Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm Hoạt đọng trải nghiệm môn Ngữ văn lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.84 KB, 49 trang )

KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

LỜI NÓI ĐẦU
Có một suy nghĩ trong dạy học xưa nay là thầy bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, nếu
không có thầy, người học khó mà tiếp cận kiến thức hoặc nếu có cũng mung lung, không có
định hướng. Tuy nhiên, có một thực tế là khi chúng ta để học sinh tự tiếp cận và khám phá
kiến thức, sẽ có vô cùng nhiều những điều thú vị được mở ra mà ngay cả thấy cô- kể cả
những người đứng trên bục giảng lâu năm- cũng phải bất ngờ trước những phát hiện mới
mẻ, độc đáo của HS; kiến thức khi trò tự tìm hiểu sẽ được nhìn từ nhiều phía, được đánh giá
nhiều chiều, khá sâu sắc…
Trong khi đó, giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ giáo dục tiếp
cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học. Để thực hiện được điều đó, chúng ta phải
nhanh chóng thay đổi quan điểm dạy học theo lối truyền thụ một chiều và áp đặt sang cách
học tự tiếp cận, vận dụng kiến thức, kĩ năng hình thành năng lực và phẩm chất của người
học. Hoạt động trải nghiệm trong giờ học sẽ phát huy tối đa vai trò chủ động, tích cực, sáng
tạo của học trò đặc biệt là môn Ngữ văn. Bởi đây là môn học đòi hỏi người học phải có sự
cảm nhận riêng, việc vận dụng kiến thức văn học vào cuộc sống cũng cần sự linh hoạt, đa
dạng.
Với mong muốn học sinh tiếp nhận được nhiều hơn phạm vi kiến thức một bài học môn Ngữ
văn, giúp học sinh trở thành người học tích cực, chủ động tiếp cận kiến thức, tôi mạnh dạn
trình bày SK “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện
đại”
Để hoàn thiện đề tài này, tôi đã nhận được sự góp ý, chia sẻ của bạn bè đồng nghiệp
và đặc biệt là sự đón nhận của các em học sinh. Đây chính là nguồn động viên lớn lao cho
tôi trong công tác chuyên môn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Phù Cừ, ngày 8 tháng 3 năm 2018
Tác giả
Lê Thị Thanh Hồng
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018


1


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

PHẦN MỘT: LÝ LỊCH
- Họ và tên tác giả: Lê Thị Thanh Hồng.
- Chức vụ: Giáo viên .
- Đơn vị công tác: Trường THCS Phù Cừ- huyện Phù Cừ- tỉnh Hưng Yên.
- Tên đề tài: ““Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện
đại”

PHẦN HAI: NỘI DUNG
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

2


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

A. MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
1. Lí do chọn đề tài.
Chúng ta đã và đang thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục trong nhà trường. Đổi
mới để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh. Đổi mới dạy học
tích cực: dạy học “lấy người học làm trung tâm”, tạo cho HS hoạt động tích cực, sáng tạo, lấy
tự học làm chính; lấy tập thể để bổ trợ cho cá nhân; lấy máy móc thiết bị làm phương tiện;
lấy tài liệu, sách giáo khoa, băng hình và tự đánh giá kết quả học tập. Lối học này hình thành
ở HS sự mạnh dạn, có tính cách, tự tin, biết cách học, biết cách làm, biết cách giao tiếp xã
hội, biết cách khẳng định chân lí, tạo nên con người rất thực tế, thích hoạt động, dẫn đến sự

năng động và sáng tạo trong tư duy, trong hoạt động cuộc sống.
Hoạt động trải ngiệm trong dạy học môn Ngữ văn, đặc biệt là phần văn bản trong nhà
trường THCS sẽ góp phần tạo nên thành công trong dạy học tích cực. Giúp học sinh hình
thành được những kỹ năng đó.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
Sự phát triển đi lên của xã hội, nhịp sống hổi hả của cuộc sống hiện đại khiến cho
nhiều học sinh không còn thời gian để quan tâm đến môn Văn ( Một môn vốn bị coi là dài,
khó). Đặc biệt, tâm lí ngại học phần văn bản trong chương trình văn học THCS hiện nay là
khá phổ biến. Phần lớn HS khi được hỏi đều cho biết ngại đọc trước phần VB được học ở tiết
sau, ngại soạn bài, ngại học thuộc (nếu văn bản đó là thơ), ngại suy nghĩ, cảm nhận...
Chính tâm lí đó đã khiến cho các em học phần văn bản ít có kết quả. Đó cũng là điều
dễ hiểu khi nhìn vào “sản phẩm” phân tích phần văn bản của trò: cảm nhận hời hợt, chủ yếu
là chép lại những điều thầy cô đã giảng trên lớp, ít có sự phát hiện sáng tạo. Các bài của HS
trong lớp thường giống nhau. Hạn chế về diễn đạt, bình luận, nhận xét và đánh giá. Khi đọc
bài phân tích tác phẩm văn học của học sinh, tôi ít có cảm giác hứng thú vì thấy giọng văn
các bài rất quen; cách trình bày cũ mòn theo công thức giáo viên đã xây dựng, ít tính đột phá,
sáng tạo...
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

3


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

Đối với giáo viên, dạy môn ngữ văn nói chung, dạy phần văn bản hiện đại nói riêng
thường chủ yếu dựa vào sách giáo viên, thiết kế bài giảng. Dạy hoặc còn nặng về áp đặt
( đưa ra ý hiểu, sự cảm nhận của mình rồi áp đặt trò phải hiểu theo hướng đó); hoặc còn nặng
về giảng bình. Nhiều giờ giảng văn, giáo viện gần như độc thoại, chiếm lĩnh “sân khấu” của
học sinh. Vì thế đã hạn chế tính sáng tạo của học trò. Không ít giáo viên tỏ ra lúng túng khi
phải dạy một giờ văn bản .

