Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

CƠ sở lý LUẬN về tổ CHỨC HOẠT ĐỘNG tự ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO dục TRƯỜNG TRUNG học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.92 KB, 55 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
TỰ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
TRƯỜNG THCS


Sơ lược về nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, hoạt động đánh giá chất
lượng giáo dục luôn đồng hành với công tác dạy và học ở các
cơ sở giáo dục. Đánh giá chất lượng nhằm mục đích giám sát
q trình dạy và học từ đó đưa ra những quyết sách về quản
lý, dự đốn các kết quả đào tạo và không ngừng cải tiến nâng
cao chất lượng giáo dục. Đánh giá chất lượng giáo dục có
nhiều nội dung khác nhau trong đó có đánh giá các yếu tố
điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục và đánh giá chất lượng
sản phẩm giáo dục. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chất
lượng sản phẩm giáo dục chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố,
đặc biệt là yếu tố chất lượng nhà trường như: chất lượng hoạt
động quản lý, chất lượng đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất,
các trang thiết bị trường học và tổ chức các hoạt động giáo
dục của nhà trường. Tại các nước như Hoa kì, Canada, Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc ...Hiệp hội Kiểm định chất lượng
giáo dục đã thực hiện công tác kiểm định chất lượng giáo dục
để xác định và công nhận chất lượng dạy và học của các cơ sở
giáo dục. Các Hiệp hội này xây dựng các bộ tiêu chuẩn để xác


nhận mức độ đạt được của các cơ sở giáo dục so với các
chuẩn qui định.
“Kiểm định chất lượng là mơ hình đảm bảo chất lượng
được sử dụng rộng tãi nhất trong các hệ thống giáo dục hiện


nay. Kiểm định chất lượng bắt đầu được áp dụng ở Hoa Kỳ
cách đây hơn 100 năm. Ở Hoa Kỳ, kiểm định chất lượng là
một quá trình dựa trên sự tin tưởng, tiêu chuẩn, bằng chứng,
đánh giá và đồng cấp. Ngoài ra, Vlăsceanu và các đồng nghiệp
đã đưa ra một định nghĩa khá khát quát về kiểm định chất
lượng (tài liệu do UNESCO ấn hành).
Kiểm định chất lượng là một quy trình mà một tổ chức
cơng lập hoặc ngồi cơng lập hoặc tư nhân tiến hành đánh giá
cơ sở giáo dục hoặc chương trình đào tạo để cơng nhận một
cách chính thức cơ sở giáo dục hoặc chương trình đào tạo đạt
được những tiêu chuẩn hoặc tiêu chí tối thiểu đã đề ra. Kết
quả của kiểm định là quyết định công nhận đạt hoặc khơng
đạt (có hoặc khơng) và cấp giấy chứng nhận quy định rõ thời
gian có hiệu lực.
Quy trình kiểm định chất lượng thường bao gồm ba
bước: (1) tự đánh giá của cơ sở giáo dục, (2) đánh giá ngoài


của đoàn đánh giá ngoài do tổ chức kiểm định lựa chọn, và
(3) thẩm định kết quả của hội đồng kiểm định.
Có hai loại hình kiểm định chất lượng là kiểm định cơ sở
giáo dục (kiểm định trường) và kiểm định chương trình đào
tạo. Kiểm định trường liên quan đến việc xem xét, đánh giá
toàn bộ hoạt động của một cơ sở giáo dục đại học dựa trên
một bộ tiêu chuẩn kiểm định trường. Kiểm định chương trình
đào tạo (khóa đào tạo/ ngành đào tạo) là việc xem xét, đánh
giá một phần của cơ sở giáo dục đại học liên quan trực tiếp
đến một chương trình/ khóa đào tạo, và chú trọng vào các
hoạt động chuyên môn. Kiểm định chương trình có thể được
thực hiện với một bộ tiêu chuẩn kiểm định được dùng chung

