Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn cải tiến trình tự một bài văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.34 KB, 6 trang )

Một vài suy nghĩ trong trình tự, nội dung,
phơng pháp giảng dạy văn học lớp 9
của chơng trình ngữ văn thcs

Họ và tên : Phạm Thị Thanh Hơng
Đơn vị: THCS Xuân Trờng
Huyện Xuân Trờng Tỉnh Nam Định

A/ Đặt vấn đề:
Hiện nay chúng ta đang thực hiện chơng trình đổi mới THCS cả nội dung
chơng trình và phơng pháp giảng dạy. Đối với giáo viên ngữ văn chúng tôi
những ngời trực tiếp giảng dạy ngữ văn lớp 9, thì việc cải tiến một vài khâu
trong trình tự dạy một bài văn học là những điều luôn trăn trở và suy nghĩ.
Từ trớc trình tự một bài văn học của chúng ta thờng đợc trình bày nh sau:
I. Tác giả, tác phẩm.
II. Phân tích tìm hiểu tác phẩm.
III. Tổng kết.
Hiện nay trong giáo viên dạy ngữ văn nói chung chúng ta đã có cuốn
sách "Giới thiệu giáo án ngữ văn 9" của nhà xuất bản Hà Nội nhng trong thực
tế quá trình dạy chúng tôi thấy không thể thực hiện một cách máy móc theo
sách hớng dẫn và tuỳ theo nội dung từng bài chúng tôi thấy có những điều
không sáng tạo, không phát huy đợc trí thông minh của học sinh.
Cụ thể :
- Kiến thức nhiều khi bị dàn đều trong từng phần, không rõ, xoáy và lớt.
- Hệ thống kiến thức bị chặt ra làm nhiều đoạn.
- Khi giảng và học các mục tổng quát thờng ít hứng thú, công việc xem ra
đơn giản, ít phải gia công sáng tạo. Thầy hỏi trò nói, thầy sửa trò ghi một cách
quá tẻ nhạt. Nhiều giáo viên giảng phần này có tính chất chiếu lệ, khi kiểm tra
ít đồng chí đề cập đến. Thế là dù muốn hay không, những kiến thức khái quát
nhng cũng rất cơ bản ấy lại bị bỏ rơi, bị lãng quên ! xét cho cùng dạy văn học
chính là phân tích tác phẩm ở một dạng đặc biệt.


Tôi hiểu nó đặc biệt ở chỗ, nó đòi hỏi sự tham gia của hai đối tợng. Ngời
giảng dạy ( thầy) phải rất chủ đạo, ngời nghe (trò) cũng rất chủ động chứ
không thụ động nh một thính giả, độc giả.
Xuất phát từ cơ sở thực tế và lý luận nh vậy, chúng tôi đã mạnh dạn cải
tiến trình tự một bài văn học lại nh sau :
1. Đọc tìm hiểu khái quát.
2. Đọc tìm hiểu chi tiết
3. Tổng kết luyện tập.
Nhìn vào trình tự này chúng tôi đã thể hiện đợc vai trò của việc đọc là cần
thiết và quan trọng trong toàn bộ bài dạy, nh thế học sinh mới bắt buộc phải
suy nghĩ và hiểu bài nhanh chóng trên lớp.
B. Nội dung cụ thể
I. Đọc - tìm hiểu khái quát.
Ngoài phần cho học sinh đọc và giảng về tác giả, tác phẩm, nội dung và
bố cục, cần giải quyết tốt những khâu : Giới thiệu bài và tập đọc. Về mặt này
chúng tôi có ít nhiều cải tiến nh sau.
- Khâu giới thiệu bài: Văn học khác với các môn học khác ở chỗ học sinh
không những biết trớc bài sắp học mà còn thâm nhập khá sâu vào hài học qua
việc chuẩn bị trớc bài ở nhà. Cho nên mọi cách giới thiệu bài mang nội dung
gợi ra cái tên bài học đều có vẻ gợng gạo, công thức.
Chúng tôi tán thành cách giới thiệu bài bằng cách nêu tình huống có
vấn đề hoặc chuyển từ bài cũ đến bài mới một cách khéo léo tự nhiên mà sâu
sắc.
Ví dụ: Truyện Kiều Nguyễn Du.
Giáo viên có thể gợi mở từ hình ảnh ngời phụ nữ ngày nay có cuộc sống
bình đẳng, tự do, đợc xã hội, gia đình trân trọng. Vậy ngời phụ nữ xa họ có
cuộc sống nh thế nào? Đọc truyện Kiều ta sẽ thấy.
Mục đích của việc giới thiệu bài là làm cho học sinh nhập bài một cách tự
nhiên mà hứng thú.
Thông thờng trớc đây sau khi kiểm tra bài cũ, chúng ta giới thiệu bài, sau