Hơn nữa, sự phát triển của kinh tế, khoa học, công nghệ dẫn đến những thay đổi về giá
trị, quan điểm, lối sống, đạo đức. Từ đó, xã hội có quá nhiều vấn đề buộc các em phải đối
mặt. Giáo viên dạy môn văn không chỉ dạy phần kiến thức trong SGK mà còn phải hình
thành cho các em nhiều kĩ năng sống. Để học sinh có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về kiến thức
được học. Gắn kiến thức lý thuyết trong nhà trường với thực tiễn đời sống; thực hiện theo
phương châm "học đi đôi với hành".
Được coi là một trong những hình thức học tập khơi dậy hứng thú trong học trò, phát
huy tối đa tính tích cực của người học nhưng khái niệm học tập trải nghiệm đối với học sinh
ở nhiều địa phương hiện nay khá mới bởi lâu nay chúng ta vẫn chú trọng những tiết học trên
lớp, qua kênh sách giáo khoa và kênh hình bằng các phương tiện hỗ trợ. Vì vậy, nếu tổ chức
các hoạt động trải nghiệm mà không có sự chuẩn bị về tâm lý và phương pháp, chắc chắn học
sinh sẽ bị rơi vào trạng thái thụ động khi tiếp cận đối tượng trải nghiệm hoặc sẽ biến buổi học
trải nghiệm thành một giờ học tổng hợp, mất thời gian, không hiệu quả và càng làm cho học
sinh hoang mang hơn về phương pháp học tập bộ môn
Nhiệm vụ của giáo viên dạy phần văn bản là phải giải quyết những yêu cầu đó.
3. Ý nghĩa của đề tài
Với vai trò là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn 9, tôi đã xác định và ý
thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa của việc đổi mới phương pháp dạy học, lấy học sinh làm
trung tâm. Một trong những hình thức tổ chức dạy học hiệu quả của phương pháp này chính
là dạy học qua trải nghiệm, đó là hình thức dạy học tích cực, mang lại nhiều hiệu quả:

Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

4


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

- Dạy học qua trải nghiệm học sinh có thể rèn luyện và học tập một cách tốt nhất, hiệu quả
nhất. Phương pháp học mới HS luyện được cả về kiến thức bộ môn và kĩ năng học tập, tìm

tòi, phân tích và áp dụng thực tiễn.
- Dạy học qua trải nghiệm giúp HS luôn tích cực, chủ động trong việc tìm tòi kiến thức. Kích
thích sự khám phá kiến thức của các em.
- Dạy học qua trải nghiệm còn góp phần phát triển tư duy liên hệ, liên tưởng ở học sinh. Tạo
cho học sinh một thói quen trong tư duy, lập luận tức là khi xem xét một vấn đề phải đặt
chúng trong một hệ quy chiếu, từ đó mời có thể nhận thức vấn đề một cách thấu đáo.
- Giúp học sinh hứng thú học tập, từ đó mở rộng, khắc sâu được kiến thức đã học.
- Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa
- Dạy cho học sinh sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể
-Thay vì tham nhồi nhét cho học sinh nhiều kiến thức lí thuyết đủ loại, dạy học trải nghiệm
chú trọng tới sự chủ động của học sinh khi học tập, có năng lực sống tự lập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đề tài nghiên cứu: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn
học hiện đại”
- Nghiên cứu trên cơ sở thực hiện là nội dung, chương trình, kế hoạch giáo dục ở trường
THCS, các định hướng và quan điểm về ĐMPPDH, các thầy cô giáo và các em học sinh khối
9 trường THCS Phù Cừ.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn.
a. Cơ sở lí luận.
a.1 Dạy học tích cực là gì?
Dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương
pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
"Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với
không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực.
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

5



KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

Dạy tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học,
nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào
phát huy tính tích cực của người dạy.
Học tích cự chỉ xảy ra khi học sinh được trao cơ hội thực hiện các tương tác đề tài chính
trong một giai đoạn giáo dục, được động viên để hình thành tri thức hơn là việc nhận tri thức
từ việc giới thiệu của giáo viên.
a.2 Một số yêu cầu của dạy học tích cực
Luật giáo dục, điều 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh”.
b. Cơ sở thực tiễn.
1. Xuất phát từ mục tiêu đào tạo của trường THCS Phù Cừ: đào tạo những học sinh giỏi toàn
diện.
2. Xuất phát từ thực tế học tập môn Ngữ văn của học sinh Trường THCS Phù Cừ: bên cạnh
một số học sinh ngại học môn Ngữ văn, còn không ít học sinh có năng khiếu, muốn được
tham gia học bộ môn với thái độ học tập tích cực, niềm đam mê.
3. Xuất phát từ phương pháp giảng dạy còn mang tính một chiều, hạn chế khả năng tư duy ở
học sinh của một bộ phận giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn
4. Học sinh trường THCS Phù Cừ nhiều em chỉ chú ý học các môn tự nhiên mà chưa thực sự
dành thời gian cho việc học bộ môn văn. Nhất là phần văn bản hiện đại.
5. Tôi đã tiến hành điều tra sơ bộ HS Trường THCS Phù Cừ về thực trạng học phần văn bản
năm học 2016-2017 như sau:
5.1 Điều tra thực trạng học phẩn văn bản với câu hỏi: “Em có thích học phần văn bản
hiện đại trong chương trình Ngữ văn9 không?”
* Kết quả qua phiếu điều tra:

Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018


6


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

Mức độ

Thích

Bình thường

Không thích

16 (36,3)
15 ( 33,3)

21 (36,5)
23 (42,3)

Lớp
9A (45 hs)
12 (27,2)
9B (44 hs)
11 (24,4)
*Đánh giá kết quả điều tra

Phần lớn học sinh không thích học phần văn bản hiện đại. Khi được hỏi lí do, các em
chia sẻ: vì phần này dài, HS ngại đọc, ngại nghĩ, ngại ghi chép. Giờ học văn bản các em phải
nghe nhiều nên có một số học sinh uể oải, mệt mỏi. Cộng với sự tương tác giữa giáo viên và

học sinh còn hạn chế, áp đặt nên các em có tâm lí “phải nghe, phải công nhận những điều
giáo viên giảng.
5.2 Kết quả điều tra sự chuẩn bị của học sinh trước một tiết học văn bản hiện đại
5.2.1. Điều tra học sinh khối 9 của trường THCS Phù Cừ (Năm học 2016- 2017) qua câu hỏi
điều tra: “Trước một tiết học phần văn bản, em thường chuẩn bị bài như thế nào ?”
A. Không chuẩn bị
B. Chuẩn bị qua loa
C. Tìm tòi qua các tài liệu một cách hào hứng
D. Chép ở sách để học tốt nhưng không hiểu gì.
* Trong tổng số 89 phiếu thu về:
Phương án

a

b

c

d

SL 89

15

30

10

34


33,7%

11,2%

( 38,3

16,8%
* Đánh giá kết quả điều tra:

Phần lớn các em chỉ chuẩn bị nội dung của môn học theo kiểu chép trong sách để học tốt.
Điều tra tại Trường THCS Phù Cừ về việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp và quá trình khai
thác kiến thức , thu được kết quả:
a) Tự tìm hiểu: 30%
b) Thầy cô giảng: 70 %
Kết quả điều tra
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

