Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Rủi ro và lợi nhuận của các ngân hàng thương mại trường hợp Việt Nam và các nước Châu Á Thái Bình Dương (LA TIẾN SĨ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.71 MB, 134 trang )

Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Lợi nhuận đóng vai trò quan trọng trong hoạt động doanh nghiệp, đặc biệt là
đối với NHTM do sự ổn định của ngân hàng phụ thuộc nhiều vào lợi nhuận và sự
bền vững của một nền kinh tế cũng liên quan đến sự ổn định của NHTM. Bản chất
của hoạt động ngân hàng là tiềm ẩn rủi ro. Nếu rủi ro không được kiểm soát tốt, thì
dù bằng con đường này hay con đường khác cũng sẽ làm suy giảm lợi nhuận các
ngân hàng.
Lược khảo nghiên cứu cho thấy tồn tại nhiều khoảng trống nghiên cứu liên
quan đến rủi ro và lợi nhuận NHTM. Có nhiều nghiên cứu phân tích các yếu tố tác
động đến rủi ro ngân hàng, như: (1) Các nghiên cứu Blum (1999), (Calem và Rob,
1999), (Repullo, 2004)) tập trung vào vai trò của an toàn vốn đến rủi ro ngân hàng;
(2) Các nghiên cứu của Anderson và Fraser (2000), Konishi và Yasuda (2004),
Uchida và cộng sự (2008) phân tích tác động yếu tố vốn và yếu tố quản lý đến rủi ro
beta của mô hình CAPM. Nghiên cứu của Haq và Heaney (2012) là một trong
những nghiên cứu khá đầy đủ các yếu tố tác động đến rủi ro của các NHTM châu
Âu, đặc biệt rủi ro được tiếp cận từ dữ liệu bảng cân đối và dữ liệu thị trường, tuy
nhiên nghiên cứu này không đề cập đến cấu trúc thu nhập. Tại châu Á, Williams
(2014) đã phân tích khá toàn diện các yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng thông qua
chỉ số Z-score. Như vậy, lược khảo tài liệu chưa tìm thấy nghiên cứu nào kiểm định
tác động của các yếu tố đến các rủi ro ngân hàng, trong đó rủi ro được đo lường từ
dữ liệu thị trường và rủi ro được đo lường từ dữ liệu bảng cân đối kế toán được thực
hiện tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm cũng chỉ ra rằng có nhiều yếu tố tác
động đến lợi nhuận. Trong đó, mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận thu hút nhiều sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu phân tích tác
động của nhóm rủi ro được đo lường theo mô hình CAPM gồm: rủi ro thị trường,
rủi ro lãi suất, rủi ro đặc thù tác động đến lợi nhuận cổ phiếu (Ang, 2009; Baele và
cộng sự, 2015; Boehme, 2009; Merton, 1987). Hoặc tác động rủi ro tín dụng đến
hiệu quả ngân hàng (Berger và DeYoung, 1997). Đặc biệt chưa có nghiên cứu nào


phân tích tác động của rủi ro đến lợi nhuận trong đó các rủi ro được đo lường từ dữ

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

1


liệu thị trường và rủi ro đo lường từ bảng cân đối kế toán và lợi nhuận được đo
lường bằng chỉ số ROA ROE. Mặc dù, nghiên cứu của (Miller, 1990) có phân tích
tác động của rủi ro beta, rủi ro tổng thể đến chỉ số ROA, ROE nhưng nghiên cứu
này không thực hiện cho đối tượng là NHTM. Tương tự như thế, nghiên cứu của
Trọng và Hiệp (2015) nghiên cứu tác động của rủi ro hệ thống đến chỉ số lợi nhuận
nhưng đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu thực nghiệm tác động rủi ro beta của
CAPM và rủi ro tín dụng, rủi ro tổng thể đến chỉ số lợi nhuận ROA, ROE góp phần
cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm, đặc biệt là tìm thấy nghiên cứu nào về rủi
ro đến lợi nhuận cho trường hợp châu Á - Thái Bình Dương.
Qua phân tích bối cảnh thực tiễn của các nước châu Á - Thái Bình Dương
như trên cho thấy Việt Nam là một trong những nước có thu nhập bình quân đầu
người thấp nhất trong 18 nước nghiên cứu của châu Á - Thái Bình Dương, nhưng có
đến 50 ngân hàng đang hoạt động. Vì thế, việc nghiên cứu tác động của rủi ro đến
lợi nhuận ngân hàng trong giai đoạn 2000-2013 cũng góp phần kiểm chứng sự ổn
định của kết quả nghiên cứu thực nghiệm ở trường hợp châu Á - Thái Bình Dương.
Nhìn chung, việc lược khảo nghiên cứu thực nghiệm cho thấy phần lớn các
nghiên cứu đã kiểm định được tác động của rủi ro đến lợi nhuận và phân tích hầu
hết các yếu tố tác động đến rủi ro ngân hàng. Tuy nhiên, xét ở bối cảnh châu Á Thái Bình Dương vẫn còn thiếu vắng những nghiên cứu về các yếu tố tác động đến
rủi ro và rủi ro tác động đến lợi nhuận, đặc biệt là trường hợp rủi ro được đo lường
từ nhiều cách tiếp cận khác nhau. Đồng thời kết quả kiểm định trường hợp Việt

Nam không chỉ cung cấp thêm gợi ý chính sách cho trường hợp Việt Nam mà còn
có bằng chứng phân tích kiểm định lại kết quả nghiên cứu rủi ro và lợi nhuận châu
Á - Thái Bình Dương.
Những phân tích trên cho thấy sự cần thiết của việc nghiên cứu các yếu tố tác
động đến rủi ro ngân hàng và phân tích tác động của rủi ro ngân hàng đến lợi nhuận
trong trường hợp châu Á - Thái Bình Dương và Việt Nam. Thật vậy, luận án này
được thực hiện không chỉ cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm mà còn cung cấp
thêm một số thông tin toàn diện và sâu sắc hơn về rủi ro ngân hàng, từ đó đảm bảo
tính khoa học cho các gợi ý chính sách. Chính vì thế, tác giả đã quyết định thực hiện

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

2


luận án là Rủi ro và lợi nhuận của các NHTM: Trường hợp Việt Nam và các
nước châu Á - Thái Bình Dương cho luận án tiến sĩ ngành tài chính - ngân hàng.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu nghiên cứu chính của luận án là phân tích các yếu tố tác động đến
rủi ro ngân hàng và phân tích tác động của rủi ro đến lợi nhuận ngân hàng trong giai
đoạn 2000-2013 trường hợp Việt Nam và các nước châu Á - Thái Bình Dương.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Luận án này được thực hiện với hai mục tiêu cụ thể sau:
Mục tiêu cụ thể thứ nhất: Luận án sẽ phân tích các yếu tố tác động đến rủi
ro ngân hàng ở Việt Nam và các nước châu Á - Thái Bình Dương, nhất là thông qua
ảnh hưởng của yếu tố vốn, Chater value, cấu trúc thu nhập, hoạt động ngoại bảng,
quy mô, chất lượng tín dụng. Qua đó, luận án sẽ góp phần gợi ý chính sách nhằm

hạn chế rủi ro ngân hàng, hướng tới việc nâng cao lợi nhuận, đảm bảo an toàn hệ
thống.
Mục tiêu cụ thể thứ hai: luận án lượng hóa tác động của rủi ro đến lợi
nhuận trong trường hợp Việt Nam và các nước châu Á - Thái Bình Dương. Đây là
một vấn đề cần được nghiên cứu sâu, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam
và các nước châu Á - Thái Bình Dương còn nhiều khó khăn và đang tiến hành tái cơ
cấu hệ thống ngân hàng.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Từ mục tiêu nghiên cứu thứ nhất, luận án có hai câu hỏi nghiên cứu:
+ Câu hỏi 1:Yếu tố nào tác động đến rủi ro ngân hàng ở khu vực châu Á Thái Bình Dương?
+ Câu hỏi 2: Yếu tố nào tác động đến rủi ro ngân hàng Việt Nam?
Từ mục tiêu nghiên cứu thứ hai, luận án có hai câu hỏi nghiên cứu:
+ Câu hỏi 3: Rủi ro tín dụng, rủi ro tổng thể, rủi ro lãi suất, rủi ro thị
trường, rủi ro đặc thù có tác động đến lợi nhuận ngân hàng ở khu vực châu Á Thái Bình Dương không?
+ Câu hỏi 4: Rủi ro tín dụng, rủi ro tổng thể, rủi ro lãi suất, rủi ro thị
trường, rủi ro đặc thù có tác động đến lợi nhuận ngân hàng ở Việt Nam không?