đó học sinh mở sách vở học tập.
Cách làm này có nhợc điểm là khá nhiều học sinh thờng tranh thủ mở
sách vở khi thầy giới thiệu, có lẽ vì thế mà mặc dù mỗi tiết học thuộc bất cứ
môn gì thầy đều giới thiệu mà các em thấy vẫn khó tìm ý dẫn dắt khi làm bài
văn nói trớc lớp.
Bây giờ chúng tôi đổi lại, sau khi kiểm tra, đánh giá kết quả chung, chúng
tôi yêu cầu học sinh mở sách vở song rồi mới bắt đầu giới thiệu. Làm nh vậy
bài học đợc tiến hành nghiêm túc hơn, lời nói của thầy đáp ứng sự chờ đợi của
học sinh, nh thế sẽ kết quả hơn. Nhng làm nh vậy có mất hứng thú không?
Thực tế thì không mà ngợc lại. Vấn đề là ở thái độ nghiêm túc và nội dung
giới thiệu bài của thầy là quyết định.
Đảm nhiệm công việc này cũng thật là khó, nhng cũng thật hẫp dẫn, nhất
là các em yêu văn và học khá. Thực tế không những các em làm đợc mà còn
làm khá tốt.
Để học sinh chuẩn bị bài trớc (kể cả phần giới thiệu bài) chính là tạo
thêm điều kiện cho các em tự tìm hiểu sâu bài văn hơn, buộc các em bỏ nhiều
công phu khi soạn bài. Tất nhiên nh vậy không phải thầy sẽ nhàn hơn mà ngợc
lại phải dự kiến trớc lời giới thiệu phải lắng nghe, sửa chữa, tận dụng công phu
sáng tạo của học trò đóng góp vào bài học, nhất là các em có ý tốt mà diễn đạt
cha thành.
- Khâu đọc: Đọc trên lớp có giá trị rất lớn, nó giúp cho công việc truyền
đạt một phần nghệ thuật và nội dung bài văn, nhất là khi gặp những từ ngữ đắt,
những câu văn hay, những đoạn văn giàu nhạc điệu, những hình ảnh sâu sắc.
Đồng thời nó tạo điều kiện cho việc rèn đọc mà hiện nay học sinh chúng ta
còn kém.
Lâu nay ở lớp 9 chúng ta coi nhẹ việc này việc đọc bài văn thờng đợc đọc
trớc khi phân tích thầy đọc mẫu, trò đọc sau.
Tôi không phản đối trình tự đó, tôi cũng thờng làm nh thế, nhng không
nhất thiết bài văn nào cũng làm thế.
Thầy đọc trớc có tác dụng mẫu mực cho học sinh noi theo nhng lại có nh-

ợc điểm là không phát hiện đúng kỹ năng đọc của học sinh. Vả lại khi bắt đầu
giảng, cách đọc của học sinh không có tác dụng truyền cảm vì hiện nay phần
lớn các em đọc phá hoại bài văn rất nhiều.
Căn cứ vào mục đích đề ra, đối với những bài có nhiều từ khó, chúng tôi
thờng yêu cầu học sinh đọc trớc, vừa học, vừa giải thích những từ khó trong
bài, sau đó thầy đọc vào giảng. Làm nh vậy giá trị truyền cảm một phần nghệ
thuật và nội dung bài văn hơn hẳn. Đồng thời làm cho học sinh thấy rõ tác
dụng của đọc đoạn văn mà phấn đấu đọc tốt hơn.
Đối với một số bài hay, từ hay, câu hay, khi cần sửa cho học sinh, tôi có
thể xen vào những câu bình khi cần thiết.
Ví dụ: :Khi đọc những câu có dấu chấm hỏi trong 8 câu cuối đoạn trích
Kiều ở lầu Ngng Bích không đúng ngữ điệu tôi uốn nắn, đọc mẫu, bình một
vài câu. Lời bình khi đọc này, hoàn toàn có thể thay thế cho lời giảng khi
phân tích chi tiết. Nó vừa giúp cho học sinh hứng thú hơn có ý thức hơn khi
đọc, vừa giúp cho giáo viên đỡ lan man khi giảng xoáy vào một hình tợng nào
đó.
Vì thời gian có hạn nên trong quá trình phân tích học sinh có thể đọc lần
1, lần 2 trong từng đoạn văn một và lần thứ 3 chỉ đọc những đoạn văn hay.
Nói tóm lại chúng tôi không quan niệm phần đọc nào riêng rẽ, không chỉ
nhằm rèn kỹ năng mà còn là một biện pháp giúp cho việc phân tích mà giáo
viên cần tận dụng.
Cho nên, khi cần thiết, chúng tôi có thể tổ chức đọc lần thứ nhất trong
khi khái quát tác phẩm đó là những trờng hợp cần cho lời giới thiệu liên mạch
với hoàn cảnh ra đời, nghệ thuật, nội dung nổi bật.
II. Đọc tìm hiểu chi tiết:
Trong phần này chúng tôi không có một thay đổi đặc biệt nào cả, tôi chỉ
tiếp thu vận dụng vào từng bài cụ thể những kinh nghiệm đợc đúc kết trong
các chuyên đề.
- Giảng dạy văn học tinh và chắc.
- Giảng dạy văn học gắn với đời sống