7


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

*1. Có không ít HS không chủ động tìm hiểu bài. Lí do là đọc và làm mất thời gian và những
gì thầy cô giảng thường là đủ và đúng rồi. Hoặc sau khi trả lời, thầy cô vẫn chỉ cho ghi theo ý
thầy cô.
*2. Số HS tự tìm hiểu bài ít. Có tìm hiểu cũng chỉ ở mức độ cơ bản. Không có ý thức mở
rộng hơn những gì trong câu hỏi SGK và yêu cầu của thầy cô.
Từ những cơ sở trên, từ quá trình tích lũy những kinh nghiệm giảng dạy phần văn bản hiện
đại trong chương trình Ngữ văn THCS, tôi mạnh dạn trình bày những kinh nghiệm của bản
thân về “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu tài liệu, giáo trình có liên quan đến đề tài
khoa học. Nghiên cứu sách giáo khoa Ngữ văn 9, sách tham khảo và các nguồn tư liệu.
- Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành dạy thực nghiệm; ra đề cho học sinh luyện tập; dự
giờ, quan sát, chuyên đề...
- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm
- Phương pháp thống kê toán học: Thu thập, xử lý, đánh giá kết quả sau khi áp dụng đề tài
3. Kế hoạch nghiên cứu
1. Đăng ký nghiên cứu chuyên đề “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9
phần văn học hiện đại”
với trường THCS Phù Cừ từ đầu năm học 2017-2018
2/ Thực hiện nhóm phương pháp thực tiễn tại Trường THCS Phù Cừ trong năm học 20172018 bao gồm:
+ Điều tra thực tiễn qua học sinh trường THCS Phù Cừ.
+ Tổ chức chuyên đề cấp Tổ đối với Tổ KHXH (tháng 10 năm 2017, tháng 3 năm 2018)
+ Tổng kết, viết đề tài, thông qua Hội đồng khoa học trường THCS Phù Cừ (Tháng 3 năm
2018)
B. NỘI DUNG.
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

8


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

I. Mục tiêu
1. Mục tiêu giáo dục của môn Ngữ văn ở Trường Phổ thông cơ sở.
1.1. Trang bị cho HS kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ và
văn học. Hướng tới 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết phù hợp với trình độ HS và phù hợp với
yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại
1.2. Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng Tiếng Việt, tiếp nhận văn bản,

cảm thụ thẩm mĩ, phương pháp học tập tư duy đặc biệt là phương pháp tự học, năng lực ứng
dụng những điều đã học vào cuộc sống.
1.3. Bồi dưỡng cho HS tình yêu Tiếng Việt, văn học, văn hóa truyền thống; tình yêu gia
đình, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc; ý chí tự lập tự cường; lý tưởng xã hội chủ
nghĩa; tinh thần dân chủ nhân văn; giáo dục học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu
nghị hợp tác quốc tế; ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại
2. Mục tiêu của hoạt động trải nghiệm sáng tạo
MỤC TIÊU CHUNG
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm hình thành và phát triển phẩm
chất nhân cách, các năng lực tâm lý – xã hội...; giúp học sinh tích luỹ kinh
nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình, làm
tiền đề cho mỗi cá nhân tạo dựng được sự nghiệp và cuộc sống hạnh phúc
sau này.
MỤC TIÊU CỦA GIAI ĐOẠN GIÁO DỤC CƠ BẢN
Giai đoạn giáo dục cơ bản kéo dài từ lớp 1 đến lớp 9. Ở giai đoạn giáo
dục cơ bản, chương trình hoạt động trải nghiệm sáng tạo tập trung vào việc
hình thành các phẩm chất nhân cách, những thói quen, kỹ năng sống cơ
bản: tích cực tham gia, kiến thiết và tổ chức các hoạt động; biết cách sống
tích cực, khám phá bản thân, điều chỉnh bản thân; biết cách tổ chức cuộc
sống và biết làm việc có kế hoạch, có trách nhiệm. Đặc biệt, ở giai đoạn
này, mỗi học sinh cũng bắt đầu xác định được năng lực, sở trường, và chuẩn
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

9


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

bị một số năng lực cơ bản cho người lao động tương lai và người công dân
có trách nhiệm.

Ở bậc trung học cơ sở, hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm hình thành lối
sống tích cực, biết cách hoàn thiện bản thân, biết tổ chức cuộc sống cá
nhân biết làm việc có kế hoạch, tinh thần hợp tác, có trách nhiệm, có ý thức
công dân… và tích cực tham gia các hoạt động xã hội.
II. Yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực
1. Yêu cầu cần đạt về phẩm chất
- Sống yêu thương: thể hiện ở sự sẵn sàng tham gia các hoạt động giữ
gìn, bảo vệ đất nước, phát huy truyền thống gia đình Việt Nam, các giá trị
di sản văn hoá của quê hương, đất nước; tôn trọng các nền văn hoá trên thế
giới, yêu thương con người, biết khoan dung và thể hiện yêu thiên nhiên,
cuộc sống…
- Sống tự chủ: là sống với lòng tự trọng, trung thực, luôn tự lực, vượt khó
khăn và biết hoàn thiện bản thân.
- Sống trách nhiệm: quan tâm đến sự phát triển hoàn thiện bản thân,
tham gia hoạt động cộng đồng, đóng góp cho việc giữ gìn và phát triển
của cộng đồng, đất nước, nhân loại và môi trường tự nhiên. Luôn biết tuân
thủ, chấp hành kỷ cương, quy định, hiến pháp và pháp luật và sống theo
giá trị chuẩn mực đạo đức xã hội.
2. Yêu cầu cần đạt về năng lực chung
- Năng lực tự học: là khả năng xác định được nhiệm vụ học tập một cách tự
giác, chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập để đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu thực
hiện; Lập và thực hiện kế hoạch học tập nghiêm túc, nền nếp; thực hiện
các phương pháp học tập hiệu quả; điều chỉnh những sai sót, hạn chế của
bản thân khi thực hiện các nhiệm vụ học tập thông qua tự đánh giá hoặc

Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

10



KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

lời góp ý của giáo viên, bạn bè; chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp khó
khăn trong học tập.
- Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: là khả năng nhận diện vấn
đề, thiết lập không gian vấn đề, xác định được các phương pháp khác
nhau từ đó lựa chọn và đánh giá được cách giải quyết vấn đề làm cơ sở
cho việc hiệu chỉnh cần thiết.
- Năng lực thẩm mỹ: là năng lực nhận diện và cảm thụ cái đẹp, biết thể
hiện được cái đẹp trong hành vi, trong lời nói, trong sản phẩm… và biết
sáng tạo ra cái đẹp.
- Năng lực thể chất: là khả năng sống thích ứng và hài hòa với môi trường; biết
rèn luyện sức khoẻ thể lực và nâng cao sức khoẻ tinh thần.
- Năng lực giao tiếp: là khả năng lựa chọn nội dung, cách thức, thái độ
giao tiếp để đạt được mục đích giao tiếp và mang lại sự thỏa mãn cho các
bên tham gia giao tiếp.
- Năng lực hợp tác: là khả năng cùng làm việc giữa hai hay nhiều người
để giải quyết những vấn đề nhằm mang lại lợi ích cho tất cả các bên.
- Năng lực tính toán: là khả năng sử dụng các phép tính và đo lường,
công cụ toán học để giải quyết những vấn đề trong học tập và cuộc sống.
- Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT): là khả năng
sử dụng thiết bị kỹ thuật số, máy tính, phần mềm… để tìm kiếm thông tin
phục vụ tích cực và hiệu quả cho học tập và cuộc sống; là khả năng sàng
lọc và tham gia truyền thông trên môi trường mạng một cách có văn hóa.
3. Yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù
Căn cứ vào nhiệm vụ của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong định
hướng phát triển chương trình giáo dục phổ thông, căn cứ vào đặc thù của
hoạt động trải nghiệm, căn cứ vào nghiên cứu tổng thuật các chương trình
giáo dục quốc tế, căn cứ các yêu cầu đối với năng lực chung đã được đề
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018