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

3


1.4. Đối tượng và phạm vi
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề rủi ro và lợi nhuận của các
NHTM1 Việt Nam và châu Á - Thái Bình Dương.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn về thời gian: Luận án chỉ tập trung vào giai đoạn 2000-2013, trong

đó có chia giai đoạn nhỏ hơn. Giai đoạn nghiên cứu này cũng là thời gian mà số liệu
Việt Nam tương đối đầy đủ để phân tích và có thể đánh giá được tác động của rủi ro
đến lợi nhuận trong giai đoạn trước khủng hoảng và sau khủng hoảng 2008. Phần
phân tích định tính về thực trạng rủi ro và lợi nhuận trong phần mở đầu đối với các
NHTM Việt Nam sử dụng số liệu năm từ nguồn Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tổ
chức Quỹ Tiền tệ Thế giới nhằm củng cố thêm các kết quả phân tích định lượng và
cung cấp thêm thông tin về bối cảnh rủi ro và lợi nhuận của các NHTM. Trong khi
đó, phần phân tích định lượng đòi hỏi số dữ liệu ngày về giá chứng khoán các
NHTM, lãi suất trái phiếu, chỉ số thị trường, và số liệu về báo cáo tài chính từ
nguồn Bankscope theo năm.
Giới hạn về không gian: Luận án nghiên cứu dựa trên mẫu số liệu của 18
quốc gia của khu vực châu Á - Thái Bình Dương gồm: Banglades, China,
HongKong, India, Indonesia, Israel, Japan, Kuwait, Malaysia, Pakistan, Philippine,
Russia, Srilanka, Taiwan, Thailand, Turkey, Vietnam, Australia.
Giới hạn về nội dung:
- Lợi nhuận được hiểu là khả năng sinh lời được đo lường bằng chỉ số lợi
nhuận từ thông tin bảng cân đối kế toán. Các khái niệm gần với khả năng sinh lời
như hiệu quả về mặt chi phí, hiệu quả hoạt động, hiệu quả quản lý không phải là đối
tượng nghiên cứu chính của luận án.
- Trong lĩnh vực ngân hàng, có nhiều loại rủi ro tác động đến khả năng sinh
lời của ngân hàng như rủi ro thị trường (cổ phiếu, lãi suất, tiền tệ, giá hàng hóa), rủi
ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thanh khoản, rủi ro quốc gia, rủi ro kinh tế, rủi

1

NHTM là ngân hàng thực hiện đồng thời chức năng chuyển giao rủi ro và giảm chi phí giao dịch Franklin Allen,
Anthony M.Santomero (1998). Chuyển giao rủi ro là chức năng ngân hàng nhận tiền gửi khách hàng để đầu tư tài sản
rủi ro . Và với lợi thế về quy mô, kinh nghiệm, uy tín, NHTM có lợi thế hơn các cá nhân, doanh nghiệp huy động vốn để
cho vay qua đó tiết kiệm được chi phí giao dịch.


Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

4


ro danh tiếng, rủi ro mô hình hoạt động, và các rủi ro khác phụ thuộc vào khuôn khổ
của rủi ro cơ sở. Nhưng luận án chỉ xem xét tác động của rủi ro tổng thể, rủi ro thị
trường, rủi ro lãi suất, rủi ro đặc thù, rủi ro tín dụng đến lợi nhuận ngân hàng.
- Một điểm đáng chú ý trong luận án là việc phân tích riêng cho trường hợp
Việt Nam sẽ cho thấy xu hướng tác động rủi ro đến lợi nhuận ngân hàng có điểm
tương đồng so với trường hợp châu Á - Thái Bình Dương. Đây là bằng chứng thực
nghiệm kiểm định độ bền số liệu và mức độ tin cậy như thế nào đối với trường hợp
châu Á - Thái Bình Dương.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, luận án đã kế thừa mô hình nghiên
cứu của Haq và Heaney (2012) để phân tích tác động của các yếu tố tác động đến
rủi ro ngân hàng, đồng thời luận án cũng áp dụng cách tiếp cận của Berger và
DeYoung (1997), Wetmore và Brick (1998), Dietrich và Wanzenried (2014), Petria
và cộng sự (2015), Sun (2011) để phân tích tác động của rủi ro đến lợi nhuận ngân
hàng, cụ thể như sau:
- Thực hiện mục tiêu thứ nhất: luận án xây dựng mô hình nghiên cứu dựa
trên cơ sở mô hình của Haq và Heaney (2012). Đồng thời để kiểm chứng thực
nghiệm tác động của cấu trúc thu nhập có tác động đến rủi ro ngân hàng, luận án
cũng bổ sung biến tỉ số thu nhập ngoài lãi/tổng thu nhập của ngân hàng vào mô hình
nghiên cứu. Bên cạnh đó, với kỳ vọng phân tích được yếu tố khủng hoảng 2008, sự
khác biệt giữa nước phát triển và đang phát triển, và môi trường kinh tế vĩ mô tác
động như thế nào đến rủi ro ngân hàng, luận án đã điều chỉnh mô hình của Haq và
Heaney (2012) nhằm kiểm định tác động của các yếu tố này.

- Thực hiện mục tiêu thứ hai: Luận án đã kế thừa cách tiếp cận của Berger và
DeYoung (1997) để xây dựng mô hình đánh giá tác động của rủi ro tín dụng đến lợi
nhuận ngân hàng nhưng có hiệu chỉnh thang đo lợi nhuận bằng tỉ số lợi nhuận
ROA, ROE. Thêm vào đó, luận án kế thừa cách tiếp cận của Wetmore và Brick
(1998) để phân tích tác động của rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường, rủi ro đặc thù đến
lợi nhuận ngân hàng. Cuối cùng, để kiểm chứng tác động của rủi ro tổng thể đến lợi
nhuận, luận án đã tham khảo cách tiếp cận của Dietrich và Wanzenried (2014),
Petria và cộng sự (2015), Sun (2011).

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

5


Phương pháp thực hiện luận án theo sơ đồ nghiên cứu sau:
Cơ sở lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm
Giả thuyết nghiên cứu
Thu thập số liệu

Bankscope

Datastream

IMF

Đo lường rủi ro và lợi nhuận
Hồi quy để thu được
rủi ro lãi suất, rủi ro thị

trường, rủi ro đặc thù

Tính toán các tỉ số rủi ro
tổng thể, rủi ro tín dụng

Tính toán tỉ số lợi
nhuận ROA, ROE

Hồi quy theo phương pháp OLS, FEM, REM

Phân tích
các yếu tố
tác động
đến rủi ro
ngân hàng

- Vốn ngân hàng
- Chatervalue
- Hoạt động ngoại bảng
- Cấu trúc thu nhập
- Tăng trưởng tín dụng
- Quy mô

Rủi ro ngân
hàng

- Rủi ro tín dụng
Phân tích
tác động của
rủi ro đến

lợi nhuận
ngân hàng

- Rủi ro tổng thể

Lợi nhuận
ngân hàng

- Rủi ro lãi suất
- Rủi ro thị trường
- Rủi ro đặc thù

Kết luận

Hình 1.1: Sơ đồ nghiên cứu

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

6


Phương pháp định lượng để phân tích trong luận án là phương pháp ước
lượng OLS (Ordinary Least Squares), REM (Random Effects Model), FEM (Fixed
Effects Model) để thực hiện các mô hình hồi quy. Dữ liệu được dùng trong nghiên
cứu thập từ 3 nguồn dữ liệu: (i) Nguồn cơ sở dữ liệu các ngân hàng trên thế giới
Bankscope2, (ii) Nguồn cơ sở dữ liệu thị trường Datastream3, (iii) Nguồn dữ liệu
của Quỹ Tiền tệ Thế giới IMF. Dữ liệu được tổng hợp gồm 2 bộ số liệu:
+ Bộ số liệu châu Á - Thái Bình Dương: Luận án thu thập 54 nước châu Á Thái Bình Dương, qua quá trình sàn lọc theo tiêu chí đối tượng là NHTM, ngân

hàng được niêm yết, dữ liệu đầy đủ trong cả giai đoạn 2000-2013, bộ số liệu cuối
cùng được đưa vào phân tích gồm 178 ngân hàng tại 18 quốc gia.
+ Bộ số liệu Việt Nam: Nguồn dữ liệu gồm 16 NHTM Việt Nam
1.6. Kết quả đạt được và những đóng góp mới của luận án
Với mục tiêu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu như trên, kết quả
nghiên cứu đã cho thấy việc gia tăng vốn chủ sở hữu giúp ngân hàng hạn chế phần
nào được rủi ro ngân hàng; trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập quốc tế, ngân
hàng nên quan tâm đến giá trị của ngân hàng trên thị trường, mở rộng hoạt động
ngoại bảng, tăng trưởng tín dụng nhằm giúp ngân hàng giữ vững vị thế trên thị
trường, duy trì dòng tiền trong tương lai, từ đo hạn chế được rủi ro. Lợi nhuận ngân
hàng theo sổ sách chịu ảnh hưởng của rủi ro tín dụng, rủi ro tổng thể, rủi ro thị
trường, và rủi ro đặc thù, trong đó có sự tác động rõ nét nhất đối với thang đo tỷ lệ
lợi nhuận ROA. Bên cạnh đó, trong bối cảnh Việt Nam là quốc gia có thu nhập bình
quân đầu người thấp nhất trong mẫu nghiên cứu thuộc 18 nước, luận án đã nghiên
cứu rủi ro và lợi nhuận cho trường hợp Việt Nam với bộ số liệu 16 NHTM Việt
Nam cho kết quả: (i) Để hạn chế rủi ro tín dụng, các NHTM Việt Nam cần lưu ý
nhiều đến việc tăng vốn chủ sở hữu, đẩy mạnh các sản phẩm ngoại bảng, (ii) Để
nâng cao hiệu quả lợi nhuận, các NHTM Việt Nam nên tập trung hạn chế rủi ro tín
dụng. Kết quả này là một bằng chứng kiểm định thực nghiệm cho trường hợp châu
Á - Thái Bình Dương.