- Giảng dạy văn học phát huy trí thông minh của học sinh.
- Giảng dạy văn học theo loại thể
- Tận dụng sách giáo khoa trong giảng dạy văn học.
ở phần này, khi chuẩn bị bài tôi thờng phải tìm hiểu xem học sinh hiểu
những gì, những gì còn sai lầm trong nhận thức của các em.
Khi giảng tôi thờng kết hợp chặt chẽ giữa hỏi, diễn giảng, lắng nghe,
động viên, hớng dẫn học sinh, phân tích xoáy vào một điểm nào đó cho nổi rõ
vấn đề, kích thích mạnh mẽ cảm xúc của học sinh, để các em rung động trớc
những điều mới mẻ, đầy hứng thú mà trớc đây các em cha nhìn thấy. Từ đó,
các em lĩnh hội đợc toàn bài, dần dần có khả năng tự lực, nghiên cứu những
bài sau.
Đây không phải là điều gì mới mẻ về mặt lý luận cho nên tôi chỉ xin trình
bày một ví dụ rất nhỏ giảng bài: Nói với con của Y Phơng của Sách giáo
khoa Ngữ văn 9 kỳ II, ý thứ nhất của bài.
Theo sách hớng dẫn yêu cầu phân tích con lớn lên trong tình yêu thơng
của cha mẹ, sự đùm bọc của quê hơng.
Qua thăm dò tìm hiểu, tôi đợc biết các em thiên nghĩ về những tác phẩm
văn học nói về tình mẹ nh bài Con cò của Chế Lan Viên, Khúc hát ru
những em bé lớn trên lng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm, còn những tác phẩm
mà trong đó chủ đề lại mới đó là lời ngời cha nói với con thì ít.
Cho nên điều cần giúp học sinh suy nghĩ đó là sự tởng tợng khi đọc khổ 1
bài thơ. Tôi đã suy nghĩ cụ thể:
Em hãy hình dung khi còn bé mình đã sống ra sao? để giúp các em tởng
tợng tốt, tôi đã gọi học sinh đọc 4 câu thơ đầu.
Chân phải bớc tới cha
Chân trái bớc tới mẹ
Một bớc chạm tiếng nói
Hai bớc chạm tiếng cời .
- Nh thế học sinh dễ dàng nhận ra bên cạnh mẹ là cha, là hai ngời
luôn yêu thơng con nhất và em bé lớn lên trong một gia đình hạnh phúc, giáo