11


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

xuất, căn cứ vào kết quả khảo sát trên nhóm mẫu và kết quả tọa đàm với
chuyên gia, nhóm nghiên cứu rút ra các mục tiêu cần thực hiện của hoạt
động trải nghiệm sáng tạo. Bên cạnh những phẩm chất và năng lực
chung, hoạt động trải nghiệm sáng tạo hướng tới mục tiêu là một số năng
lực đặc thù sau:
a.Năng lực tham gia và tổ chức hoạt động: thể hiện ở sự tích cực
tham gia hoặc thiết kế, tổ chức các hoạt động, đặc biệt các hoạt động xã
hội; biết đóng góp vào thành công chung; thể hiện tính tuân thủ với quyết
định của tập thể cũng như sự cam kết; trách nhiệm với công việc được
giao, biết quản lý thời gian và công việc cũng như hợp tác hoặc tập hợp,
khích lệ... các cá nhân tham gia giải quyết vấn đề và sẵn sàng hỗ trợ, giúp
đỡ mọi người.
b.Năng lực tự quản lý và tổ chức cuộc sống cá nhân: là khả năng tự
phục vụ và sắp xếp cuộc sống cá nhân; biết thực hiện vai trò của bản thân
trong gia đình (theo giới); biết chia sẻ công việc; biết lập kế hoạch chi tiêu
hợp lý và phát triển kinh tế gia đình; biết tạo bầu không khí tích cực trong
gia đình.
c.Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân: là khả năng nhận
thức về giá trị của bản thân; là sự nhận thức về điểm mạnh cũng như
điểm yếu trong năng lực và tính cách của bản thân, tìm được động lực để
tích cực hóa quá trình hoàn thiện và phát triển nhân cách; là sự xác định
đúng vị trí xã hội của bản thân trong các mối quan hệ và ngữ cảnh giao
tiếp hay hoạt động để ứng xử phù hợp; luôn thể hiện người sống lạc quan
với suy nghĩ tích cực.

d.Năng lực định hướng nghề nghiệp: là khả năng đánh giá được yêu
cầu của thế giới nghề nghiệp và nhu cầu của XH, đánh giá được năng lực
và phẩm chất của bản thân trong mối tương quan với yêu cầu của nghề;
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

12


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

biết phát triển các phẩm chất và năng lực cần có cho nghề hoặc lĩnh vực
mà bản thân định hướng lựa chọn; biết tìm kiếm các nguồn hỗ trợ để học
tập và phát triển bản thân; có khả năng di chuyển nghề.
e.Năng lực khám phá và sáng tạo: thể hiện tính tò mò, ham hiểu biết,
luôn quan sát thế giới xung quanh mình, thiết lập mối liên hệ, quan hệ
giữa các sự vật hiện tượng; thể hiện ở khả năng tư duy linh hoạt, mềm
dẻo tìm ra được phương pháp độc đáo và tạo ra sản phẩm độc đáo.
III.. Những vấn đề chung về “Giáo dục trải nghiệm”
1. Khái niệm:

Định nghĩa của Hiệp hội Giáo dục trải nghiệm quốc tế: “Giáo dục trải

nghiệm là một phạm trù bao hàm nhiều phương pháp trong đó người dạy khuyến khích người
học tham gia trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh, tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát
triển kỹ năng, định hình các giá trị sống và phát triển tiềm năng bản thân, tiến tới đóng góp
tích cực cho cộng đồng và xã hội.”
Người dạy ở đây có thể là: giáo viên, tình nguyện viên, hướng dẫn viên, huấn luyện viên,
bác sỹ tâm lý... Nó nói lên tính đơn giản, đa dạng, phổ biến và ứng dụng của “Giáo dục trải
nghiệm”.
“Giáo dục trải nghiệm” cũng có cơ sở lý thuyết dựa trên một nghiên cứu (Edgar Dale 1946)

chỉ ra rằng:
Chúng ta nhớ...
20% những gì chúng ta đọc
20% những gì chúng ta nghe
30% những gì chúng ta nhìn
90% những gì chúng ta làm
Các đặc điểm nổi bật của “Giáo dục trải nghiệm”:
- Quá trình học qua trải nghiệm diễn ra khi trải nghiệm được lựa chọn kỹ càng và sau khi
thực hiện được tổng kết bởi quá trình chia sẻ, phân tích, tổng quát hoát và áp dụng.
- Người học được sử dụng toàn diện: trí tuệ, cảm xúc, thể chất, kỹ năng và các quan hệ xã
hội trong quá trình tham gia.
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

13


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

- Trải nghiệm được thiết kế để yêu cầu người học phải sáng tạo, tự chủ, tự ra quyết định và
thỏa mãn với kết quả đạt được.
- Qua “Giáo dục trải nghiệm”, người học được tham gia tích cực vào việc: đặt câu hỏi, tìm
tòi, trải nghiệm, giải quyết vấn đề, tự chịu trách nhiệm
- Kết quả của trải nghiệm không quan trọng bằng quá trình thực hiện và những điều học được
từ trải nghiệm đó.
- Kết quả đạt được là của cá nhân, tạo cơ sở nền tảng cho việc học và trải nghiệm của cá nhân
đó trong tương lai.
- Các mối quan hệ được hình thành và hoàn thiện: người học với bản thân mình, người học
với những người khác, và người học với thế giới xung quanh.
2. Phương pháp “Học tập qua trải nghiệm”
Phương pháp “Học tập qua trải nghiệm” được thừa nhận là phương pháp cốt lõi của “Giáo

dục trải nghiệm”. Chi tiết về phương pháp được giới thiệu dưới đây.
2.1. Định nghĩa
“Học tập qua trải nghiệm” xảy ra khi một người sau khi tham gia trải nghiệm nhìn lại và đánh
giá, xác định cái gì là hữu ích hoặc quan trọng cần nhớ, và sử dụng những điều này để thực
hiện các hoạt động khác trong tương lai. (John Dewey – 1938)
2.2.Quy trình 5 bước khép kín

Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

14


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

Phương pháp “Học tập qua trải nghiệm” thể hiện theo mô hình 5 bước khép kín như dưới