2
3

Bankscope database: Cơ sở dữ liệu ngân hàng trên thế giới của Bureau van Dijk
Datastream: Dữ liệu tài chính toàn cầu và vĩ mô của Thomson Reuters

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


7


So với các nghiên cứu thực nghiệm trước, đề tài của luận án mang một số
đóng góp quan trọng sau:
+ Luận án lần đầu tiên phân tích rủi ro và lợi nhuận đối với các NHTM châu
Á - Thái Bình Dương. Kết quả nghiên cứu có kết hợp kiểm chứng cho trường hợp
Việt Nam, cho thấy độ tin cậy cao.
+ Luận án trình bày ngắn gọn và đầy đủ lý thuyết về rủi ro và lợi nhuận của
một doanh nghiệp. Đây là cơ sở để biện luận và phát triển các nghiên cứu thực
nghiệm các tác giả trước và trong luận án này.
+ Luận án đã trình bày chi tiết phương pháp đo lường rủi ro ngân hàng, trong
đó, nhấn mạnh phương pháp đo lường rủi ro từ dữ liệu thị trường như: rủi ro tổng
thể, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất và rủi ro đặc thù.
+ Luận án đã hệ thống hóa các nghiên cứu thực nghiệm về phân tích các yếu
tố tác động đến rủi ro và các nghiên cứu thực nghiệm phân tích tác động của rủi ro
đến lợi nhuận ngân hàng.
+ Luận án đã đưa ra bằng chứng thực nghiệm về các yếu tố tác động rủi ro
ngân hàng và tác động rủi ro đến lợi nhuận ngân hàng trong trường hợp châu Á Thái Bình Dương và Việt Nam.
1.7. Cấu trúc nghiên cứu
Nội dung luận án gồm có 5 phần chính, cụ thể như sau:
Chương 1: Mở đầu
Chương này trình bày lý do chọn đề tài, xác định câu hỏi và mục tiêu nghiên
cứu, phạm vi nghiên cứu. Đồng thời, chương này cũng khái quát nguồn số liệu và
phương pháp thu thập dữ liệu. Cuối cùng, chương này cũng giới thiệu tóm tắt cấu
trúc tổ chức của luận án.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm
Chương này giới thiệu khung lý thuyết về các yếu tố tác động đến rủi ro và
tác động của rủi ro đến lợi nhuận ngân hàng. Đầu tiên, lý thuyết sẽ trình bày các

lược khảo lý thuyết về rủi ro tổng thể, rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro lãi
suất, rủi ro đặc thù. Trên cơ sở các nghiên cứu trước, luận án sẽ xây dựng các giả
thuyết cho từng yếu tố như: Vốn ngân hàng, Chater value, cấu trúc thu nhập, hoạt
động ngoại bảng, quy mô, tăng trưởng tín dụng tác động như thế nào đến rủi ro. Nội
dung thứ hai trong phần này sẽ thảo luận ngắn về các lý thuyết nền tảng như

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

8


Markowitz (1959), Sharpe và Lintner (1965), Merton (1987). Các lý thuyết này cho
thấy tính đánh đổi (trade off) giữa rủi ro và lợi nhuận, và điều này đã được kiểm
chứng qua các nghiên cứu thực nghiệm. Cũng cần lưu ý rằng các nghiên cứu thực
nghiệm áp dụng cho nhiều nhân tố rủi ro và nhiều cách tiếp cận đo lường lợi nhuận
khác nhau đã mang đến nhiều kết quả khác biệt. Nhưng trên hết, những lược khảo
lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm sẽ là cơ sở cho việc đề xuất khung lý thuyết
của luận án.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
Để thực hiện giả thuyết nghiên cứu, chương này trình bày mô hình định
lượng để lượng hóa các mối quan hệ về rủi ro và lợi nhuận của các NHTM. Theo
cách tiếp cận mô hình rủi ro thị trường đa nhân tố (Flannery, 1984), rủi ro thị
trường, rủi ro lãi suất, rủi ro đặc thù sẽ được đo lường. Bên cạnh đó, phù hợp với
các nghiên cứu trước của Sun (2011), Haq và Heaney (2012), luận án sẽ đưa vào rủi
ro tổng thể và rủi ro tín dụng. Trên cơ sở phân tích đánh giá ưu nhược điểm của
từng đo lường, luận án sẽ lựa chọn thang đo phù hợp cho từng khái niệm nghiên
cứu của luận án. Ngoài ra, phần này cũng trình bày cụ thể dữ liệu báo cáo tài chính
của 18 nước châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có nhấn mạnh đến Việt Nam cùng

với số liệu giá cổ phiếu các ngân hàng, chỉ số thị trường và dữ liệu kinh tế vĩ mô
trong suốt giai đoạn 2000-2013.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương này trình bày kết quả nghiên cứu định lượng về các yếu tố tác động
đến rủi ro ngân hàng và rủi ro tác động tới lợi nhuận trong trường hợp Việt Nam và
các nước châu Á - Thái Bình Dương. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án cũng
tiến hành so sánh với các nghiên cứu trước.
Chương 5: Kết luận và đề xuất giải pháp
Từ cơ sở lý thuyết và kết quả nghiên cứu định lượng, chương 5 sẽ đưa ra
những kết luận chung và sẽ đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả về
mặt lợi nhuận của các ngân hàng thông qua hạn chế đến mức thấp nhất tác động của
rủi ro ngân hàng, trong ngắn hạn và dài hạn ở Việt Nam và các nước châu Á - Thái
Bình Dương. Sau khi đã hoàn thành nghiên cứu, luận án đã đúc kết lại những đóng
góp của luận án về mặt lý thuyết và thực tiễn, đồng thời, trình bày những hạn chế và
hướng nghiên cứu tiếp theo trong tương lai.

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

9


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
Để có thể xác định khe hở nghiên cứu và hình thành mục tiêu nghiên cứu
cũng như đề xuất giả thuyết nghiên cứu, chương này trình bày lý thuyết nền về rủi
ro và lợi nhuận và đồng thời trình bày một cách hệ thống các nghiên cứu thực
nghiệm về các yếu tố tác động rủi ro và rủi ro tác động đến lợi nhuận. Từ đây, luận
án sẽ phân tích và lập luận để đề xuất yếu tố nào tác động đến rủi ro và rủi ro tác

động đến lợi nhuận. Với những biện luận được rút ra từ cơ sở các nghiên cứu thực
nghiệm trước, luận án cũng sẽ đề xuất các giả thuyết nghiên cứu để làm cơ sở kiểm
định thực nghiệm trong các chương tiếp theo.
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Khái niệm về rủi ro
Rủi ro được xem là một khái niệm đa chiều (multi-factors) do tác động của
rủi ro đến lợi nhuận thông qua nhiều con đường khác nhau. Vì thế để nhận dạng và
hạn chế tác động rủi ro đến lợi nhuận, lý thuyết đã phân rủi ro thành nhiều loại rủi
ro khác nhau. Theo cách tiếp cận tài chính doanh nghiệp, rủi ro một doanh nghiệp
được phân thành nhiều nhóm rủi ro như: rủi ro tài chính, rủi ro kinh doanh, rủi ro
hoạt động, rủi ro chính trị. Đối với NHTM, rủi ro tài chính là đặc biệt quan trọng vì
ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh liên quan đến tiền tệ và bản chất hoạt động
luôn tìm ẩn rủi ro. Vì thế, việc nâng cao hiểu biết về rủi ro ngân hàng sẽ rất quan
trọng đối với các chủ thể tham gia thị trường tài chính. Các nhà quản lý và giám sát
mang trọng trách đảm bảo hệ thống NHTM phát triển an toàn và ổn định, do đó sẽ
tập trung vào rủi ro tổng thể và rủi ro đặc thù (Haq và Heaney, 2012). Trong khi các
cổ đông ngân hàng thường lo ngại vào việc mất khả năng thanh toán của ngân hàng
nên sẽ tập trung vào rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro tổng thể, rủi ro đặc thù,
rủi ro tín dụng (Haq và Heaney, 2012). Chính vì các lý do này mà nhiều nghiên cứu
thực nghiệm tập trung nghiên cứu các yếu tố tác động đến các loại rủi ro này.
Sự phát triển các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy phân tích rủi ro tập trung
vào nhóm rủi ro vốn cổ phần (rủi ro tổng thể, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

