và một hoặc hai bên đều có mong muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân.
1.1.1.2. Quy định mở rộng quyền yêu cầu ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 85 BLTTDS năm 2015: “4. Người đại
diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật dân sự là người đại diện theo ủy
quyền trong tố tụng dân sự.
Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác
thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác
yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 của Luật
hôn nhân và gia đình thì họ là người đại diện.”
Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung chủ thể yêu cầu Tòa án giải quyết
việc ly hôn mà chưa từng được ghi nhận trong các Luật HN&GĐ trước đây.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 thì có các chủ
thể mới bổ sung yêu cầu ly hôn là: “Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình
đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ”.
Quy định mở rộng quyền yêu cầu ly hôn này đã giải quyết được các
trường hợp khi kết hôn vợ chồng đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp
luật, nhưng sau đó vì những lý do khác nhau mà chồng hoặc vợ bị bệnh tâm
thần hoặc mắc một bệnh khác dẫn đến không thể nhận thức được, không thể
làm chủ được hành vi như bị tai nạn lao động, tai nạn giao thông, bị sốt rét ác

tính… Trong trường hợp này, họ không có đủ nhận thức để bảo vệ chính bản
thân mình và có thể bị xâm phạm đến các quyền nhân thân và tài sản do chính
những người vợ hoặc chồng của mình mang lại.

10


Vì tính chất đặc biệt của chủ thể yêu cầu ly hôn trong trường hợp này
nên khoản 2 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định cụ thể: khi một
bên bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
hành vi của mình đồng thời phải là nạn nhân của việc bị bạo lực gia đình.
Tình trạng không có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của vợ, chồng được
xác định thông qua cơ quan chuyên môn của các tổ chức giám định pháp y
tâm thần. Tuy nhiên, việc xác định tình trạng không thể nhận thức, làm chủ
hành vi này không đồng nhất với tình trạng mất năng lực hành vi của cá nhân
được quy định tại khoản 1 Điều 22 BLDS năm 2015: “Khi một người do bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người
mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần”.
Theo quy định tại BLDS năm 2015 thì một người không thể nhận thức
và làm chủ hành vi chỉ được xác định là mất năng lực hành vi dân sự khi Tòa
án ra quyết định tuyên bố người đó là người mất năng lực hành vi dân sự trên
cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Không những vậy, một người sau
khi bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự nhưng sau đó đã được điều trị và
có thể đã khỏi bệnh và có được đầy đủ năng lực hành vi dân sự như người
bình thường. Trong trường hợp này, người đó vẫn được xác định là người mất
năng lực hành vi dân sự. Để khôi phục lại năng lực hành vi dân sự đối với
trường hợp này thì cần có yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất
năng lực hành vi đối với cá nhân đó.

Việc phân biệt hai tình trạng nêu trên là vì ly hôn là quyền gắn với nhân
thân của vợ và chồng. Nhà nước cũng phải bảo đảm thực hiện quyền quyết
định và tự định đoạt của đương sự, được quy định tại Điều 5 BLTTDS năm
2015. Do đó, chỉ trong trường hợp vợ, chồng không thể tự mình thể hiện được
ý chí để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì mới xem xét đến ý chí
của người thứ ba trên cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người
mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng,
vợ của họ gây ra.

11


Nội dung căn cứ ly hôn này đòi hỏi một yêu cầu nữa, đó là phải có hành
vi bạo lực gia đình làm tổn hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tính thần
của bên vợ hoặc bên chồng là người bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác
mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Việc quy định giải
quyết việc ly hôn theo yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích khác là trường
hợp giải quyết việc ly hôn không theo ý chí của vợ, chồng. Đây có thể được
xem là một biện pháp để bảo vệ cho bên vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân.
Tuy nhiên việc quy định như vậy chưa thực sự hoàn hảo vì nó có sự mâu thuẫn
với quyền yêu cầu ly hôn được quy định tại Điều 39 BLDS năm 2015.
Để bảo vệ quyền con người trong trường hợp này, Luật HN&GĐ năm
2014 đã mở rộng quyền yêu cầu ly hôn bao gồm các đối tượng là: cha, mẹ,
người thân thích khác của người vợ hoặc chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình đồng thời
là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Tuy nhiên, quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn
còn chưa được hoàn chỉnh, vì chưa nêu rõ thứ tự ưu tiên của những người thứ