cho các chương trình đào tạo hoặc một bộ tiêu chuẩn được
xây dựng cho một chương trình đào tạo cụ thể.
Trong khu vực Đơng Nam Á, những quốc gia áp dụng
kiểm định chất lượng bao gồm Brunei, Campuchia, Indonesia,
Lào, Malaysia, Đông Timo và Việt Nam”
Tự đánh giá là một khâu của quy trình kiểm định chất
lượng giáo dục, là hoạt động đánh giá để xác định mức độ các
nhà trường đáp ứng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo


dục. Thông qua hoạt động tự đánh giá, các trường chỉ ra điểm
mạnh, điểm yếu từ đó đề ra phương hướng, biện pháp nâng
cao chất lượng giáo dục của nhà trường trong giai đoạn tiếp
theo.
Ở Việt Nam
Nội dung đảm bảo chất lượng dạy học thông qua việc tổ
chức tốt các hoạt động tự đánh giá, kiểm định chất lượng dạy
học là vấn đề quan trọng trong GD&ĐT. Đây cũng là vấn đề
được Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành, các nhà khoa
học rất quan tâm và đã có nhiều cơng trình, đề tài nghiên cứu.
Liên quan trực tiếp đến Đề tài “Tổ chức hoạt động tự đánh
giá chất lượng giáo dục các trường THCS trên địa bàn
huyện Tân Lạc, tỉnh Hịa Bình theo hướng đảm bảo chất
lượng” có một số nghiên cứu sau:
Nguyễn Đức Chính với “Kiểm định chất lượng trong
giáo dục đại học” (2002); Đặng Bá Lãm với “Kiểm tra và
đánh giá trong dạy - học đại học” (2003), Trần Khánh Đức
với “Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân lực theo
ISO và TQM” (2004); Nguyễn Cơng Khanh với “Về tiêu
chuẩn kiểm định khóa đào tạo giáo viên tiểu học” (4/2006),



Nguyễn Thị Thái với“Giám sát, đánh giá trường học”
(8/2010)...
Về phương diện thực tiễn, hệ thống đảm bảo chất lượng
và kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD) ở nước ta đã và
đang được từng bước hình thành. Theo đó, Chính phủ, Bộ
GD&ĐT đã ban hành hệ thống các văn bản pháp lý quan
trọng và đây được xem là căn cứ pháp lý để triển khai, chỉ đạo
thực hiện các hoạt động kiểm định chất lượng các cơ sở giáo
dục phổ thông, trong đó có cấp THCS. Cụ thể như sau: “Nghị
định số 85/2003/NĐ-CP ngày 18/7/2003 của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Bộ GD&ĐT”. Theo đó, Cục Khảo thí và Kiểm định chất
lượng giáo dục được thành lập và đi vào hoạt động đánh dấu
một thời kỳ phát triển của hệ thống đảm bảo chất lượng và
KĐCLGD ở Việt Nam; “Thông tư số 12/2009/QĐ-BGDĐT,
ngày 12/5/2009 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Quy định về tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục THCS; Thông tư số
42/2012/QĐ-BGDĐT, ngày 23/11/2012 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục
và quy trình, chu trình kiểm định chất lượng giáo dục cơ sở
giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục thường xuyên (thay thế


Thông tư số 12/2009/QĐ- BGDĐT ngày 12/5/2009 của Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT)”.
Tuy nhiên, nói một cách khách quan và xét một cách
toàn diện, vấn đề KĐCLGD ở nước ta hiện nay chưa được
nghiên cứu một cách hệ thống, việc triển khai KĐCLGD chưa

rộng khắp, chưa thường xuyên và hiệu quả chưa được như
mong muốn. Đặc biệt vấn đề tự đánh giá trong KĐCLGD phổ
thông đã được các đơn vị triển khai thực hiện. Tuy nhiên, kết
quả chưa đạt được mục tiêu đề ra, mà đó là những cơng việc
rất cần thiết và cần làm trong giai đoạn hiện nay.
Các khái niệm cơ bản của đề tài
Tổ chức
Theo TS. Tạ Ngọc Hải - Viện Khoa học tổ chức nhà
nước đăng trên tạp chí Tổ chức Nhà nước bài “Khái niệm,
phân loại và các đặc trưng cơ bản của tổ chức từ giác độ
khoa học tổ chức nhà nước” đã đề cập đến thuật ngữ tổ chức:
Triết học định nghĩa “Tổ chức, nói rộng là cơ cấu tồn tại
của sự vật. Sự vật khơng thể tồn tại mà khơng có một hình
thức liên kết nhất định các yếu tố thuộc nội dung. Tổ chức vì


vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật”. Tổ chức là thuộc
tính của sự vật, nói cách khác sự vật luôn tồn tại dưới dạng tổ
chức nhất định.
Nhân loại học đã đưa ra quan điểm: “Từ khi xuất hiện
loài người, tổ chức xã hội loài người cũng đồng thời xuất
hiện. Tổ chức ấy khơng ngừng hồn thiện và phát triển cùng
với sự phát triển của nhân loại”. Theo nghĩa hẹp đó, tổ chức là
một tập thể của con người tập hợp lại với nhau để thực hiện
những nhiệm vụ chung nhằm đạt tới mục tiêu xác định của tập
thể đó. Như vậy, tổ chức là tập thể, có mục tiêu, nhiệm vụ
chung.
Theo Chester I. Barnard: “Tổ chức là một hệ thống
những hoạt động hay nỗ lực của hai hay nhiều người được kết
hợp với nhau một cách có ý thức”. Như vậy để hình thành tổ

chức phải có từ hai người trở lên và các hoạt động được kết
hợp với nhau một cách có ý thức.
Theo quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự: “Tổ chức
được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau:
được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài
sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm


bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp
luật một cách độc lập”.
Khoa học tổ chức và quản lý định nghĩa tổ chức với ý
nghĩa hẹp là “tập thể của con người tập hợp nhau lại để thực
hiện một nhiệm vụ chung hoặc nhằm đạt tới một mục tiêu xác
định của tập thể đó”.
“Tổ chức là một đơn vị xã hội, được điều phối một cách
có ý thức, có phạm vi tương đối rõ ràng, hoạt động nhằm đạt
được một hoặc nhiều mục tiêu chung của tổ chức. Quan niệm
của những người làm công tác tổ chức nhà nước có nhiều
điểm tương đồng với khoa học quản lý, luật học trong đó
nhấn mạnh tới mục tiêu chung, nguyên tắc hoạt động của tổ
chức. Điểm mới quan trọng của quan niệm này về tổ chức thể
hiện ở ý nói về phạm vi của tổ chức, mỗi tổ chức có phạm vi
hoạt động khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu, nguồn lực của tổ chức đó. Các
yếu tố này là những điều kiện của tổ chức”. [13]
Tổ chức có nghĩa là q trình sắp xếp và bố trí các cơng
việc, giao quyền hạn và phân phối các nguồn lực của tổ chức
sao cho chúng đóng góp một cách tích cực và có hiệu quả vào



mục tiêu chung. Cơng tác tổ chức gồm có hai nội dung cơ
bản: Tổ chức cơ cấu và tổ chức q trình. Tổ chức có nội
dung rất rộng lớn liên quan đến công tác xây dựng tổ chức bộ
máy quản lý (Có bao nhiêu cấp quản lý, tổ chức các phịng
ban chức năng, phân cơng trách nhiệm và quyền hạn của các
phịng ban cũng như của mỗi cá nhân…), có những bộ phận
sản xuất và kinh doanh nào, phân công chức năng và nhiệm
vụ của từng bộ phận…
Như vậy có thể đưa ra một khái niệm chung về tổ chức
như sau: Tổ chức là tập hợp của con người trong xã hội có
phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu xác định;
được hình thành và hoạt động theo những nguyên tắc nhất
định phù hợp với quy định pháp luật nhằm gắn kết con người
với nhau bởi những mục đích xác định và hành động để đạt
đến mục tiêu chung.[13]
Đánh giá
Trong thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về đánh
giá. Sự khác nhau thường được nhận định là do cách tiếp cận
của các tác giả. Chẳng hạn, có người tiếp cận theo hướng chỉ