10



đặc thù), và rủi ro tín dụng. Konishi và Yasuda (2004) đã phân tách rủi ro tổng thể
thành rủi ro đặc thù, rủi ro hệ thống, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất. Dựa trên cách
tiếp cận của Basel, rủi ro ngân hàng bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro
hoạt động, trong đó công thức tính rủi ro tổng thể gần giống rủi ro hoạt động (Sun,
2011). Gần giống với cách phân tích của Konishi và Yasuda (2004), Haq và Heaney
(2012) đã phân tách rủi ro tổng thể thành rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro đặc
thù, rủi ro tín dụng. Bản chất rủi ro là khả năng dẫn đến tổn thất NH. Cùng với sự
phát triển phức tạp của thị trường tài chính, diễn biến rủi ro ngày càng đa dạng. Gần
đây nhất, Leung và cộng sự (2015) phân chia rủi ro ngân hàng thành 6 loại rủi ro
gồm: rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro vỡ nợ, rủi ro mất thanh khoản vốn, rủi
ro liên quan đến khủng hoảng, rủi ro đặc thù. Theo các cách tiếp cận trên, mặc dù
Leung và cộng sự (2015) phân chia khá chi tiết từng loại rủi ro nhưng cách tiếp cận
này chỉ dựa trên mô hình đa nhân tố thị trường và được đo lường trên thông tin thị
trường. Thêm vào đó, chức năng cơ bản của ngân hàng là huy động để cho vay
nhưng chỉ có Haq and Heaney (2012) đưa rủi ro tín dụng vào nghiên cứu chung với
các loại rủi ro có nguồn gốc thị trường.
Qua phần phân tích trên, vấn đề phân tích rủi ro vốn cổ phần và rủi ro tín
dụng được quan tâm chú trọng, đặc biệt từ sau khủng hoảng tài chính 2008 thì vấn
đề phân tích các loại rủi ro thật sự cần thiết. Tuy nhiên, một điểm cần chú ý trong
các phân tích rủi ro ngân hàng, mỗi loại rủi ro có một cách tiếp cận khác nhau trong
phương pháp đo lường nên mỗi rủi ro sẽ phản ánh một khía cạnh nhất định của rủi
ro. Vì vậy, mối quan hệ giữa các yếu tố tác động đến rủi ro và mối quan hệ giữa rủi
ro và lợi nhuận vẫn là chủ đề tiếp tục được nghiên cứu. Để có cơ sở phân tích và
triển khai các đo lường trong các nội dung tiếp theo, luận án sẽ khái quát các định
nghĩa về năm loại rủi ro được phân tích trong luận án, cụ thể như sau:
- Rủi ro tín dụng: Rủi ro thay đổi giá trị do các thay đổi trong chất lượng tín
dụng của ngân hàng. Nguồn gốc của rủi ro tín dụng từ việc khách hàng không trả
được nợ vay ngân hàng, một khách hàng tham gia vào hợp đồng tín dụng phát sinh
với ngân hàng theo đó số tiền phải thanh toán là dựa trên giá trị thị trường nhưng
sau đó thị trường thay đổi bất lợi nên khách hàng nhận nợ bắt buộc và không trả


Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

11


được nợ. Theo cách tiếp cận từ phía ngân hàng, rủi ro thường được đo lường bằng
tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro.
- Rủi ro tổng thể: Khi danh mục đầu tư chỉ bao gồm một loại tài sản, ví dụ
như cổ phiếu của một công ty, thì rủi ro của danh mục hoàn toàn là rủi ro của cổ
phiếu đó, hay còn được gọi là rủi ro tổng thể. Rủi ro tổng thể được đo bằng độ biến
thiên của suất sinh lợi, do tác động của các yếu tố chung của thị trường và nền kinh
tế như: lạm phát, tỷ giá hối đoái, chu kỳ kinh doanh và các yếu tố đặc thù của bản
thân doanh nghiệp phát hành cổ phiếu. Rủi ro tổng thể cho biết khả năng không
chắc chắn của dòng thu nhập từ toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp (Miller, 1990).
Trong các nghiên cứu thực nghiệm NHTM, rủi ro tổng thể đo lường các biến động
của dòng tiền, cụ thể là bằng phương sai của lợi nhuận ROA, ROE (Miller, 1990)
hoặc bằng độ lệch chuẩn của lợi nhuận cổ phiếu (Haq và Heaney (2012),
Galagedera (2014)).
Trong rủi ro tổng thể, rủi ro do các yếu tố chung tạo ra được gọi là rủi ro hệ
thống vì nó tác động đến tất cả các loại tài sản trên thị trường. Rủi ro hệ thống có
các rủi ro thành phần như: rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá. Khái niệm
về rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất cụ thể như sau:
- Rủi ro thị trường: Rủi ro thị trường được định nghĩa là mức độ nhạy cảm
của lợi nhuận cổ phiếu trước những biến động thị trường, thường được đo lường
bằng beta thị trường (Baele và cộng sự, 2015). Hay nói cách khác, rủi ro thị trường
là rủi ro của một doanh nghiệp không dự tính được sự thay đổi của thị trường (giá
cả hàng hóa, giá cổ phiếu, giảm giá đồng tiền). Rủi ro thị trường được đo lường

bằng beta của mô hình CAPM. Nguồn gốc của rủi ro thị trường từ rủi ro đồng tiền,
rủi ro từ những khoản thu nhập cố định như: kỳ vọng lạm phát, biến động thị trường
chứng khoán, biến động hàng hóa, và vấn đề thanh khoản thị trường.
- Rủi ro lãi suất: Là rủi ro việc ngân hàng không dự tính được sự thay đổi
của lãi suất thị trường dẫn đến thay đổi cấu trúc kỳ hạn (rủi ro chênh lệch kỳ hạn)
của các tài sản nhạy cảm với lãi suất, hoặc rủi ro phát sinh từ mối tương quan không
hoàn hảo khi thay đổi lãi suất phải trả và lãi suất phải thu của các tài sản có cùng

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

12


đặc điểm. Trong phạm vi luận án này, rủi ro lãi suất được xem là một thành phần
của rủi ro thị trường và được đo lường bằng beta của mô hình CAPM.
- Rủi ro đặc thù: Cũng trong rủi ro tổng thể, rủi ro đặc thù là rủi ro do các
yếu tố riêng của tài sản tạo ra (Merton, 1987). Khi kết hợp nhiều loại tài sản với
nhau trong một danh mục đầu tư thì rủi ro đặc thù của cả danh mục được giảm
xuống do các yếu tố tác động đến rủi ro đặc thù của các loại tài sản riêng lẽ trong
danh mục là khác nhau và có thể triệt tiêu lẫn nhau. Nếu số lượng tài sản trong danh
mục là đủ lớn thì rủi ro đặc thù của danh mục sẽ được loại bỏ. Rủi ro đặc thù cũng
chính là độ lệch chuẩn của phần dư (Residual Risk) trong mô hình CAPM.
Theo lý thuyết danh mục đầu tư, rủi ro tổng thể bằng tổng các rủi ro theo
cách tiếp cận của phương pháp CAPM. Mối quan hệ giữa các rủi ro này có thể được
thể hiện qua hình 2.1.:
Phương
sai
Rủi ro đặc thù, rủi ro có

thể đa dạng hóa được

Rủi ro hệ thống, rủi ro thị
trường, rủi ro không thể đa
dạng hóa được
Số lượng
chứng khoán

Hình 2.1.: Mối quan hệ giữa rủi ro tổng thể và số lượng chứng khoán trong
danh mục đầu tư
Nguồn: (Ross, 2003)
Các khái niệm rủi ro này sẽ được đo lường trong các mô hình định lượng ở
những chương tiếp theo.