ba có quyền yêu cầu ly hôn theo quy định tại điều khoản này. Trường hợp
một trong những chủ thể được quyền yêu cầu ly hôn theo quy định tại điều
khoản này khởi kiện ly hôn, nhưng các chủ thể khác phản đối vì thấy mâu
thuẫn giữa hai vợ chồng của người bị yêu cầu ly hôn chưa thực sự đến mức
cần phải ly hôn để bảo vệ người thân của họ thì sẽ được giải quyết thế nào?
Tác giả nhận thấy vấn đề này rất cần được các nhà làm luật sớm có các văn
bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn
Ly hôn là một hiện tượng xã hội, bởi vậy ly hôn mang tính giai cấp sâu
sắc. Pháp luật về ly hôn ở nhà nước phong kiến, tư sản quy định có thể cấm ly
hôn như có chế định về căn cứ ly hôn mà chỉ công nhận quyền vợ chồng được
sống tách biệt nhau (biệt cư) bằng chế định ly thân; hoặc quy định xét xử ly
hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng hay của cả hai vợ chồng. Các điều kiện
để giải quyết ly hôn thời kỳ này có tính chất hình thức, phản ánh nguyên nhân

12


mâu thuẫn vợ chồng như: Bộ luật Hồng Đức (triều Lê) đã quy định về “thất
xuất”, người chồng được quyền ly hôn (rẫy vợ) khi vợ phạm vào điều “thất xuất”
(không có con, lắm lời, ghen tuông, trộm cắp, bất kính với cha mẹ chồng, gian
dâm, bị ác tật). Bộ luật Gia Long quy định về Duyên cớ ly hôn trong pháp luật
phong kiến thể hiện sự bất bình đẳng rõ nét (Trọng nam kinh nữ và bảo vệ quyền
lợi gia đình, gia tộc hơn là quyền lợi cá nhân). Duyên cớ ly hôn thời kỳ phong
kiến, thực dân ở Việt Nam theo luật định thường dựa vào lỗi của vợ, chồng chứ
không dựa trên bản chất của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ.
Đối với pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì công nhận quyền
tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều
kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn được dựa trên cơ sở tự nguyện
của vợ chồng, là kết quả của hành vi thể hiện tính ý chí của vợ chồng khi thực

hiện quyền yêu cầu ly hôn. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ
hôn nhân đã thực sự tan vỡ đã không thể hàn gắn được, điều đó là có lợi cho
vợ, chồng, con cái và các thành viên trong gia đình, có thể có được cuộc sống
tốt hơn sau khi ly hôn.
Ly hôn chỉ là hình thức công nhận sự chấm dứt hôn nhân của Tòa án
theo yêu cầu của hai vợ chồng hoặc theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng.
Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, giải quyết ly hôn; có vai trò
quan trọng trong việc góp phần tuân thủ, áp dụng các quy định của pháp luật.
Phán quyết ly hôn của Tòa án được thể hiện dưới hai hình thức: Quyết
định công nhận sự thỏa thuận thành hoặc Bản án. Khi giải quyết vụ án ly hôn,
cả vợ và chồng đều thỏa thuận được với nhau để giải quyết tất cả các nội dung
của quan hệ vợ chồng bao gồm: vấn đề tình cảm, tài sản chung, con chung và
án phí khi ly hôn thì Tòa án công nhận cho vợ chồng thuận tình ly hôn. Trong
trường hợp nếu còn bất cứ một vấn đề mà hai bên đương sự không thỏa thuận
được, Tòa án sẽ tến hành mở phiên tòa xét xử để ra bản án ly hôn.
Bản chất của ly hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng theo quy định của
pháp luật bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