đề cập đến kết quả, có người tiếp cận ở góc độ kiểm định chất
lượng giáo dục,...
Theo Jean - Marie De Ketele (1989) thì: "Đánh giá có
nghĩa là: Thu thập một tập hợp thơng tin đủ, thích hợp, có giá
trị và đáng tin cậy; và xem xét mức độ phù hợp giữa tập hợp
thông tin này và một tập hợp tiêu chí phù hợp với các mục
tiêu định ra ban đầu hay điều chỉnh trong q trình thu thập
thơng tin; nhằm ra một quyết định”.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Đánh giá được hiểu là

nhận định giá trị”
Theo Trung tâm nghiên cứu về Đánh giá của Đại học
Melboume (Úc) thì: “Đánh giá là q trình thu thập thơng tin,
chứng cứ về đối tượng đánh giá và đưa ra những phán xét,
nhận định về mức độ đạt được theo các tiêu chí đã đưa ra
trong các chuẩn hay kết quả học tập”.
Theo A.I Vroeịịenstịịn thì: “Đánh giá chất lượng là mọi
hoạt động có cấu trúc nhằm đưa đến sự xem xét về chất lượng
của quá trình dạy học bao gồm tự đánh giá hay đánh giá bởi
các chuyên gia từ bên ngoài”.


Trong giáo dục học: “Đánh giá được hiểu là quá trình
hình thành những nhận định, phán đốn và kết quả cơng việc,
dựa vào sự phân tích những thơng tin thu thập được đối chiếu
với mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất những quyết
định thích hợp để cải tiến thực trạng, điều chỉnh, nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục”. Như vậy cho thấy,
đánh giá trong giáo dục không chỉ ghi nhận thực trạng mà còn
đề xuất những quyết định, những giải pháp đột phá làm thay
đổi thực trạng giáo dục theo chiều hướng tích cực, đáp ứng
mong muốn và đòi hỏi của xã hội. Trong giáo dục, việc đánh
giá được tiến hành ở nhiều cấp độ khác nhau: Đánh giá hệ
thống giáo dục của một quốc gia; đánh giá một cơ sở giáo
dục; đánh giá giáo viên; đánh giá học sinh.
Theo Trần Khánh Đức, Đo lường đánh giá trong giáo
dục, Đại học Quốc gia Hà Nội. “Đánh giá là q trình thu
thập thơng tin, chứng cứ về đối tượng đánh giá và đưa ra
những phán xét, nhận định về mức độ đạt được theo các tiêu
chí đã được đưa ra trong các tiêu chuẩn. Đánh giá có thể là

đánh giá định lượng (dựa vào các con số) hoặc định tính (dựa
vào các ý kiến và giá trị). Đánh giá là việc căn cứ vào kết quả
của quá trình đo lường và đánh giá năng lực và phẩm chất


của sản phẩm đào tạo để đưa ra những nhận định, kết luận và
đề xuất các quyết định nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng đào tạo”.
Qua các khái niệm về đánh giá như nêu trên ta có thể
thấy cịn có sự khác nhau trong cách phát biểu, nhưng giữa
chúng cũng có những điểm chung sau đây: Đánh giá là q
trình, thu thập thông tin về hiện trạng chất lượng và hiệu quả;
Đánh giá gắn bó chặt chẽ với các mục tiêu, các quy định của
chuẩn; Đánh giá là cơ sở để đề xuất những quyết định phù
hợp để cải tiến thực trạng, nâng cao chất lượng và hiệu quả.
Như vậy, đánh giá thường gồm ba khâu chính là: Thu thập
thơng tin, xử lí thơng tin và ra quyết định. Theo đó, đánh giá
là một q trình, bắt đầu khi chúng ta đặt ra mục tiêu phải đạt
được và kết thúc khi đã đề ra được quyết định liên quan đến
mục tiêu đó. Tuy nhiên, q trình đánh giá kết thúc khơng
phải là ra được quyết định, mà quyết định đó tiếp tục đánh
dấu cho sự khởi đầu một quá trình khác, tiếp theo.
Như vậy có thể đưa ra khái niệm về đánh giá như
sau: Đánh giá là quá trình thu thập có hệ thống thơng tin về
hiện trạng, khả năng hay nguyên nhân của chất lượng và hiệu


quả căn cứ vào mục tiêu làm cơ sở cho những chủ trương,
biện pháp và hành động tiếp theo.
Giáo dục và chất lượng giáo dục