đây:
Vòng tuần hoàn “Học tập qua trải nghiệm”
Bước 1 – Trải nghiệm
Học sinh làm, thực hiện một hoạt động tuân theo các hướng dẫn cơ bản về an toàn, tổ chức
hoặc quy định về thời gian, học sinh làm trước khi được chỉ dẫn cụ thể về cách làm.
Bước 2 – Chia sẻ
Học sinh chia sẻ lại các kết quả, các chú ý và những điều quan sát, cảm nhận được trong phần
hoạt động đã thực hiện của mình. Học sinh học cách diễn đạt và mô tả lại rõ ràng nhất các kết
quả của trải nghiệm và mối tương quan của chúng.
Bước 3 – Phân tích
Học sinh cùng thảo luận, nhìn lại cả quá trình trải nghiệm, phân tích và phản ánh lại. Học
sinh sẽ liên hệ trải nghiệm với chủ đề của hoạt động và các kỹ năng sống học được.
Bước 4 – Tổng quát


Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

15


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

Liên hệ những kết quả và điều học được từ trải nghiệm với các ví dụ trong cuộc sống thực tế.
Bước này thúc đẩy học sinh suy nghĩ về việc có thể áp dụng những điều học được vào các
tình huống khác như thế nào.
Bước 5 – Áp dụng
Học sinh sử dụng những kỹ năng, hiểu biết mới vào cuộc sống thực tế của mình. Học sinh
trực tiếp áp dụng những điều học được vào tình huống tương tự hoặc các tình huống khác thực hành.
Sự khác biệt của phương pháp “Học tập qua trải nghiệm” với việc đơn giản chỉ học từ việc
làm hàng ngày đó là các bước đúc kết sau quá trình trải nghiệm. Mỗi bước bao gồm các câu
hỏi mở được đưa ra để học sinh trả lời, khiến học sinh phải thực sự động não, từ đó tự rút ra
bài học cho bản thân. Đây cũng là lúc để đánh giá lại quá trình trải nghiệm của người học.
Các câu hỏi rất đa dạng tùy theo từng hoạt động cụ thể. Phương pháp và các bước có thể áp
dụng với tất cả các chủ đề, lĩnh vực, tùy theo định hướng của người thiết kế.
3. Hoạt động trải nghiệm trong dạy học Ngữ văn
3.1. Môn ngữ văn THCS
Môn Ngữ văn ở trường phổ thông nói chung và bậc trung học phổ thông CS nói riêng,
trước hết nó được cấu thành bởi ba bộ phận kiến thức cơ bản là tiếng Việt, Đọc – hiểu văn
bản và Làm văn. Các bộ phận kiến thức này được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. Ngoài
việc hình thành năng lực giao tiếp, năng đọc viết và năng lực sáng tạo (thuộc nhóm năng lực
chung), môn Ngữ văn còn có trách nhiệm hình thành và phát triển ở học sinh năng lực
chuyên biệt của môn học là năng lực tiếp nhận văn bản và tạo lập văn bản. Để đáp ứng
được mục tiêu, nội dung chương trình buộc phải có sự xuất hiện của hệ thống kiến thức ngôn
ngữ tiếng Việt, sự đa dạng của các thể loại văn bản nhưng vẫn ưu tiên những văn bản nghệ
thuật có hư cấu của lịch sử văn học Việt Nam và những văn bản đại diện cho các nền văn hóa

lớn của nhân loại. Với cấu trúc này, học sinh không chỉ hoàn thiện các kỹ năng nói, nghe,
đọc, viết một cách hiệu quả mà còn biết cảm thụ những giá trị thẩm mỹ của các văn bản có
hư cấu rồi chuyển hóa chúng trong những sản phẩm cá nhân ở phần tạo lập văn bản. Kiến
thức khoa học và nghệ thuật là hai phạm trù khác biệt về cách huy động kinh nghiệm, quan
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

16


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

sát, suy nghĩ và hoạt động thực tiễn để hình thành các nhận thức mới, giá trị mới, xúc cảm
mới. Vấn đề đặt ra là mức độ tương thích giữa nội dung chương trình môn Ngữ văn với
HĐTN như thế nào. Những HĐTN nào thực sự phù hợp với từng bộ phận kiến thức…
Như vậy, để hoàn thành một quá trình giáo dục thông qua HĐTN trong môn Ngữ văn,
trước tiên phải đảm bảo các yêu cầu chung của hoạt động. Tuy nhiên muốn quá trình đó có
hiệu quả tất cả mọi đề xuất về giải pháp cần phải khai thác trên đặc điểm riêng của từng nội
dung ứng dụng.
3.2. Các dạng hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong môn Ngữ văn
Thuật ngữ trải nghiệm có hai cách để hiểu. Nếu xem là danh từ thì nó là “kinh nghiệm”
nhưng nếu hiểu theo nghĩa của động từ nó là “ thực nghiệm”. Với mục tiêu của môn Ngữ văn
và chương trình giáo dục phổ thông mới, cách phù hợp nhất khi sử dụng khái niệm đó chính
là hiểu nó như một quá trình làm ra kiến thức thông qua thực nghiệm. Tuy nhiên, “thực
nghiệm” trong trường hợp này không chỉ là không gian duy nhất của các phòng thí nghiệm.
Vì lẽ đó, HĐTN được dùng theo nghĩa rộng và trải nghiệm được xem như là con đường, cách
thức hay phương pháp để đạt được kiến thức. Trong các nghiên cứu Tâm lý học, các chuyên
gia đã phân chia hoạt động trải nghiệm của con người thành các dạng (7): [1] Trải nghiệm vật
chất [2] Trải nghiệm tinh thần [3] Trải nghiệm tình cảm [4] Trải nghiệm xã hội [6] Trải
nghiệm chủ quan [7] Trải nghiệm mô phỏng.
Dựa vào lý thuyết trên, có thể thấy đặc điểm của môn Ngữ văn trung học phổ thông có

khả năng thực hiện trải nghiệm trên hầu hết các dạng được đề xuất. Đây cũng chính là cơ sở
khoa học cần thiết để triển khai các dạng HĐTN phù hợp với nội dung bộ môn Ngữ văn.
Trải nghiệm vật chất: Trải nghiệm vật chất là những trải nghiệm “có thể quan sát
được”(8). Hoạt động này phù hợp trong môn Ngữ văn vì nó bắt đầu từ các quan sát của học
sinh về các hiện tượng tự nhiên, xã hội khi các em tham gia vào đời sống cộng đồng; những
cảm xúc được hình thành từ những điều nhìn thấy; các đồ dùng trực quan hay những âm
thanh, hình ảnh được trình chiếu bằng các phương tiện khoa học kỹ thuật; mẫu (bài tập, tình
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