13


Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ đã giải thích: “Ly hôn là việc chấm dứt quan
hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”.
1.1.2.1. Khái niệm căn cứ ly hôn
“Căn cứ là cái làm chỗ dựa, làm cơ sở để lập luận”6. Căn cứ ly hôn
được hiểu là những căn cứ do Nhà nước xác định để Tòa án thực hiện giải
quyết ly hôn khi có yêu cầu.
Để Toà án giải quyết việc ly hôn, điều tiên quyết là phải xác định là có
hay không có căn cứ giải quyết ly hôn khi nhận hồ sơ yêu cầu ly hôn của
đương sự. Ý chí của vợ chồng không phải là điều kiện cần và đủ để Toà án

chấp thuận giải quyết yêu cầu ly hôn. Việc giải quyết yêu cầu ly hôn phải
được dựa trên các điều kiện cần và đủ về phương diện pháp lý của căn cứ ly
hôn theo quy định trong Luật HN&GĐ năm 2014.
Các Mác đã viết: “Về mặt hôn nhân, nhà lập pháp chỉ có thể xác định
những điều kiện trong đó hôn nhân được phép tan vỡ, nghĩa là trong đó, về thực
chất, hôn nhân tự nó đã bị phá vỡ rồi. Việc Tòa án cho phép phá bỏ hôn nhân
chỉ có thể là việc ghi biên bản công nhận sự tan rã bên trong của nó. Quan điểm
của nhà lập pháp là quan điểm của tính tất yếu”. Để chứng minh cho tính tất yếu
này, Tòa án cần dựa trên những cơ sở là những căn cứ nhất định. Trên những cơ
sở đó, Tòa án nhận định mối quan hệ hôn nhân đó đã tan vỡ hay chưa dựa trên
việc xem xét, đánh giá thực trạng của mối quan hệ hôn nhân.
Nhận định quan hệ hôn nhân tự nó bị phá vỡ là yếu tố mang tính chủ
quan, để đánh giá yếu tố chủ quan có chính xác hay không, khi giải quyết yêu
cầu ly hôn, Tòa án cần xem xét đến những hiện tượng khách quan phản ánh
giữa hiện tượng và bản chất sự việc. Những hiện tượng đó phải có mối quan
hệ biện chứng với bản chất tan vỡ của quan hệ hôn nhân, phản ánh bản chất
của mối quan hệ hôn nhân. Bản chất quan hệ hôn nhân đã “chết” được thể
hiện ra bên ngoài bằng nhiều hiện tượng khác nhau, mỗi hiện tượng chỉ biểu
hiện một khía cạnh của bản chất quan hệ hôn nhân.
6

Nguyễn Lân (2006), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp TP Hồ Chí
Minh, tr. 243;

14


Quan điểm của các nhà làm luật các nước tư bản coi hôn nhân thực chất là
một loại “hợp đồng”, “khế ước hôn nhân” do hai người nam và nữ tự nguyện xác
lập. Vì vậy mà căn cứ ly hôn cũng tương tự như căn cứ để chấm dứt hợp đồng,

đó là dựa vào yếu tố “lỗi” và ý chí thỏa thuận về việc chấm dứt quan hệ hôn
nhân của hai người vợ và chồng. Chính bởi vậy, căn cứ ly hôn đối với các nước
tư bản chỉ mang tính hình thức, chỉ mới phản ánh được một cách phiến diện trên
một khía cạnh nào đó của hôn nhân chứ không phản ánh được toàn diện bản chất
vì sao lại có yêu cầu ly hôn và căn cứ để giải quyết ly hôn.
Quan điểm của các nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là dựa trên bản chất thực sự của quan hệ hôn
nhân là đã tan vỡ từ nội tại bên trong của chính mối quan hệ hôn nhân, trên cơ
sở đánh giá một cách khách quan về mối quan hệ hôn nhân đó. Cơ sở này là
việc bản chất hôn nhân tan vỡ, không thể hàn gắn lại được.
Theo tác giả, việc ly hôn phải dựa trên bản chất của mối quan hệ hôn
nhân là thực sự tan vỡ và không thể hàn gắn lại được. Khi xem xét giải quyết
ly hôn, Tòa án phải đảm bảo các quyền, lợi ích chính đáng của vợ, chồng và
các bên liên quan (nếu có) trong quan hệ HN&GĐ. Để đảm bảo những yếu tố
đó, nhà lập pháp phải dự liệu được những cơ sở, căn cứ giải quyết ly hôn và
yêu cầu kiểm soát việc ly hôn thông qua Tòa án. Tòa án khi giải quyết ly hôn
phải áp dụng chính xác nội dung các căn cứ ly hôn và chỉ được giải quyết ly
hôn cho vợ chồng trong trường hợp có căn cứ để xác định rằng bản chất quan
hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Căn cứ ly hôn là tổng hợp các
tình tiết, điều kiện do luật định, biểu hiện khách quan bản chất của quan hệ
hôn nhân đã tan vỡ. Dựa vào những tình tiết, điều kiện đó để Tòa án giải
quyết vụ việc ly hôn của vợ chồng.
Hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam quy định về
căn cứ ly hôn với những nội dung khác nhau qua các thời kỳ.
- Thời kỳ phong kiến
Pháp luật phong kiến Việt Nam đã hình thành từ lâu (Thời nhà Lý có
Bộ luật Hình thư năm 1042; thời nhà Trần có Quốc Triều Thông Chế năm