Giáo dục
“Giáo dục vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ
thuật. Giáo dục là một q trình đào tạo con người một cách
có mục đích, nhằm chuẩn bị cho họ tham gia vào đời sông xã
hội, lao động sản xuất, bằng cách tổ chức việc truyền thụ và
lĩnh hội nghiệm lịch sử xã hội của lồi người. Giáo dục được
hiểu dưới hai góc độ: Giáo dục được xem như là tập hợp các
tác động sư phạm đến người học với tư cách là một đối tượng
đơn nhất; Giáo dục được như là một hoạt động xã hội, dạng
tái sản xuất ra lực lượng lao động mới. Ở đây, đối tượng là thế
hệ trẽ, là tập hợp các đối tượng đơn nhất. Giáo dục là đào tạo
và bồi dưỡng đội ngũ lao động. Giáo dục theo nghĩa hẹp, là
một q trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch
của một người (hay một nhóm người) - gọi là giáo viên nhằm tác động vào hệ thống nhận thức của người đó, để làm
phát triển trí thơng minh, phát triển khả năng nhận thức phù
hợp với thế giới khách quan, và làm phát triển nhận thức của


người đó lên; qua đó tạo ra một con người mới, có những
phẩm chất phù hợp với yêu cầu được đặt ra” [27].
Chất lượng giáo dục
Chất lượng trong giáo dục luôn luôn là mối quan tâm
hàng đầu của nhiều đối tượng dù có tham gia hoặc khơng
tham gia vào q trình giáo dục. Về bản chất, khái niệm chất
lượng là một khái niệm mang tính tương đối. Với mỗi người,
quan niệm về chất lượng khác nhau và vì thế thường đặt ra
câu hỏi “chất lượng của ai?”. Ở mỗi một vị trí, có thể có
cách nhìn nhận về chất lượng ở những khía cạnh khác nhau.
Các học sinh, đội ngũ giáo viên, Chính phủ và các cơ quan
quản lý, các cơ quan kiểm định, các nhà chuyên môn đánh giá

đều có những định nghĩa riêng.
Ở Việt Nam hiện nay, trong các văn bản có tính pháp
quy hiện hành thì chất lượng được hiểu là việc đạt được các
tiêu chuẩn đã xác định hay đã được qui định trước. Theo đó,
chất lượng giáo dục được hiểu là sự phù hợp với mục tiêu
giáo dục và đáp ứng yêu cầu xã hội. Hiệu quả giáo dục là mức
độ đáp ứng yêu cầu đào tạo so với khả năng đầu tư cho các
hoạt động giáo dục. Mục tiêu có chức năng định hướng, là cơ


sở để xác định tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá. Mục tiêu của
giáo dục được xác định căn cứ vào yêu cầu của xã hội. Mục
tiêu giáo dục thể hiện ở nhiều cấp độ, nhiều lĩnh vực, nhiều
khía cạnh. Cách hiểu này trùng hợp với định nghĩa về chất
lượng của tổ chức Bộ trưởng giáo dục các nước Đông nam Á
( SEAMEO): “ Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu”[25].
Nhiều cơng trình nghiên cứu đã phân tích các khía cạnh
khác nhau của q trình GD&ĐT ở các bậc học, ngành học để
đưa ra nhiều quan niệm về chất lượng giáo dục. Trong khuôn
khổ của luận văn này, tác giả nhất quán sử dụng định nghĩa
sau: “Chất lượng giáo dục là sự phù hợp với mục tiêu giáo
dục và đáp ứng yêu cầu của xã hội”[22]. Theo quan điểm của
chúng tơi thì ở nước ta, định nghĩa này được xem là phù hợp
trong điều kiện hiện tại, nó khuyến khích và tạo cơ hội cho
các trường phấn đấu thực hiện mục tiêu giáo dục theo từng
giai đoạn trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, mà
luật giáo dục đã đề ra.
Tổ chức tự đánh giá chất lượng giáo dục
Tự đánh giá chất lượng giáo dục