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

13


2.1.2. Khái niệm lợi nhuận
Kinh tế học tân cổ điển khẳng định trong điều kiện thị trường cạnh tranh
hoàn hảo, mọi doanh nghiệp đều hoạt động vì lợi nhuận thông qua tối đa hóa doanh
thu và tối thiểu hóa chi phí nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Ngay cả hoạt động
trong điều kiện thị trường cạnh tranh, thị trường độc quyền, các doanh nghiệp cũng
hoạt động không ngoài nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận. Chính vì thế, lợi nhuận
chính là thước đo hiệu quả một doanh nghiệp.
Nghiên cứu về lợi nhuận đóng vai trò quan trọng không chỉ bởi vì cung cấp
thông tin về sức khỏe của hệ thống ngân hàng, mà còn do lợi nhuận là yếu tố quan

trọng đối với tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Sự thay đổi của lợi nhuận
của ngân hàng sẽ quyết định đến hoạt động huy động vốn và chiến lược đầu tư của
ngân hàng. Bởi lẽ khi lợi nhuận càng tăng sẽ góp phần gia tăng dòng tiền của ngân
hàng, và từ đó tạo nên nhiều cơ hội cho đầu tư trong tương lai. Vì thế, lợi nhuận góp
phần thúc đẩy quan trọng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, năng lực cạnh tranh
của ngân hàng trên thị trường. Thêm vào đó, lợi nhuận của một ngân hàng góp phần
nâng cao giá trị của ngân hàng đối với cổ đông và các nhà quản lý. Một doanh
nghiệp có kết quả kinh doanh tốt cũng góp phần đóng góp cho sự phát triển kinh tế
của một quốc gia.
Việc đánh giá hiệu quả của ngân hàng có thể được phát triển theo 2 mô hình:
mô hình theo dữ liệu sổ sách kế toán (Accounting Model) và mô hình kinh tế
(Economic Model). Mô hình dữ liệu sổ sách kế toán được đo lường bằng các tỉ số.
Trong khi đó, ở mô hình kinh tế, hiệu quả ngân hàng là giá trị của ngân hàng bao
gồm tập hợp của lợi nhuận, cơ hội đầu tư trong tương lai, chi phí vốn, tỷ suất lợi
nhuận (Hejazi và cộng sự, 2016).
Có nhiều cách tiếp cận để gọi tên lợi nhuận. Các nhà đầu tư thường quan tâm
đến thông tin lợi nhuận cổ phiếu, các chỉ số số lợi nhuận/giá cổ phiếu để quyết định
khối lượng đầu tư trong danh mục. Đối với nhà quản lý, chỉ số lợi nhuận được đo
lường từ sổ sách thường được chú ý hơn. Dù lợi nhuận được đo lường từ dữ liệu thị
trường hay đo lường từ dữ liệu sổ sách kế toán đều nói lên hiệu quả doanh nghiệp
và cũng vì mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp.

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

14


2.1.3. Các lý thuyết về rủi ro và lợi nhuận

Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận là một vấn đề trung tâm của tài chính
doanh nghiệp và vấn đề này đặc biệt được nhấn mạnh từ sau cuộc khủng hoảng tài
chính 2008. Sự quan tâm của lý thuyết đến vấn đề rủi ro và lợi nhuận có từ rất sớm
do Frank Kight (1895-1973) với giả thuyết về sự không chắn chắn và lợi nhuận.
Đến năm 1963, lý thuyết danh mục đầu tư của Markowitz ra đời giúp các nhà đầu tư
xác định được tỷ trọng đầu tư vào danh mục và hình thành khái niệm rủi ro tổng
bằng tổng các loại rủi ro. Tuy nhiên, lý thuyết của Markowitz có một hạn chế là giả
định rủi ro của một chứng khoán phụ thuộc duy nhất vào beta của chứng khoán đó
nên lý thuyết thị trường vốn APT của Ross được phát triển để khắc phục nhược
điểm này. Tuy nhiên, mô hình CAPM và lý thuyết APT không quan tâm đến vai trò
của rủi ro đặc thù, trong khi lý thuyết định giá của Merton đã nhấn mạnh rủi ro đặc
thù là một thành phần của tổng rủi ro và rủi ro đặc thù có tác động đồng biến đến lợi
nhuận. Ngoài các lý thuyết trên về mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận trên giác độ
của nhà đầu tư, lý thuyết quyền chọn cũng được trình bày trong phần này không chỉ
cho thấy rủi ro có ảnh hưởng đến lợi nhuận mà còn nhấn mạnh đến việc tính toán
lợi nhuận trong tương lai có khấu trừ yếu tố rủi ro.
Với kỳ vọng rằng hệ thống hóa lý thuyết và đi đến lựa chọn lý thuyết chính
vận dụng trong luận án, phần này sẽ lần lượt trình bày chi tiết từng lý thuyết về rủi
ro và lợi nhuận, cụ thể như sau:
Lý thuyết lợi nhuận và rủi ro của Frank Knight (1895-1973)
Đóng góp lớn nhất của ông đối với kinh tế là tác phẩm rủi ro, sự không chắc
chắn và lợi nhuận (1921). Có thể xem Knight là trong những nhà khoa học hiện đại
đầu tiên nghiên cứu sâu về rủi ro và lợi nhuận. Mục tiêu cơ bản của lý thuyết này là
giải thích sự điều tiết lợi nhuận trong kinh doanh dưới dạng một hàm số của rủi ro
bất định. Trong bối cảnh nền kinh tế hiện đại phát triển, sự nghiên cứu của Frank
Knight đã có tác dụng gắn kết những vấn đề về mặt lý thuyết giữa kinh tế vĩ mô và
kinh tế vi mô. Ban đầu, khi đưa ra những khái niệm và sự phân biệt giữa rủi ro và
bất định, F.Knight đã nhận được sự phản đối gay gắt của các nhà khoa học nhưng
dần dần các nghiên cứu của ông đã có sức thuyết phục lớn. Có 4 quan điểm về rủi
ro của Knight: (i) Lý thuyết không quan tâm đến tính sẵn có của thông tin và vấn đề

phân phối nguồn lực cấp độ vi mô phụ thuộc vào bất đối xứng thông tin, (ii) Lý
thuyết chưa phân biệt và giải thích được tại sao tồn tại sự khác biệt giữa rủi ro kỳ

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

15


hạn và sự không chắc chắn kỳ hạn, (iii) Lý thuyết không chỉ ra được rủi ro và sự
không chắc chắn trong hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp, (iv) Lý thuyết
không quan tâm đến yếu tố đặc thù của từng hoạt động kinh tế. Chính những hạn
chế này mà không nhiều nghiên cứu thực nghiệm được phát triển cho đến khi các lý
thuyết về rủi ro và lợi nhuận hiện đại ra đời.
Lý thuyết danh mục đầu tư (Efficiency Portfolio Theory)
Nền tảng cơ bản của lý thuyết này cho rằng danh mục càng đa dạng hóa thì
nhà đầu tư càng hạn chế được rủi ro. Giả thuyết rằng nhà đầu tư sẽ lựa chọn danh
mục đầu tư dựa trên hai yếu tố là lợi nhuận trung bình (suất sinh lợi kỳ vọng) và rủi
ro (phương sai của lợi nhuận) có phân phối chuẩn. Từ đây, Harry Markowitz đã mô
hình hóa quá trình lựa chọn danh mục đầu tư dưới dạng một bài toán quy hoạch phi
tuyến với mục tiêu là tìm các trọng số đầu tư sao cho giảm tới mức tối thiểu phương
sai mà đạt được một mức suất sinh lợi đã định. Bài toán thuận là với một mức sinh
lợi kỳ vọng xác định, tìm trọng số đầu tư sao cho rủi ro danh mục là tối thiểu. Bài
toán nghịch là với một mức rủi ro danh mục cho trước tìm trọng số đầu tư sao cho
suất sinh lợi kỳ vọng là tối đa. Như vậy, theo lý thuyết danh mục đầu tư, thông tin
đầu vào là mức sinh lợi kỳ vọng và rủi ro danh mục cho trước để xác định trọng số
đầu tư sao cho danh mục đầu tư là hiệu quả4 nhất.
Hay nói cách khác, lý thuyết này phân tách công việc của nhà đầu tư thành
hai giai đoạn. Đầu tiên, nhà đầu tư phải chọn danh mục cổ phiếu thường tốt nhất có

beta bằng 1 và phí bù rủi ro thị trường5 (market risk premium) là (suất sinh lợi thị
trường – lãi suất phi rủi ro), nhưng trong thị trường cạnh tranh thì việc nắm giữ độc
quyền thông tin là khó thực hiện, vì thế phương án đầu tư tốt nhất là nhà đầu tư lựa
chọn danh mục theo chỉ số thị trường. Thứ hai, danh mục này phải được kết hợp với
một khoản đầu tư phi rủi ro với beta bằng 0 và phí bù rủi ro bằng 0, chẳng hạn như
tín phiếu kho bạc. Nhưng câu hỏi đặt ra là phí bù rủi ro là bao nhiêu khi beta không
phải là 0 hoặc 1? Thật vậy, lý thuyết danh mục đầu tư không chỉ ra được tỷ suất lợi
nhuận kỳ vọng của nhà đầu tư là bao nhiêu khi beta nằm trong khoảng [0,1]. Đây là
một vấn đề thách thức đối với các nhà kinh tế cho đến khi lý thuyết mô hình định
giá ra đời và đã trả lời được câu hỏi trên.
4