17


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

huống…) trong dạy học; cuộc đời và sự nghiệp của các tác giả văn học hay những người nổi
tiếng;… Dù hoạt động của học sinh có thể trực tiếp hay gián tiếp qua những phương tiện cụ
thể nhưng hầu hết nó đều là sự tương tác trực tiếp của người học với một hoàn cảnh hay tình
huống cụ thể. Dạng trải nghiệm này có thể tạo cảm xúc trực tiếp ngay trong thời điểm đang
diễn ra hoạt động trải nghiệm, để lại ấn tượng mạnh làm xuất hiện các động lực tích cực để
hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Trải nghiệm tinh thần: Trải nghiệm tinh thần có thể xem là dạng trải nghiệm phù hợp
với những giá trị đặc trưng mà môn Ngữ văn có thể mang lại cho người học. Hoạt động trải
nghiệm này “liên quan đến các khía cạnh trí tuệ và ý thức; là sự kết hợp giữa tư duy, nhận
thức, trí nhớ, cảm xúc, ý chí và tưởng tượng. Nó bao gồm cả quá trình nhận thức và vô
thức”(9). Như chúng ta đã biết, những tác phẩm nghệ thuật được giới thiệu trong nhà trường
thường là những tác phẩm tiêu biểu cho một nền văn học, một thể loại văn học, một khuynh
hướng văn học hoặc là sự nghiệp sáng tác của một tác giả. Những tác phẩm đó chắc chắn là
những tác phẩm có nhiều giá trị bởi nhận được sự sàng lọc khắt khe của thời gian và bạn đọc
qua nhiều thế hệ. Mỗi tác phẩm đều có những vùng trời riêng để thể hiện những sắc thái độ
đáo, không lặp lại của thế giới hình tượng nghệ thuật cũng như những thông điệp mà tác giả

muốn chuyển tải. Không phải là duy nhất, nhưng hình tượng nghệ thuật vẫn có thể được xem
là yếu tố cơ bản trung tâm để bạn đọc có thể bắt đầu bằng kinh nghiệm và trải nghiệm ở kết
thúc. Những trải nghiệm đã bao gồm cả thao tác phân tích, tổng hợp và kết nối chúng trong
hình thức đúc rút kinh nghiệm [cái riêng], đưa nó trở thành những nhận thức phổ quát và
khách quan hơn [cái chung]. Sở dĩ phải huy động những thao tác của tư duy trong quá trình
tiếp nhận văn bản bởi nhờ nó mà những chân lý chỉ tồn tại trong nghệ thuật, trong thế giới
tinh thần phức diệu của con người mới được chiếu sáng và lý giải. Nếu tính đa nghĩa là bản
chất của thế giới hình tượng nghệ thuật trong mỗi văn bản thì hoạt động của người đọc chính
là ở việc cụ thể hóa các lớp ý nghĩa được tác giả mã hóa trong quá trình sáng tác. Từ cách
hiểu về quá trình tiếp nhận của người học có thể thấy trải nghiệm tinh thần là một hoạt động
không thể thiếu trong tiếp nhận và cảm thụ và ở hoạt động trải nghiệm này nó buộc người
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

18


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

học phải huy động hầu hết những phương diện cần thiết để hình thành kiến thức mới. Để trải
nghiệm, trước hết người học cần phải tưởng tượng ra những bức tranh hiện thực được mô tả
và mã hóa bằng ngôn ngữ hình tượng thông qua năng lực liên tưởng và tưởng tượng. Vì vậy
trải nghiệm tinh thần trong trường hợp này tập trung cơ bản vào những hoạt động như “ướm
thử số phận”; “nếm trải nghệ thuật” trong quá trình dạy học. Dạng trải nghiệm này ngoài việc
huy động kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, trình độ thẩm mỹ cá nhân, quan niệm sống… nó
còn đưa lại phẩm chất quí giá trong hành trình sống của con người đó chính là sự chia sẻ.
Đây là phẩm chất khởi đầu để xây dựng đời sống tinh thần khoan dung, trí đức, có tác dụng
chi phối và điều chỉnh các hành vi khiến con người trở nên thân thiện.
Trải nghiệm tình cảm: Tên của hoạt động trải nghiệm cũng phản ánh nội dung của các
hoạt động. Trong lĩnh vực giáo dục học sinh bằng môn văn học, việc hình thành những xúc
cảm và tình cảm thẩm mỹ là mục tiêu quan trọng được định dạng trong chương trình môn học.

Các văn bản được sử dụng dạy học cho học sinh đều gắn liền với những lĩnh vực cụ thể của
đời sống. Văn bản nhật dụng, văn bản nghệ thuật, văn bản khoa học… đều có những giá trị nội
dung và phương thức trình bày khác nhau. Hầu hết các văn bản hoặc chủ quan hoặc khách
quan đều thể hiện thái độ của người viết trước những sự vật và hiện tượng. Đặc biệt trong các
văn bản nghệ thuật thế giới tình cảm càng trở nên phong phú đa dạng và nhiều chiều. Sự phát
triển về tâm lý và đời sống tinh thần của con người được chuyển tải trong văn học một cách
chân thực và rõ nét. Đặc điểm riêng của thời đai, những giá trị chân lý đạo đức được tôn vinh
hay hạ thấp đều được các tác giả mã hóa vào trong hành vi, bản chất của từng cá nhân tham gia
vào hiện thực được đặt ra trong văn bản nghệ thuật.Thế giới tình cảm của con người bắt đầu từ
lòng biết ơn, sự rung động, những xúc cảm hay thậm chí là những ấn tượng được thu nhận
thông qua trực giác cá nhân. Tình cảm nếu được nhìn một cách khách quan nó không chỉ là vấn
đề cá nhân mà đã bị chi phối và tự điều chỉnh bởi các chuẩn mực đạo đức và giá trị xã hội. Hơn
nữa, tình cảm là góc nhìn khách quan nhất để đánh giá các mối quan hệ giữa cá nhân với cá
nhân; cá nhân với cộng đồng. Những xung đột tình cảm trong văn học đôi khi dẫn các nhân vật
rơi vào vực thẳm của sự tự ti, sợ hãi, đau đớn và đôi lúc nó là những phản kháng cuồng nộ dẫn
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

19


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

đến sự hủy diệt. Không hề thiếu các cung bậc tình cảm ấy trong những sáng tác của văn
chương nhân loại từ cổ chí kim từ đông sang tây. Vì vậy, đặt vấn đề trải nghiệm tình cảm trong
dạy học Ngữ văn có thể được ví là gieo hạt trên mảnh đất màu mỡ. Tính đa dạng của thổ
nhưỡng sẽ là cội nguồn của sự phát triển cây trái tinh thần hay loài cây trái tinh thần đã làm
cho thổ nhưỡng trở nên trù phú, mối quan hệ thẩm thấu bên trong này thật khó mà lý giải. Điều
quan trọng nhất của việc trải nghiệm tình cảm chính là việc hình thành lối sống mang tính lựa
chọn chủ động và trên thực tế, một lần nữa nó lại quay về với tâm thế sẻ chia đồng cảm giữa
con người với con người; giữa con người với môi trường sống.