Như đã trình bày, tự đánh giá chất lượng giáo dục là khâu
đầu tiên trong quá trình kiểm định chất lượng. Tự đánh giá nêu
cao trách nhiệm của mỗi nhà trường, được thực hiện trong
quá trình tổ chức kiểm định các cơ sở giáo dục theo chủ
trương, chính sách kế hoạch của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
Từ những kết quả nghiên cứu các tài liệu, các văn bản
pháp quy về công tác kiểm định chất lượng giáo dục cơ sở
giáo dục phổ thơng nói chung, các trường THCS nói riêng, có
thể hiểu: Tự đánh giá chất lượng giáo dục là quá trình nhà
trường tự tiến hành xem xét, kiểm tra, đánh giá theo tiêu
chuẩn do Bộ GD&ĐT ban hành nhằm đánh giá thực trạng
chất lượng, hiệu quả giáo dục, nhân lực, cơ sở vật chất, từ đó
có kế hoạch, giải pháp cải tiến để đáp ứng mục tiêu đã đề ra.
Tự đánh giá có ý nghĩa quan trọng, nó thee hiện ý thức
và tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện chức
năng nhiệm vụ mà cấp trên và xã hội giao của mỗi nhà
trường. Tự đánh giá đòi hỏi tất cả những nhận định, kết luận
đều mang tính khách quan, trung thực và cơng khai đảm bảo
độ tin cậy. Báo cáo tự đánh giá phải bao quát đầy đủ các tiêu


chí trong tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của các cơ sở giáo
dục.
Mục đích của hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục
là:
Thứ nhất, điều chỉnh định mức chất lượng và chất lượng
phục vụ.
Việc tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục

của các cơ sở giáo dục là để xác định mức độ đáp ứng các tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục. Năng lực thực sự của các
nhà trường trong việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục được
thể hiện qua kết quả của hoạt động tự đánh giá chất lượng
giáo dục. Từ kết quả đánh giá, nhà trường sẽ điều chỉnh các
hoạt động giáo dục theo hướng ngày càng nâng cao mức độ
đáp ứng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục.
Thứ hai, thực hiện trách nhiệm giải trình.
Các nhà trường phải căn cứ vào kết quả tự đánh giá chất
lượng giáo dục của đơn vị để thực hiện trách nhiệm giải trình
trước cơ quan quản lý cấp trên, phụ huynh học sinh và cộng
đồng xã hội về thực trạng chất lượng giáo dục. Từ đó xác định


mức độ đạt được của từng tiêu chuẩn, tiêu chí của nhà trường
trong từng giai đoạn, tiến hành xây dựng, triển khai các biện
pháp nhằm cải tiến chất lượng giáo dục, nâng cao chất lượng
các hoạt động giáo dục; thông báo công khai để cơ quan chức
năng đánh giá và công nhận nhà trường đạt tiêu chuẩn chất
lượng giáo dục.
Trong xu thế và nhu cầu phát triển hiện nay của xã hội,
giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu vì vậy, hoạt động tự
đánh giá chất lượng giáo dục được coi là rất cần thiết bởi đây
là bước để các cơ sở giáo dục hội nhập với giáo dục trong khu
vực và trên thế giới.
Thứ ba, kích thích nâng cao chất lượng giáo dục.
Quy trình đánh giá, cho ý kiến phản hồi, hành động chính
là cơ chế của một q trình “học tập mang tính tổ chức” và
cũng là cơ chế khuyến khích q trình tự học để nâng cao năng
lực đội ngũ ở các nhà trường. Kết quả tự đánh giá trên cơ sở

những bài học kinh nghiệm, từ các hoạt động không thành công
là căn cứ quan trọng để thực hiện hoạt động điều chỉnh, thiết kế
lại và cải thiện tình hình chất lượng giáo dục.