Vấn đề thế nào là “hiệu quả” tùy thuộc vào quan điểm của nhà đầu tư là ngại rủi ro hay không?
Phí bù rủi ro thị trường là mức độ bù đắp rủi ro giữa quyết định đầu tư vào tài sản vốn cổ phần so với việc đầu tư vào
một tài sản khác không rủi ro hoặc rất ít rủi ro (như trái phiếu chính phủ). Nếu mức độ bù đắp theo kỳ vọng và yêu cầu
không đủ lớn, người ta sẽ không quyết định đầu tư. Trong mô hình định giá tài sản vốn CAPM, phí bù rủi ro = suất sinh
lợi thị trường – lãi suất phi rủi ro .
5

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

16


Mô hình định giá tài sản (Capital Asset Pricing Model)
Trên nền tảng lý thuyết danh mục đầu tư của Markowitz’s, Sharpe và Linter
(1965) đã phát triển lý thuyết mô hình định giá tài sản vốn CAPM. Mô hình này mô
tả mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng (Expected Return). Mô hình

này giả định rằng thị trường là hoàn hảo và hiệu quả; tất cả nhà đầu tư đều ngại rủi
ro; không có chi phí giao dịch. Mô hình này phân rủi ro thành hai thành phần: (i)
Rủi ro đặc thù (hay còn gọi là rủi ro riêng biệt) là rủi ro có thể hạn chế đến bằng 0
thông qua hoạt động đa dạng hóa đầu tư, (ii) Rủi ro hệ thống là rủi ro không thể loại
bỏ bằng cách đa dạng hóa danh mục đầu tư. Trong đó, rủi ro hệ thống (rủi ro thị
trường) được xác định bằng cách đo lường độ nhạy cảm của các chứng khoán đối
với các biến động thị trường (beta). Khi đầu tư vào một chứng khoán càng rủi ro thì
nhà đầu tư kỳ vọng về lợi nhuận càng cao để bù đắp phần rủi ro đó. Hay nói cách
khác, tỷ suất lợi nhuận và giá chứng khoán biến động không cùng chiều với nhau
nên khi một chứng khoán làm gia tăng rủi ro cho danh mục đầu tư so với rủi ro thị
trường thì cầu chứng khoán sẽ giảm do tâm lý e ngại rủi ro của nhà đầu tư, dẫn đến
giá chứng khoán này giảm, và tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng sẽ cao hơn lợi nhuận thị
trường. Mô hình này có thể được biểu diễn thông qua mô hình rủi ro được định giá
bằng hệ số beta (β) như sau:
Trong đó:
+

: Suất sinh lợi kỳ vọng của một chứng khoán thứ i hoặc một tài sản

+

: Lãi suất phi rủi ro đối với nhà đầu tư

+

: Đo lường rủi ro hệ thống của chứng khoáng i

+

: Lợi nhuận kỳ vọng thị trường


+

: Phí bù rủi ro

Theo công thức trên, hệ số beta có thể được tính như sau:

Các nghiên cứu thực nghiệm cũng chứng minh rằng lý thuyết mô hình định
giá tài sản vốn CAMP có ưu điểm là đơn giản và dễ áp dụng trong việc đo lường rủi
ro và tính lợi nhuận cổ phiếu nhưng lý thuyết này cũng có một số hạn chế nhất định.
Trong điều kiện thị trường là không hoàn hảo và thị trường tài chính không hiệu

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

17


quả thì các lý thuyết này không còn mang lại kết quả đo lường rủi ro chính xác và lý
thuyết này cho rằng tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của một chứng khoán phụ thuộc duy
nhất beta của chứng khoán đó. Chính vì hạn chế này, các lý thuyết vẫn tiếp tục phát
triển để khắc phục nhược điểm của lý thuyết mô hình định giá tài sản.
Lý thuyết thị trường vốn APT (Arbitrage Pricing Theory) của Ross
(1976)
Giống như mô hình định giá tài sản vốn CAPM, lý thuyết định giá dựa trên
kinh doanh chênh lệch giá APT của Ross (1976) nhấn mạnh đến suất sinh lợi kỳ
vọng phụ thuộc vào rủi ro hệ thống và không bị ảnh hưởng bởi rủi ro đặc thù. Lý
thuyết suất sinh lợi của một chứng khoán phụ thuộc vào mức độ chịu ảnh hưởng
của chứng khoán đó trước một số yếu tố kinh tế vĩ mô phổ biến tác động đến suất

sinh lợi của chứng khoán:

+

: Suất sinh lợi kỳ vọng của một chứng khoán thứ i hoặc một tài sản

+

: Lãi suất phi rủi ro đối với nhà đầu tư (trái phiếu chính phủ)

+

: Độ nhạy của chứng khoán i đối với yếu tố k

+

: Mức đền bù rủi ro cho mỗi đơn vị của yếu tố k

Theo mô hình trên, cổ phiếu được định giá càng chính xác khi nhà đầu tư xác
định được các yếu tố hệ thống tác động đến cổ phiếu, đo lường được phí bù rủi ro
kỳ vọng đối với mỗi yếu tố đưa vào mô hình và cuối cùng là đo lường được độ nhạy
của mỗi chứng khoán đối với các yếu tố này. Các yếu tố rủi ro thường được nhắc
đến trong mô hình APT gồm: chênh lệch suất lợi nhuận, lãi suất, tỷ giá hối đoái,
GNP thực, lạm phát, thị trường.
Như vậy, lý thuyết APT có thể được xem là lý thuyết tổng quát về lợi nhuận
kỳ vọng của một tài sản tài chính. Mô hình CAPM là một trường hợp đặc biệt của
APT. Thêm một ưu điểm nổi trội của APT so với CAPM là APT không yêu cầu có
một tập hợp chứng khoán thị trường để có RM. Ngoài ra các mô hình thực nghiệm
cho thấy APT có R2 luôn cao hơn so với CAMP. Tuy nhiên, vì nền tảng của lý
thuyết APT là mô hình thực nghiệm nên lý thuyết này bị hạn chế bởi nhược điểm là

không xác định được đâu là biến độc lập được chỉ định mà do nhà phân tích tùy ý

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

18


chọn các yếu tố rủi ro. Nguyên tắc xác định biến độc lập trong các mô hình APT khi
các biến độc lập giải thích được trên 90% dao động giá cổ phiếu.
Lý thuyết định giá quyền chọn thực (option-pricing theory)
Trong việc định giá tài sản tài chính6, tồn tại một phương pháp định giá dựa
trên nguyên lý về giá trị thời gian của dòng tiền chiết khấu trong tương lai về hiện
tại (NPV). Tuy nhiên, phương pháp này có một giả định ngầm là việc đầu tư có thể
đảo ngược, nghĩa là bằng cách nào đó nhà đầu tư có thể ngưng đầu tư và phục hồi
lại các chi phí khi thị trường trở nên bất lợi. Nhưng thực tế đã chứng minh cơ hội
đầu tư dường như không thể đảo ngược và không thể trì hoãn. Điều này được hiểu
là chi phí đầu tư đã bỏ ra sẽ không thể hoàn lại và giá trị mất đi để có được quyền
chọn này là một chi phí cơ hội cần được tính toán vào như một chi phí đầu tư. Như
vậy, giá trị một đơn vị tài sản sẽ vượt quá chi phí cố định bằng với một lượng chi
phí duy trì quyền chọn đầu tư. Xuất phát từ ý tưởng này, Black và Scholes (1973)
đã xây dựng nên lý thuyết định giá quyền chọn thực. Một quyền chọn (option) là
hợp đồng giữa hai bên – người mua và người bán, theo đó người mua có quyền mua
hoặc bán một tài sản vào một ngày trong tương lai với giá cả được thỏa thuận vào
ngày hôm nay. Chẳng hạn, người mua quyền chọn mua (calls) sẽ trả phí quyền chọn
khi thực hiện hợp đồng và phần phí còn lại khi đến hạn. Một quyền chọn mua giúp
nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro giá lên trong khi quyền chọn bán giúp nhà đầu tư
phòng ngừa rủi ro giá xuống khi đáo hạn hợp đồng. Một trong những đặc tính hấp
dẫn của quyền chọn là cho phép nhà đầu tư thực hiện các chiến lược kết hợp quyền

chọn với cổ phiếu hoặc một quyền chọn khác để đạt được mục tiêu của nhà đầu tư
tùy vào mức độ ưa thích rủi ro và mục tiêu lợi nhuận của nhà đầu tư.
Để định giá một quyền chọn (hay một cổ phiếu), Black-Scholes sử dụng các
thông tin về giá tài sản, giá ghi nhận trên hợp đồng, lãi suất phi rủi ro hiện hành,
biến động tài sản kỳ vọng, và kỳ hạn đến khi hết thời hạn theo một công thức, cụ
thể như sau:

Trong đó:

6

+

Tài sản tài chính là cổ phiếu, trái phiếu, tiền, vàng hoặc chỉ số chứng khoán.