15



1230,…; thời Hồ có Đại Ngu Quan Chế Hình Luật năm 1401). Tuy nhiên,
những hệ thống pháp luật những thời kỳ này chủ yếu tập trung vào việc củng
cố bộ máy của giai cấp thống trị và những quy định liên quan đến ruộng đất.
Những quy định liên quan đến ly hôn chỉ được quy định bắt đầu được luật hóa
từ thời Hậu Lê (Giai đoạn 1427-1789), cụ thể là Bộ luật Hồng Đức (hay còn
gọi là Bộ Quốc triều hình luật) được ban hành dưới triều đại vua Lê Thánh
Tông và sau đó là thời Nguyễn với Bộ luật Gia Long (hay còn gọi là Hoàng
Việt Luật Lệ). Căn cứ ly hôn thời kỳ này được gọi là “duyên cớ ly hôn” hoặc
“các trường hợp ly hôn”. Duyên cớ ly hôn trong pháp luật phong kiến thể hiện
sự bất bình đẳng rõ nét (Trọng nam kinh nữ và bảo vệ quyền lợi gia đình, gia
tộc hơn là quyền lợi cá nhân). Duyên cớ ly hôn thời kỳ này gồm: rẫy vợ, hai
bên thỏa thuận và trường hợp khác.
Rẫy vợ là việc người chồng đơn phương bỏ vợ. Đoạn 164 Bộ luật
Hồng Đức và Điều 108 Bộ luật Gia Long quy định các trường hợp người
chồng có quyền bỏ vợ khi vợ phạm vào tội thất xuất - bảy lỗi của người vợ
như sau: Vô tử (không có con), đố kị (ghen tuông), dâm dật (người vợ có
hành vi lẳng lơ, dâm đãng), không kính trọng bố mẹ chồng, bất hòa (không
hòa thuận với anh em), trộm cắp (không bỏ vợ thì vạ lây đến nhà chồng), ác
tật (bị bệnh phong, hủi).
Việc phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong thời kỳ này còn được thể
hiện qua việc không có con là lỗi đương nhiên của người vợ, những duyên cớ
còn lại cũng chỉ quykết toàn bộ vào lỗi của người vợ mà không áp dụng đối
với người chồng. Tuy nhiên, pháp luật phong kiến cũng quy định chế độ utam
bất khứ’ để bảo vệ người phụ nữ, đó là: người chồng không được bỏ vợ cho
dù vợ phạm thất xuất trong trường hợp khi lấy nhau vợ chồng nghèo nhưng
về sau giàu có (tiền bần tiện, hậu phú quý), hoặc khi vợ đã để tang nhà chồng
ba năm (dữ canh tam niên tang), hoặc khi lấy nhau vợ còn bà con họ hàng
nhưng khi bỏ nhau vợ không còn nơi nương tựa (hữu sở thú, vô sở quy). quy

định này đã một phần thể hiện sự quan tâm tới số phận người phụ nữ nhà làm
luật và cũng thể hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam. Quy định
chế độ utam bất khứ’ xuất phát từ truyền thống về tình nghĩa vợ chồng phù