Trải nghiệm xã hội: Tham gia vào các hoạt động xã hội được xem là nhu cầu thiết yếu
của con người. Các hoạt động trải nghiệm xã hội “cho con người kỹ năng và thói quen cần
thiết để sống trong xã hội của mình, chia sẻ kinh nghiệm, hình thành các chuẩn mực, phong
tục, truyền thống, giá trị, vai trò xã hội, biểu tượng và ngôn ngữ” (11). Sự quan trọng của môi
trường xã hội đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách học sinh vì vậy những trải
nghiệm xã hội trong dạy học Ngữ văn cũng được kỳ vọng không kém. Trong thực tế, các
hình thức tham quan những danh thắng, lăng tẩm, sưu tầm văn học địa phương, câu lạc bộ
sáng tác văn học, trại sáng tác văn học, tìm hiểu ca Huế trên sông Hương, tìm hiểu các thể
loại dân ca, kịch, tuồng, chèo… và các hình thức biểu diễn hay sân khấu hóa… đều được
xem là cơ hội để người học có dịp hóa thân, tham gia trực tiếp vào các hoạt động có chủ điểm
gắn liền với hoạt động giáo dục môn học. trong nhiều loại trải nghiệm được đề xuất của các
chuyên gia tâm lý, trải nghiệm xã hội vẫn là hình thức trải nghiệm được tổ chức nhiều nhất ở
nhà trường phổ thông Việt Nam. Đối với môn Ngữ văn nó hầu như gắn liền với các hoạt
động ngoài giờ lên lớp. Trải nghiệm xã hội qua nội dung môn Ngữ văn là cơ hội phát triển
tâm lý nhận thức của học sinh, cải thiện các kỹ năng sống, biến quan tâm chia sẻ thành phẩm
chất, nhưng quan trọng hơn là các em có thể tự xác định một số tiêu chí phát triển phù hợp
với bản thân hài hòa trong mối quan hệ với điều kiện sống cụ thể của từng cá nhân học sinh.
Trải nghiệm chủ quan: Đây là dạng trải nghiệm dựa trên sưc mạnh của trực giác cá nhân
khi tương tác với môi trường. Kết quả của trải nghiệm này đưa lại cho chủ thể những cảm
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

20


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

xúc hay trạng thái tâm lý phù hợp với nội dung trải nghiệm. Sự khởi dầu của trải nghiệm là
sự huy động các kinh nghiệm rời rạc, sau đó nhờ vào năng lực cá nhân thể hiện thông qua
một chuỗi các hành động và thao tác để phân tích, tổng hợp và giải quyết tình huống. Xuất
phát từ kinh nghiệm nên kết quả của trải nghiệm có khả năng không chính xác. Tuy nhiên

nhờ vào những phản hồi người học có thể tiếp tục điều chỉnh nhận thức hoặc kinh nghiệm để
đạt đến những kết quả có khả năng phản ánh đúng các giá trị hay thuộc tính chung của cộng
đồng. Đôi khi trong thực tiễn, có trải nghiệm chủ quan mang tính bị động và ngay trong
những trường hợp như thế, người học vẫn có thể rút ra bài học hay những kinh nghiệm quí
giá cho bản thân.
Trải nghiệm mô phỏng: Nếu trải nghiệm chủ quan thể hiện năng lực người học ở khâu
xử lý tình huống thì kết quả của trải nghiệm mô phỏng cũng được thể hiện ở việc giải quyết
các tình huống giả định trong cuộc sống. Với đặc điểm như vậy, các hoạt động mang tính
chất mô phỏng và tái hiện đời sống trong nội dung văn học đều được xem là cơ hội cho học
sinh trải nghiệm. Theo cách này hầu hết việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật dạy học cũng
đáp ứng được yêu cầu học tập, trong đó hợp lý và hiệu quả nhất có thể là sử dụng máy tính.
Sự cụ thể hóa các vấn đề trừu tượng thông qua xử lý của giáo viên khiến học sinh có cách
nhìn chính xác và rõ ràng hơn về đối tượng nhận thức. Cần lưu ý, ngôn ngữ của giáo viên
cũng được xem là phương tiện mô phỏng bên cạnh những hình ảnh, âm thanh, con số… Tồn
tại song song với việc sử dụng phương tiện nói chung, sắm vai hay những trò chơi trí tuệ có
liên quan đến môn học cũng là cách trải nghiệm mô phỏng hiệu quả. Thông qua trải nghiệm
mô phỏng khiến học sinh có cảm giác thật hơn khi sắm vai các nhân vật để vượt rào cản tình
huống. Đây cũng là sự tập dượt để người học có khả năng xử lý tốt một tình huống tương tự
trong cuộc sống.
Trên đây là những phác thảo bước đầu về các dạng trải nghiệm phù hợp với môn Ngữ văn
được đề xuất dựa trên kết quả nghiên cứu của tâm lý học. Để HĐTNST thật sự hiệu
quả, khơi dậy ở học sinh niềm đam mê hứng thú trong quá trình tìm kiếm tri thức bằng chính
hoạt động nếm trải của bản thân thì mọi khâu của quá trình tổ chức dạy học đều phải được
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

21


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”


đồng bộ. Nói cách khác, kết quả của HĐTNST không chi dừng lại ở sự phân tích và chỉ ra
các dạng trải nghiệm phù hợp. Trên thực tế, nó còn yêu cầu kết hợp với các chủ điểm hợp lý,
hệ thống phương pháp phù hợp, hình thức tổ chức dạy học đa dạng, phương pháp kiểm tra
đánh giá tương thích và sự hỗ trợ đắc lực của hệ thống phương tiện mới có thể xác lập kết
quả như mong muốn.
4.Ý nghĩa của việc dạy học qua trải nghiệm trong giảng dạy phần văn bản hiện
đại môn Ngữ văn 9
* Với giáo viên:
- Nó không chỉ góp phần làm sâu sắc kiến thức của bài học mà còn tạo ra động lực lớn cho tư
duy và sự hứng thú học tập của học sinh với bộ môn. Dạy học qua trải nghiệm sẽ tránh được
việc tiếp xúc văn bản một cách khô khăn, khiên cưỡng. Thậm chí suy diễn khi dạy các văn
bản .
- Dạy học qua trải nghiệm giúp giáo viên luôn tự làm mới chính mình, làm chủ nội dung,
phương pháp, cách tổ chức dạy học. Bởi vì chỉ có vậy người giáo viên mới có thể “truyền
lửa” đến học sinh, mới có thể giúp các em chủ động tích cực, sáng tạo trong tiếp cận, lĩnh hội
chi thức.
- Dạy học qua trải nghiệm trong dạy văn còn giúp giáo viên luôn chủ động, sáng tạo trước
mọi yêu cầu. Từ đó người dạy văn có nhiều thông tin, có cái nhìn đa chiều khi tiếp cận một
tác phẩm. Vì vậy mới có thể khơi lên “ngọn lửa” nhiệt huyết ở học trò.
- Dạy học qua trải nghiệm trong học văn cũng là nhu cầu tự thân, là yêu cầu bắt buộc của
cuộc sống hôm nay. Xu thế thời đại là hội nhập toàn cầu, khoa học là sự giao thoa, kế thừa,
văn hóa là sự đan xen đa dạng,… và giáo dục đương nhiên không thể nằm “ngoài vùng phủ
sóng”. Bởi hơn hết: văn học là cảm nhận. Đã là cảm nhận học sinh phải có sự trải nghiệm.
* Với học sinh:
Các hoạt động này tạo cơ hội cho học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác và
sáng tạo của bản thân, huy động sự tham gia của học sinh vào tất cả các khâu của quá trình
hoạt động. Học sinh được trình bày và lựa chọn ý tưởng, tham gia chuẩn bị, thiết kế hoạt
động, trải nghiệm, bày tỏ quan điểm, tự đánh giá, tự khẳng định.
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018