Kết quả tự đánh giá xác định rõ các điểm mạnh, điểm yếu,
thời cơ, thách thức của nhà trường; từ đó đề xuất các chiến
lược, kế hoạch, biện pháp, kiến nghị với các cơ quan có thẩm
quyền chỉ đạo và cung cấp các biện pháp hỗ trợ cho nhà trường
không ngừng mở rộng quy mô, trường lớp, cơ sở vật chất...nâng
cao chất lượng giáo dục và hiệu quả hoạt động của cơ sở đào
tạo.
Tổ chức tự đánh giá chất lượng giáo dục
Từ những khái niệm: Tổ chức; đánh giá; giáo dục và
chất lượng giáo dục; tự đánh giá chất lượng giáo dục. Có thể
đưa ra quan niệm về tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng
giáo dục như sau:
Tổ chức hoạt động tự đánh chất lượng giáo dục là sự
tác động có định hướng, có mục đích và có hệ thống của
người lãnh đạo quản lý (Ban giám hiệu nhà trường, hội đồng
tự đánh giá, tổ trưởng, nhóm trưởng...) đến các lực lượng
tham gia tự đánh giá (cán bộ, giáo viên, nhân viên...) thông
qua việc lập kế hoạch, triển khai, điều khiển, thực thi và kiểm
tra nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động tự đánh giá trên cơ
sở các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục do Bộ


GD&ĐT ban hành, góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng
giáo dục.
Tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục là

một khâu rất quan trọng trong quá trình quản lý chất lượng
giáo dục, thơng qua hoạt động này giúp Ban giám hiệu nhà
trường rà soát, xem xét, đánh giá thực trạng chất lượng của
trường mình từ đó điều chỉnh mục tiêu, kế hoạch phát triển
giáo dục toàn diện cho năm học kế tiếp.
Mục đích của tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng
giáo dục là nhằm chỉ đạo, điều khiển, hướng dẫn các thành
viên trong Hội đồng tự đánh giá thực hiện quy trình để đạt
được mục tiêu theo những tiêu chí, tiêu chuẩn đã xác định trên
cơ sở các tiêu chuẩn do Bộ GD&ĐT quy định, nhà trường tập
trung thực hiện mô tả, làm rõ thực trạng; phân tích, giải thích,
so sánh và đưa ra những nhận định; chỉ ra những điểm mạnh,
những tồn tại và những biện pháp khắc phục; lên kế hoạch
hành động để đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục.
Chủ thể tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo
dục là lãnh đạo, chuyên viên phụ trách công tác khảo thí và
kiểm định chất lượng giáo dục tại Phịng GD&ĐT, Ban giám


hiệu nhà trường, chủ tịch Hội đồng tự đánh giá, tổ trưởng các
tổ chuyên môn.
Đối tượng của tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng
giáo dục là việc xác định, tổ chức thực hiện quy trình tự đánh
giá của các nhà trường và hoạt động của các thành viên trong
Hội đồng tự đánh giá và các lực lượng tham gia vào hoạt
động tự đánh giá.
Phương thức tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng
giáo dục là tổng hợp các cách thức, biện pháp tác động đến
toàn bộ hoạt động giáo dục của nhà trường, nhằm thực hiện
tốt chất lượng giáo dục theo mục tiêu giáo dục đã đề ra.

Tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục là
cơng việc khó khăn, phức tạp, địi hỏi sự nghiêm túc, chặt
chẽ, tự giác, khách quan của Hội đồng tự đánh giá và các lực
lượng tham gia hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục
trong nhà trường để đánh giá khách quan, trung thực, chính
xác và có độ tin cậy về thực trạng kết quả công tác giáo dục
của nhà trường trong thời gian qua. Tổ chức hoạt động tự
đánh giá được đánh giá là hoạt động giúp các nhà trường nhìn
lại mình qua từng giai đoạn, là cơ hội tốt để những người