viên có thể liên hệ với truyện ngắn Chiếc lợc ngà của Nguyễn Quang Sáng
để thấy đợc sự thiêng liêng cao cả của tình cha con trong bất kỳ hoàn cảnh
nào đều rất cảm động.
Phần này có thể bình: Tại sao trong tình cảm gia đình thì tình cảm cha mẹ
với con là sâu nặng và thiêng liêng nhất? Từ đó ta có thể tích hợp với phần tập
làm văn nghị luận với đề tài: Suy nghĩ của em về ca dao:
Công cha nh núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ nh nớc trong nguồn chảy ra .
Nhờ cách giảng xoáy, tích hợp nên học sinh đều hiểu nhanh, có kiến thức
để làm bài. Tôi cho rằng nội dung mình giảng đã có kết quả và tôi chuyển
đoạn khác.
Giảng xoáy theo cách này có những u điểm sau:
- Học sinh dễ nhớ, nhớ sâu, có cảm xúc mạnh - đó cũng là cơ sở để học
sinh tự lực sáng tạo khi không có thầy hớng dẫn.
- Tận dụng đợc sách giáo khoa, các em không những phải sử dụng các
phần trích học mà còn cả những phần tham khảo nữa.
- Tập trung đợc sự chú ý của học sinh.
- Rút bớt thời gian.
III. Giảng phần tổng kết
Nhìn chung giảng giải đến đâu chúng ta thờng vội vã đọc cho học sinh
chép hoặc phát vấn qua loa chiếu lệ. Với quan điểm tìm hiểu tác phẩm từ đầu
đến cuối và thầy trò cùng làm việc từ đầu đến cuối, chúng tôi không làm nh
thế. Chúng tôi hớng dẫn các em đánh giá chung về nghệ thuật, nội dung về tác
giả và rút ra bài học t tởng hành động, tôi thờng ghi tóm tắt những ý đúng của
các em lên bảng rồi học sinh dựa vào đó nói cho lu loát trọn vẹn. Thờng tôi
diễn đạt bằng nhiều cách, học sinh trên cơ sở đó mà lựa chọn cách nào hợp
với mình để thời gian cho các em ghi chép. Tôi đi kiểm tra và giũp đỡ một sôố
các em thơng là 3 em ở 3 trình độ khác nhau. Cuối cùng tôi giới thiệu một
số em ghi tốt hoặc em có những điểm sai cần uốn nắn để cả lớp rút kinh
nghiệm.

Công việc tởng nh nhàn, nhng làm việc rất căng. Giáo viên phải khẩn tr-
ơng, tập trung suy nghĩ, thấy đợc u, khuyết điểm của những lời phát biểu, nhất
là những em có ý tốt mà diễn đạt cha thành. Phải làm sao trong một thời gian
ngắn vừa đánh giá, vừa thâu tóm đợc tất cả những ý kiến đúng của các em,
diễn đạt thành lời văn hay giầu cảm xúc, giầu hình ảnh để nâng cao cảm xúc
của học sinh.
Yêu cầu đó đòi hỏi giáo viên cần chủ động từ đầu đến cuối, mình định
giảng những gì, phải chủ động dự kiến trớc. Mình định kết luận thế nào, chủ
động mà không đợc chủ quan, không cứng nhắc mà linh hoạt. Mỗi lần là một
lần rút kinh nghiệm học tập tại chỗ của mình. Có thế, thầy trò mới cùng làm
việc và thầy mới sát đối tợng khi kết luận vấn đề.
Ví dụ: Phần tổng kết của bài Nói với con sau gợi ý học sinh phát biểu
những ý dựa vào câu hỏi tổng hợp.
Cm nhận của em về nghệ thuật, nội dung của bài thơ và rút ra bài học suy
nghĩ của em?
- Nghệ thuật: Hình ảnh thơ cụ thể, ngôn từ giản dị.
- Nội dung: Tình cảm gia đình
- Bìa học: Sức sống, vẻ đẹp tâm hồn dân tộc miền núi.
- Tác giả: Một ngời cha yêu con, yêu quê hơng đất nớc.
Từ trả lời của học sinh giáo viên nói lại bằng một đoạn văn có sức thuyết
phục và yêu cầu học sinh lên bảng viết lại phần này bằng 2 đến 3 cách khác
nhau. Quá trình này chính là luyện tập luôn.
Kết luận chung
Tóm lại giảng theo cách này tôi thấy có 2 u điểm.
1. Phát huy và rèn năng lực độc lập suy nghĩ, kỹ năng tổng hợp vấn đề
của học sinh, nâng cao xúc cảm chân thành về bài văn.
2. Rèn luyện kỹ năng đọc, viết, cảm thụ, đánh giá một tác phẩm văn học,
phục vụ tốt kỹ năng tích hợp : Văn Tiếng việt Tập làm văn.
Giảng dạy theo cách này phải luôn kết hợp chặt chẽ với việc chống lối
học thụ động, chống bệnh "lời suy nghĩ" phải luôn tổ chức lớp học, bao quát

từ đầu đến cuối.
Xuân Trờng, ngày 9 tháng 12 năm 2006
Ngời viết
Phạm Thị Thanh Hơng

×