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

19


+
+

: Giá trị quyền chọn thời điểm hiện tại

+

: Giá cổ phiếu thời điểm hiện tại


+ X: Giá thực hiện
+ σ: Độ lệch chuẩn của suất sinh lợi kép cổ phiếu
Mô hình Black-Scholes được thực hiện trên giả định gồm tài sản cơ sở biến
động ngẫu nhiên và có phân phối chuẩn, lãi suất phi rủi ro và tỷ suất sinh lợi của tài
sản cơ sở duy trì ổn định trong suốt kỳ hạn quyền chọn, không có thuế và chi phí
giao dịch, quyền chọn là kiểu Châu Âu7, cổ phiếu không trả cổ tức. Và mô hình tiếp
tục phát triển khi Bob Merton đã đưa cổ tức (dividends) vào công thức BlackScholes sau:

Với

+
+

Mô hình định giá quyền chọn Black-Scholes có ưu điểm là lượng hóa giá trị
cổ phiếu một cách khách quan, phương pháp tiến hành đơn giản, và quan trọng là có
thể tính toán trong thời gian ngắn. Quyền chọn được xem là công cụ phát sinh có
vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa rủi ro hiệu quả trên thị trường tài chính.
Tuy nhiên, lý thuyết này cũng có những hạn chế nhất định như: chỉ áp dụng được
cho quyền chọn kiểu Châu Âu, và một số giả định của mô hình cho thấy không phù
hợp thực tế.
Lý thuyết tài chính truyền thống (Standard Therories of Finance) bao gồm
những lý thuyết về nguyên lý mua bán (Arbitrage) của Miller và Modigliani, các
yếu tố danh mục của Markowitz, lý thuyết định giá của Sharpe, Lintner và Black, lý
thuyết thị trường vốn APT của Ross (1976), lý thuyết về định giá quyền chọn của
Black, Scholes và Merton đều được xem xét trong thị trường hiệu quả và giải thích
có tính quy chuẩn cao. Thật vậy, giả thuyết thị trường hiệu quả thật sự đã thống lĩnh
trong giới học thuật cho đến những năm 1970 nhưng giả thuyết này vẫn tồn tại
nhiều hạn chế liên quan đến các giả định. Thứ nhất, khái niệm “nhà đầu tư duy lý”
7


Quyền chọn theo kiểu châu Âu là hợp đồng quyền chọn được thực hiện vào ngày đáo hạn. Ngược lại, quyền
chọn được thực hiện tại bất kỳ thời điểm nào trước khi đáo hạn là quyền chọn theo kiểu châu Mỹ.

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

20


là những nhà đầu tư luôn đánh giá chính xác giá trị cơ bản của chứng khoán và họ
cũng phản ánh hay ứng xử một cách đúng đắn với tất cả thông tin, nhưng trong thực
tế không phải ai cũng hoàn hảo đến mức trở thành “nhà đầu tư hợp lý”; thứ hai, hoạt
động đầu tư của các nhà đầu tư có tương quan kém với những người khác trong khi
các nhà tâm lý học đã chứng minh được các nhà đầu tư đi chệch với kỳ vọng theo
một xu hướng chung; thứ ba, khi nhà đầu tư có hành vi phi lý, các nhà đầu tư sẽ
dùng nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá để điều chỉnh giá sai về trạng thái thực
của tài sản, thế nhưng thực tế cho thấy việc định giá sai không hoàn toàn được khắc
phục khi bị kích hoạt bởi một số yếu tố. Chính những hạn chế này của giả thuyết thị
trường hiệu quả, cùng với những sai lầm trong định giá cổ phiếu hoặc những biến
động quá mức của lợi nhuận cổ phiếu, điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu, nhiều câu hỏi đặt ra là thị trường luôn thật sự hiệu quả hay không? Hoặc thông
tin có thật sự tuyệt đối hoàn hảo không? Những câu hỏi này đòi hỏi lý thuyết hay
công trình nghiên cứu thực nghiệm bổ sung cho lý thuyết thị trường hiệu quả vì
thực tế giả thuyết thị trường hiệu quả không thể giải thích được sự biến động của
giá cổ phiếu. Chính từ đây, nhiều lý thuyết tài chính hiện đại ra đời như lý thuyết
định giá cổ phiếu trong môi trường thông tin không hoàn hảo (Merton, 1987), và
nhiều lý thuyết hành vi sau này đã ra đời.
Lý thuyết định giá cổ phiếu trong môi trường thông tin không hoàn hảo

của Merton (1987)
Theo lý thuyết mô hình định giá tài sản CAPM, với giả định thị trường hiệu
quả về mặt thông tin thì rủi ro tổng thể của một danh mục đầu tư chỉ phụ thuộc duy
nhất vào beta của danh mục đó. Điều này có nghĩa là rủi ro đặc thù của danh mục
đầu tư không được định giá với biện luận rằng nhà đầu tư có thể đa dạng hóa để loại
bỏ hoàn toàn rủi ro đặc thù. Nhưng giả sử rằng nhà đầu tư không đa dạng hóa được
danh mục đầu tư vì những khuyết tật của thị trường8 thì lý thuyết này không chỉ ra
được rủi ro đặc thù có tác động và tác động như thế nào đến giá cổ phiếu hay
không. Theo Merton (1987), lý thuyết mô hình CAPM chỉ có hiệu quả (phù hợp với
8

Những khuyết tật của thị trường có thể kể đến là chi phí giao dịch (chi phí về thông tin và giao dịch trên thị
trường) do thị trường là không hoàn hảo, sự khác biệt về hệ thống kế toán, cách thức hạch toán báo cáo tài
chính đã cản trở những nhà đầu tư “Unconstrained Investors” nắm giữ danh mục đầu tư hoặc nắm giữ một
lương rất ít thì họ không thể đa dạng hóa được.

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

21


thuyết thị trường hiệu quả) nếu xét biến động giá cổ phiếu trong dài hạn. Với những
lý luận này, năm 1987, Robert Merton đã xuất bản tác phẩm "A simple Model of
Capital Market Equilibrium with Incomplete Information" nhằm nâng cấp mô hình
định giá tài sản vốn (CAPM) để trở thành một mô hình cân bằng tổng thể toàn diện
trong môi trường thông tin không hoàn hảo. Lý thuyết của Merton (1987) ủng hộ
giả thuyết về việc loại bỏ rào cản đối với các nhà đầu tư (Investor recognition
hypothesis (IRH)). Giả thuyết này phát biểu rằng thông tin trên thị trường vốn là

không hoàn hảo, nhà đầu tư có xu hướng nắm giữ danh mục cổ phiếu có mức độ lợi
nhuận và rủi ro mà họ biết được. Hay nói cách khác, một nhà đầu tư chỉ đầu tư
trong giới hạn họ có thể đa dạng hóa được. Kết quả là nhà đầu tư sẽ nắm giữ những
cổ phiếu ít đa dạng hóa9 (Under Diversified Portfolio) và có rủi ro đặc thù mà họ
nắm rõ. Và trong mô hình thực nghiệm của Merton (1987) tìm thấy rủi ro đặc thù
tác động đồng biến đến lợi nhuận chéo của cổ phiếu (cross-sectional stock returns).
Điều này có nghĩa là rủi ro đặc thù càng cao thì càng có thể tạo ra càng nhiều lợi
nhuận trong điều kiện nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu ít đa dạng hóa (under-diversified
portfolio)

Trong đó:
-

R, b, δ,

là thông tin về thị trường được giả định là cố định qua

các đơn vị chéo;
-

Các yếu tố gây sự khác biệt trong lợi nhuận cân bằng gồm
,

,

,

là những khác biệt liên quan đến đặc tính của cổ phiếu trong

danh mục. Cụ thể,


cho biết mức độ tổn thất chung,

quy mô của doanh nghiệp sở hữu cổ phiếu thứ k,

cho biết
rủi ro riêng

9

Cổ phiếu ít đa dạng hóa (under-diversifiedportfolio) được xem là cổ phiếu hạn chế trong việc đa dạng hóa
do vấn đề chi phí giao dịch, chẳng hạn lợi thế thông tin dẫn đến quyết định của nhà đầu tư có nắm giữ danh
mục hay không.