22


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

5. Tổ chức dạy học qua trải nghiệm phần văn bản hiện đại 9
5.1 Thống kê các TP văn học hiện đại lớp 9.
THƠ HIỆN ĐẠI
 1.

Đồng chí (Trích Đầu súng trăng treo)

- Tác giả: Chính Hữu (Trần Đình Đắc) sinh năm 1926, quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh
- Sáng tác: 1948. KC chống Pháp
- Thể loại: Thơ tự do
- Chủ đề: Người lính
- Nội dung: Ca ngợi tình đồng chí cùng chung lý tưởng của những người lính cách mạng
trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Tình đồng chí trở thành sức mạnh và vẻ
đẹp tinh thần của anh bộ đội Cụ Hồ
2. Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Trích Vầng trăng quầng lửa)
- Tác giả: Phạm Tiến Duật sinh năm 1942, quê ở Phú Thọ.
- Sáng tác: 1969
- KC chống Mĩ
- Thể loại: Thơ 7 chữ kết hợp 8 chữ
- Chủ đề: Người lính
- Nội dung: Tư thế hiên ngang, tinh thần chiến đấu bình tĩnh, dũng cảm, niềm vui lạc quan
của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ.
3. Đoàn thuyền đánh cá (Trích Trời mỗi ngày lại sáng)
- Tác giả: Huy Cận (1919 – 2005), tên đầy đủ Cù Huy Cận, quê ở Đức Thọ, Hà Tĩnh.
- Sáng tác: 1958

- Thể loại: Thơ bảy chữ
- Chủ đề: Thiên nhiên và con người
4. Bếp lửa (Trích Hương cây - Bếp lửa)
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

23


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

- Tác giả: Bằng Việt (Nguyễn Việt Bằng), quê ở Thạch Thất, Hà Tây.- Trưởng thành trong
KC chống Mĩ.
- Sáng tác: 1963 hòa bình ở miền Bắc
- Thể loại: Thơ tám chữ
- Chủ đề: Người phụ nữ, Tình cảm gia đình
5. Ánh trăng (Trích Ánh trăng)
- Tác giả: Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê ở Thanh Hóa.
- Sáng tác: 1978 sau hòa bình
- Thể loại: Thơ năm chữ
. TRUYỆN HIỆN ĐẠI
1. Làng (Kim Lân tên là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1920)
- Năm sáng tác: 1948, kháng chiến chống Pháp
- Chủ đề: Ca ngợi lòng yêu nước
2. Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long (1925-1991), quê ở Duy Xuyên - Quảng Nam)
- Năm sáng tác: 1970 - KC chống Mĩ
- Chủ đề: Ca ngợi hình ảnh người lao động mới
3. Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932 quê ở huyện Chợ Mới, tính An
Giang)
- Sáng tác: 1966 - KC chống Mĩ
- Chủ đề: Ca ngợi tình cảm gia đình, tình cha con

5.1. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường
5.1.2. Tổ chức hoạt động trải nghiệm trong giờ học
* HĐ khởi động
Mục đích của hoạt động
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

24


KN: “Sử dụng PP DH qua trải nghiệm trong môn ngữ văn 9 phần văn học hiện đại”

– Hoạt động trải nghiệm giúp học sinh huy động vốn kiến thức và kỹ năng để chuẩn bị tiếp
nhận kiến thức và kỹ năng mới.
– Giúp học sinh tạo hứng thú để bước vào bài học mới
– Giúp giáo viên tìm hiểu xem học sinh có hiểu biết như thế nào về những vấn đề trong cuộc
sống có liên quan đến nội dung bài học.
Nội dung, hình thức trải nghiệm
– Câu hỏi, bài tập: có thể là quan sát tranh/ảnh để trao đổi với nhau về một vấn đề nào đó có
liên quan đến bài học; hoặc trực tiếp ôn lại kiến thức đã học ở cấp/lớp dưới, thiết kế dưới
dạng kết nối hoặc những câu hỏi đơn giản, nhẹ nhàng.
– Thi đọc, ngâm thơ, kể chuyện, hát, phân vai. Các hoạt động này trong một số trường hợp
được thiết kế thành các cuộc thi, nhằm tạo ra không khí sôi nổi, hứng thú trước khi tiến hành
học bài mới.
– Trò chơi: một số trò chơi trong hoạt động khởi động giúp tạo ra hứng thú trước khi vào bài
học mới. Các trò chơi này cũng cần có nội dung gắn với mỗi bài học.
*Hoạt động hình thành kiến thức mới
Mục đích của hoạt động
Hoạt động này giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới thông qua hệ thống các bài
tập/nhiệm vụ.
Nội dung và hình thức bài tập/nhiệm vụ

Các tri thức ở hoạt động được tiến hành theo trình tự sau:
Đọc hiểu văn bản
Bước này yêu cầu học sinh đọc văn bản và chú thích. Giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học
sinh đọc trước ở nhà. Đến lớp chỉ đọc một đoạn hoặc bài ngắn và một vài lưu ý trong chú
thích. Sau đó giáo viên thiết kế những hoạt động hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản bằng
việc sử dụng một số câu hỏi tập hợp thành một bài tập/nhiệm vụ lớn hơn; thiết kế các bài tập
trắc nghiệm, kết hợp tự luận; thiết kế các hoạt động kích thích, sáng tạo… Nội dung các bài
tập/nhiệm vụ trong mục này nêu lên các yêu cầu tìm hiểu về đặc điểm thể loại, nội dung,
nghệ thuật của văn bản.
Lê Thị Thanh Hồng- Trường Trung học cơ sở Phù Cừ- Năm học 2017-2018

25


×