16


hợp với đạo lý của người Việt Nam, bảo vệ những quyền lợi cơ bản tối thiểu
cho người vợ.
Pháp luật phong kiến quy định khi vợ hoặc chồng vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ vợ chồng thì bắt buộc phải ly hôn. Việc bắt buộc ly hôn được
coi là hình phạt cho những hành vi vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng dược quy
định tại Điều 308 Bộ luật Hồng Đức: “phàm người chồng đã bỏ lửng vợ 5
tháng không đi lại thì mất vợ (vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm
chứng). Nếu vợ đã có con thì cho hạn 1 năm. Vì việc quan phải đi xa thì
không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ, mà lại ngăn cản người khác lấy vợ mình,
thì phải tội biếm”. Đồng thời, tại Điều 108 Bộ luật Gia Long cũng có quy
định bắt buộc phải ly hôn khi vợ chồng phạm phải điều “nghĩa tuyệt”. “Nghĩa
tuyệt” bao gồm các lỗi: lỗi của vợ (mưu sát chồng), lỗi của người chồng
(chồng bán vợ) hoặc là lỗi của hai vợ chồng. Riêng trường họp vợ phạm phải
nghĩa tuyệt mà chồng không bỏ thì chồng cũng bị phạt 80 trượng. Bộ luật
Hồng Đức coi các trường hợp “thất xuất” đồng thời cũng là các trường hợp
của nghĩa tuyệt (ân nghĩa vợ chồng bị đoạn tuyệt), bắt người chồng phải bỏ
vợ nếu người vợ phạm phải bảy trường hợp trên. Đến Bộ luật Gia Long vì đã
có sự phân biệt rạch ròi giữa Thất xuất” và “Nghĩa tuyệt”. Tuy phạm phải một
trong các trường hợp của “thất xuất” nhưng nếu người vợ ở trong trường hợp
“tam bất khứ” (ba trường họp người chồng không thể bỏ vợ được) thì người
chồng không được phép bỏ vợ.
Pháp luật phong kiến cũng đã có quy định cho phép vợ chồng thỏa
thuận ly hôn trong trường hợp không hợp tính tình. Tuy nhiên, chế độ gia

trưởng dưới thời kỳ này vẫn tồn tại sâu sắc nên vai trò của người đàn ông
hoàn toàn lấn át vai trò của người phụ nữ , kể cả trong quan hệ hôn nhân cũng
như quan hệ xã hội khác thì vị trí của vợ và chồng không lúc nào được ngang
bằng. Ly hôn do sự thuận tình là một giao dịch đòi hỏi vợ chồng đều có quyền
bày tỏ ý chí, quan điểm trên đây là một chế định không thích hợp với tư duy
pháp lý thời kỳ này.
Như vậy, các căn cứ ly hôn thời kỳ này là được xây dựng dựa trên lỗi
của vợ hoặc chồng. Quyền tự do ly hôn của vợ chồng trong một số trường

17


hợp nhất định không được đảm bảo khi pháp luật lại quy định về một số
trường hợp bắt buộc vợ chồng phải ly hôn mà không xét đến ý chí của vợ
chồng cũng như bản chất hôn nhân giữa vợ và chồng. Nhà nước đã can thiệp
quá sâu vào quan hệ hôn nhân của vợ chồng, áp dụng chế tài bắt buộc ly hôn
khi vợ chồng có “lỗi”. Sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn
nhân được thể hiện rõ qua các căn cứ ly hôn thời kỳ này. Qua đó cho thấy sự
bất bình đẳng về giới trong xã hội và gia đình phong kiến là vô cùng sâu sắc,
với quan điểm “trọng nam khinh nữ”.
- Thời kỳ Pháp thuộc (từ năm 1858 đến trước năm 1945)
Từ năm 1858 đến trước năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa
nửa phong kiến dưới ách thống trị của cả thực dân Pháp và chế độ phong
kiến. Thời kỳ này, nước ta bị chia thành ba miền, mỗi miền được áp dụng một
bộ dân luật để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình. Bắc kỳ áp dụng quy
định của Bộ dân luật năm 1931. Trung kỳ áp dụng quy định của Bộ dân luật
năm 1936. Nam kỳ áp dụng Bộ dân luật giản yếu năm 1883.Do bối cảnh lịch
sử rất đặc thù của nước ta là “một cổ hai tròng” nên các nội dung và kỹ thuật
lập pháp của ba bô dân luật này vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Bộ luật dân
sự Cộng hòa Pháp ( 1804) (còn gọi là Bộ luật Napôlêông), vừa thể hiện quan