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

22


biệt của doanh nghiệp,

là quy mô vốn của nhà đầu tư đối với cổ

phiếu thứ k.
Công thức định giá cổ phiếu của Merton (1987) cho thấy lợi nhuận cổ phiếu
có liên quan đến rủi ro thị trường (beta thị trường) và beta của rủi ro đặc thù. Những
nghiên cứu này có đóng góp quan trọng trong việc bổ sung hoàn thiện giả thuyết thị
trường hiệu quả trên quan điểm rủi ro đặc thù có tác động đến giá cổ phiếu. Trong

một số nghiên cứu thực nghiệm kế thừa cho thấy rủi ro đặc thù chiếm một tỷ trọng
lớn quyết định đến rủi ro tổng thể của một cổ phiếu hoặc một danh mục đầu tư. Cho
đến nay, những mô hình thực nghiệm của các lý thuyết này vẫn được kiểm chứng
trong các bối cảnh và lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Bên cạnh đó, tồn tại song
song với luồng nghiên cứu về mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận bằng các mô
hình và giả thuyết thì thị trường tài chính thập niên 90 đến nay chứng kiến sự bùng
nổ của thị trường chứng khoán, theo đó biến động giá cổ phiếu có xu hướng bất
thường ngoài tiên lượng của các lý thuyết hiện hành đã thúc đẩy nghiên cứu tâm lý
học vi kết hợp để giải thích các hiện tượng bất thường trên thị trường chứng khoán.
Và từ đây mảng lý thuyết hành vi ra đời và phát triển mạnh đến hiện nay. Các lý
thuyết tài chính hành vi là một phạm trù của tài chính, nghiên cứu bổ sung cho các
lý thuyết tài chính truyền thống (như đã phân tích trên) bằng cách nghiên cứu hành
vi và tâm lý con người tác động đến quá trình ra quyết định đầu tư. Trong giới hạn
của luận án là tập trung nghiên cứu mối quan hệ lợi nhuận và rủi ro đồng thời kiểm
chứng tác động của rủi ro đặc thù đến lợi nhuận cổ phiếu của các ngân hàng nên tác
giả không tiếp tục phân tích sâu lý thuyết tài chính hành vi mà tập trung nghiên cứu
các lý thuyết đã có nền tảng khoa học vững chắc của Fama, Markowitz, Sharpe,
Lintner và Black, Ross, Merton để làm cơ sở xây dựng mô hình nghiên cứu của
luận án.
Tóm lại, mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận là nội dung trung tâm lý
thuyết danh mục đầu tư của Markowitz (1959), lý thuyết định giá của Sharpe
(1964), Lintner và Black, lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá APT của Ross
(1976), lý thuyết định giá quyền chọn của Black, Scholes và Merton. Trong các lý
thuyết này, mô hình CAMP và lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá APT của Ross
(1976) vẫn được nhắc đến nhiều trong các nghiên cứu thực nghiệm bởi lý thuyết

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


23


này giúp các nhà nghiên cứu và nhà quản lý ước lượng được rủi ro thị trường, rủi ro
đặc thù, rủi ro lãi suất, và suất lợi nhuận kỳ vọng. Trên quan điểm nhà đầu tư, mô
hình CAMP giúp nhà đầu tư chọn lựa danh mục đầu tư có mức độ rủi ro và suất
sinh lợi kỳ vọng hợp lý. Bên cạnh đó, trên quan điểm quản lý ngân hàng, việc định
vị rủi ro qua hệ số beta từ mô hình CAMP giúp người quản lý ngân hàng xây dựng
chiến lược phát triển ngân hàng phù hợp với mức độ rủi ro của ngân hàng. Chính vì
những lý do này, luận án sẽ vận dụng mô hình CAMP để đo lường rủi ro và phân
tích mối quan hệ lợi nhuận và rủi ro trong bối cảnh các ngân hàng trong giai đoạn
2000-2013.
Mô hình CAMP là một trong những lý thuyết nền tảng về mối quan hệ giữa
lợi nhuận và rủi ro của cổ phiếu. Tuy nhiên, việc lựa chọn CAMP là lý thuyết nền
tảng cho nghiên cứu của luận án cũng đặt ra một câu hỏi là lý thuyết này đề cập đến
lợi nhuận và rủi ro của cổ phiếu trong khi nội dung nghiên cứu của luận án tập trung
vào mối quan hệ giữa rủi ro và khả năng sinh lời của ngân hàng, trong đó lợi nhuận
được đo lường từ bảng cân đối kế toán. Để trả lời câu hỏi này luận án xin trích dẫn
quan điểm của lý thuyết định giá tài chính hiện đại cho rằng lợi nhuận là một thành
phần tạo nên giá trị doanh nghiệp. Các nhà quản lý doanh nghiệp thực hiện các
quyết định sản xuất kinh doanh cũng không ngoài mục đích tối đa hóa giá trị doanh
nghiệp (Jensen, 1984). Trong khi đó, hiệu quả của các quyết định sản xuất kinh
doanh được thể hiện thông qua lợi nhuận doanh nghiệp như chỉ số ROA, ROE. Đây
chính là cơ sở quan trọng mà nhiều nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết về tác động rủi
ro đến đến chỉ số lợi nhuận.
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm và giả thuyết nghiên cứu các yếu tố tác động
đến rủi ro ngân hàng
2.2.1. Nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố tác động rủi ro ngân hàng
Tóm tắt một số nghiên cứu về phân tích rủi ro ngân hàng:
Hassan (1993) đã kiểm tra tác động của hoạt động ngoại bảng đến rủi ro tổng

thể và rủi ro hệ thống các ngân hàng, với rủi ro tổng thể được đo lường bằng độ lệch
chuẩn của lợi nhuận cổ phiếu và rủi ro hệ thống được đo lường từ mô hình đa nhân
tố thị trường. Nghiên cứu này cho thấy hoạt động ngoại bảng cũng làm một yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến rủi ro ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt động

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

24


ngoại bảng tác động làm giảm rủi ro tổng thể, nhưng không ảnh hưởng đến rủi ro hệ
thống. Và gợi ý các ngân hàng về chính sách đa dạng hóa hoạt động ngân nhằm hạn
chế rủi ro, gia tăng dòng tiền, và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Blum (1999) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn và rủi ro ngân hàng.
Nghiên cứu cho thấy việc tuân thủ an toàn vốn tối thiểu dẫn đến gia tăng rủi ro ngân
hàng. Hay nói cách khác, khi ngân hàng càng tăng vốn để đáp ứng yêu cầu vốn tối
thiểu thì ngân hàng càng có động cơ đầu tư vào danh mục tài sản rủi ro. Các cấp
quản lý vĩ mô thiết lập tiêu chuẩn an toàn vốn nhằm hạn chế việc mất khả năng
thanh toán của các ngân hàng nhưng các quy định này có thể làm giảm lợi nhuận
ngân hàng. Vì khi ngân hàng cho rằng lợi nhuận tương lai thấp hơn thì ngân hàng sẽ
xu hướng nới lỏng tiêu chuẩn trong lựa chọn danh mục đầu tư hiệu quả. Và để có
thể huy động thêm vốn nhằm đáp ứng yêu cầu an toàn vốn, ngân hàng có thể gia
tăng đầu tư như là một dấu hiệu ngân hàng hoạt động hiệu quả, từ đó rủi ro gia tăng.
Mặc dù, có nhiều quan điểm tranh luận về tác động của yếu tố vốn đối với rủi ro
ngân hàng nhưng kết quả nghiên cứu này đã đưa ra gợi ý đối với các nhà quản lý về
việc gia tăng vốn ngày mai sẽ làm gia tăng rủi ro hôm nay.
Anderson và Fraser (2000) đã nghiên cứu các yếu tố tác động đến rủi ro ngân
hàng tại Nhật. Kết quả cho thấy vốn góp người quản lý có ảnh hưởng quan trọng

đến rủi ro ngân hàng. Nghiên cứu này được thực hiện với dữ liệu bảng theo hồi quy
tác động cố định và tác động ngẫu nhiên, đồng thời sử dụng kiểm định Hausman để
lựa chọn phương pháp ước lượng phù hợp. Nghiên cứu áp dụng hồi quy mô hình thị
trường một nhân tố rủi ro (Single Factor Market Model) theo lợi nhuận cổ phiếu và
chỉ số thị trường theo ngày để đo lường beta rủi ro thị trường và rủi ro đặc thù,
trong đó rủi ro đặc thù của ngân hàng (Firm Specific Risk) là độ lệch chuẩn sai số
mô hình một nhân tố rủi ro. Bên cạnh đó, rủi ro tổng thể (Total Risk) được đo lường
từ công thức độ lệch chuẩn lợi nhuận theo ngày của cổ phiếu ngân hàng. Ngoài yếu
tố vốn góp của người quản lý thì yếu tố quy mô, Chater value, cũng được đưa vào
mô hình để phân tích. Với cách tiếp cận này, nghiên cứu đã cho thấy vốn góp của
người quản lý ảnh hưởng quan trọng đến rủi ro tổng thể và rủi ro đặc thù.
Với phương pháp hồi quy theo tác động cố định và tác động ngẫu nhiên,
Konishi và Yasuda (2004) nghiên cứu các yếu tố tác động đến rủi ro ngân hàng tại

Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399

25


×