tham gia hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo rút ra những
điểm mạnh, điểm yếu, những vấn đề bất cập cần khắc phục, từ
đó đưa ra các mục tiêu quản lý phù hợp hơn.
Tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục là
một quá trình liên tục được thực hiện theo kế hoạch phù hợp
với từng giai đoạn, từng thời kỳ với sự tham gia dành nhiều
công sức, thời gian của các đơn vị và cá nhân trong các trường.
Tự đánh giá chất lượng giáo dục đòi hỏi tính khách quan, trung
thực và cơng khai. Các giải thích, nhận định, kết luận đưa ra
phải dựa trên các thông tin, minh chứng cụ thể, rõ ràng, đảm
bảo độ tin cậy. Báo cáo phải bao quát đầy đủ các tiêu chuẩn,
tiêu chí và các chỉ số theo quy định đã được Bộ GD&ĐT ban
hành.
Nội dung tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo
dục các trường THCS
Xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động tự đánh giá
Việc xây dựng kế hoạch tự đánh giá đòi hỏi hợp lý với
các điều kiện về thời gian, nguồn lực và đội ngũ tham gia viết
báo cáo tự đánh giá cũng như mối quan hệ với chuyên gia tư

vấn (nếu có). Nếu nhà trường dự định mời chuyên gia tư vấn


thì cần lên kế hoạch cụ thể về thời gian và mục đích của
những đợt chuyên gia tư vấn đến làm việc với trường.
Xây dựng kế hoạch: Trước khi xây dựng kế hoạch, đơn
vị cần thành lập hoặc kiện toàn Hội đồng Tự đánh giá theo
quy định; trong đó cần thành lập:
+ Nhóm chuyên trách: gồm 5 nhóm (ứng với 5 tiêu
chuẩn), mỗi nhóm gồm 01 nhóm trưởng, 01 thư ký và một số
thành viên. Số thành viên không hạn định tùy thuộc vào thực
tế các trường.
+ Nhóm thư ký: gồm thư ký Hội đồng Tự đánh giá và
thư ký của các nhóm chun trách.
Phân cơng nhiệm vụ các thành viên: Hội đồng Tự đánh
giá phân công nhiệm vụ cho nhóm trưởng; nhóm trưởng có
trách nhiệm tuyên truyền, hướng dẫn và phân cơng cơng việc
cụ thể (phụ trách tiêu chí) cho các thành viên trong nhóm của
mình.
Việc xây dựng kế hoạch thường được tổ chức vào tháng
9, tháng 10 hàng năm sau khi có các văn bản hướng dẫn cụ
thể của Phòng GD&ĐT.


Tổ chức hoạt động:
Hoạt động Tự đánh giá trường THCS bao gồm 05 tiêu
chuẩn, mỗi tiêu chuẩn bao gồm một số các tiêu chí, mỗi tiêu
chí gồm có 03 chỉ số. (Tổng 36 tiêu chí x 3 = 108 chỉ số)
Sau khi được phân công nhiệm vụ, các thành viên trong
Hội đồng (phụ trách tiêu chuẩn, tiêu chí) được phân công tự

xem xét thực trạng cơ sở vật chất-trang thiết bị, các hoạt động
giáo dục, đánh giá theo các yêu cầu của Tiêu chuẩn KĐCLGD
để xác định mức độ, từ đó có các biện pháp điều chỉnh các
nguồn lực và quá trình thực hiện nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn
KĐCLGD. Lưu ý: cần chuẩn bị các minh chứng có tính
thuyết phục để chứng minh cho từng chỉ số trong mỗi tiêu chí,
tiêu chuẩn.
Sau khi xác định mức độ đạt hay khơng đạt của từng chỉ
số, thành viên các nhóm cơng tác tiến hành viết phiếu đánh
giá tiêu chí theo quy định; nộp phiếu đánh giá tiêu chí cho thư
ký nhóm hoặc nhóm trưởng. Nhóm trưởng và thư ký nhóm
tập hợp các thành viên đóng góp ý kiến để xác định lại mức
độ (đạt - khơng đạt), từ đó đề ra kế hoạch cải tiến chất lượng
đối với từng chỉ số, từng tiêu chí trong thời gian tiếp theo. Các


×