điểm lạc hậu của giai cấp phong kiến Việt Nam.
Căn cứ ly hôn trong Bộ dân luật Bắc kỳ và Trung kỳ quy định dựa
trên yếu tố lỗi của vợ chồng. Hai bộ luật này quy định những duyên cớ ly hôn
riêng cho người chồng (dựa vào lỗi của vợ), những duyên cớ ly hôn cho
người vợ (dựa vào lỗi của người chồng) và những duyên cớ ly hôn chung cho
cả hai vợ chồng.
Duyên cớ ly hôn của người chồng là những lỗi của vợ được quy định
tại Điều 118 Bộ dân luật Bắc kỳ và Điều 117 Bộ dân luật Trung kỳ quy định
một cách cụ thể: vợ phạm gian; vợ bỏ nhà chồng mà đi, tuy đã buộc về mà
không về; vợ thứ đánh chửi, bạo hành vợ chính.
Duyên cớ ly hôn của người vợ khi người chồng có những lỗi được
quy định tại Điều 119 Bộ dân luật Bắc kỳ và Điều 118 Bộ dân luật Trung kỳ:
Người chồng không thi hành nghĩa vụ nuôi nấng vợ con tùy theo kế sinh nhai;

18


người chông bỏ nhà đi quá hai năm (theo Bộ dân luật Bắc kỳ) và quá một năm
(theo Bộ dân luật Trung kỳ) mà không có duyên cớ chính đáng và không cấp
dưỡng cho vợ con; hoặc chồng không có lý do chính đáng mà đuổi vợ ra khỏi
nhà mình; chồng làm trái trật tự vợ chính, vợ thứ.
Cả vợ và chồng có thế yêu cầu ly hôn khi có những duyên cớ quy định
tại Điều 120 Bộ dân luật Bắc kỳ và Điều 119 Bộ dân luật Trung kỳ: Bên nọ
quá khắc hành hạ, chửi rủa thậm tệ đối với bên kia, hoặc với tổ phụ bên kia;
một bên can án trọng tội; một bên vô hạnh làm nhơ nhuốc đến nỗi bên kia
không thể ở chung được; vì một bên tâm thần mà ai cũng biết hoặc phải ở
suốt đời trong bệnh viện.
Tại Nam kỳ, Bộ dân luật giản yếu Nam kỳ năm 1883 quy định quyền
ly hôn chỉ do người chồng quyết định và quyền ly hôn này được hạn chế bởi
chế đô “tam bất khứ” kế thừa từ cổ luật phong kiến Việt Nam, còn người vợ

thì không có quyền yêu cầu ly hôn. Ngoài ra, bộ luật này còn ghi nhận quyền
xin ly hôn trong trường hợp chồng không dành sự quan tâm, chăm sóc vợ
trong mootj khoản thời gian nhất định, cụ thể: “Nếu chồng vô cớ 5 tháng
không về với vợ thì người vợ có quyền đi tố cáo và người chồng sẽ bị mất vợ,
nếu họ đã có con cái với nhau thì cho thời hạn đó là một năm... ”. Quy định
này thể hiện rõ trách nhiệm của người chồng, thể hiện sự kế thừa pháp luật
phong kiến nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ, ràng buộc nghĩa
vụ của người chồng đối với gia đình. Quy định như vậy cũng đãthể hiện sự
tiến bộ tương đối, có ý nghĩa giúp giải thoát cho người vợ, bảo vệ quyền lợi
cho người vợ trong chừng mực nhất định.
Pháp luật quy định về căn cứ ly hôn thời kỳ này vừa có sự kế thừa
pháp luật phong kiến nhưng vẫn còn những phong tục, tập quán lạc hậu.
Ngoài ra. đã có sự tiếp thu kỹ thuật lập pháp của pháp luật Cộng hòa Pháp,
phản ánh những đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền lợi giai cấp. Quan
hệ giữa vợ và chồng vẫn còn thể hiện sự bất bình đẳng, củng cố quyền của
người gia trưởng, vẫn còn quy định nhiều căn cứ đế người chồng được yêu
cầu ly hôn hơn người vợ. Căn cứ ly hôn thời kỳ này chủ yếu dựa vào lỗi của
vợ, chồng chứ không dựa vào bản chất của quan hệ vợ chồng là đã tan vỡ.

19


×