Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

khóa luận xây dựng nguồn nhân lực chất lượng trên địa bàn thành phố Sông Công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.69 KB, 64 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN TÙNG LÂM

XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Nghành: Giáo dục Chính Trị

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Hường

Thái Nguyên, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chúng tôi, dưới sự hướng
dẫn trực tiếp của TS. Nguyễn Thị Hường. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong
khóa luận là trung thực và được lấy từ các nguồn đáng tin cậy. Nếu sai tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm .
Thái Nguyên, ngày 02 tháng 05 năm 2019
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Tùng Lâm

i


LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn thầy, cô giáo Khoa Giáo dục chính trị - Trường


Đại học Sư phạm -Đại học Thái Nguyên đã trang bị cho em những kiến thức,
kinh nghiệm quý giá trong thời gian học tập tại khoa và nhiệt tình giúp đỡ em
thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến cô giáo hướng dẫn -TS.
Nguyễn Thị Hường đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho em trong suốt quá trình
nghiên cứu và thực hiện khóa luận.
Tuy đã có những cố gắng nhất định nhưng do trình độ nhận thức và năng
lực còn hạn chế nên chắc chắn khóa luận vẫn còn nhiều thiếu sót. Em kính
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để khóa luận của
em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Thái nguyên, ngày 02 tháng 05 năm 2019
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Tùng Lâm

ii


MỤC LỤC

iii


BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

NNL
CNH, HĐH
THPT
THCN
CĐ, ĐH

TP
THCS
THCN
HĐND
UBND
CNTT
DN

Nguồn nhân lực
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trung học phổ thông
Trung học chuyên nghiệp
Cao đẳng, đại học
Thành phố
Trung học cơ sở
Trung học chuyên nghiệp
Hội đồng nhân dân
Uỷ ban nhân dân
Công nghệ thông tin
Doanh nghiệp

iv


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu 2.1: Số lượng lao động và việc làm trên địa bàn thành phố Sông Công,
tỉnh Thái Nguyên.............................................Error: Reference source not found
Biểu 2.2: Trình độ nguồn nhân lực của Thành phố Sông Công, tỉnh Thái
Nguyên...........................................................Error: Reference source not found
Biểu 2.3: Chuyển dịch cơ cấu lao động trong cơ cấu ngành kinh tế tại thành phố

Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.........................Error: Reference source not found
Biểu 2.4: Dân số phân theo giới tính và phân theo thành thị, nông thôn tại thành
phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên..................Error: Reference source not found
Biểu 2.5: Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của thành phố Sông Công, tỉnh Thái
Nguyên............................................................Error: Reference source not found
Biểu 2.6: Chuyển dịch cơ cấu lao động trong cơ cấu ngành kinh tế tại thành phố
Sông Công, tỉnh Thái Nguyên năm 2016 - 2017......Error: Reference source not
found
Biểu 2.7: Số Người nghiện ma túy của Thành phố Sông Công, tỉnh Thái
Nguyên từ 2015 - 2018...................................Error: Reference source not found

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định: Con người luôn ở
vị trí trung tâm trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản hàng đầu cho
sự phát triển nhanh và bền vững. Tri thức con người là một nguồn lực không
bao giờ cạn và luôn được tái sinh với chất lượng ngày càng cao, hơn bất cứ
nguồn lực nào khác. Lịch sử phát triẻn nhân loại đã kiểm nghiệm và đi đến kết
luận: nguồn lực con người là lâu bền nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững
của đât nước.
Sự phát triển nhanh của nền kinh tế Việt Nam đang bước sang trang mới
với những thành tựu có tính đột phá trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống
kinh tế - xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học, công nghệ trong đó nhân tố
đóng vai trò quyết định sự biến đổi về chất dẫn đến sự ra đời của kinh tế tri
thức, chính là xây dựng được một nguồn nhân lực chất lượng vào trong đời
sống xã hội.

Trước đây các nhân tố sản xuất truyền thống như số lượng đất đai, lao
động, vốn được coi là quan trọng nhất, song ngày nay đã có sự thay đổi thứ tự
ưu tiên. Chính nguồn nhân lực mới là yếu tố cơ bản nhất của mọi quá trình, bởi
lẽ các yếu tố khác người ta vẫn có thể có được nếu có trình độ, song trình độ
chỉ xuất hiện thông qua quá trình giáo dục, đào tạo và hoạt động thực tế trong
đời sống kinh tế xã hộị; từ chính quá trình sản xuất ra sản phẩm để nuôi sống
con người và làm giàu cho xã hội. Vì vậy để có được độ phát triển cao nước ta
rất quan tâm tới việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ngày nay sự cạnh
tranh sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, công ty, các sản phẩm chủ yếu là
hàm lượng chất xám kết tinh trong sản phẩm hàng hóa, dịch vụ , nhờ nâng cao
xây dựng phát triển nguồn nhân lực.
1


Do vậy việc xây dựng phát triển nguồn nhân lực đối với nước ta đã và
đang trở thành vấn đề cấp bách có tầm chiến lược, là vấn đề có tính chất sống
còn trong điều kiện nước ta đã và đang hội nhập kinh tế sâu rộng trong khu
vực và trên thế giới.
Việt Nam đang trong quá trình công CNH, HĐH rút ngắn, chúng ta thiếu
nhiều điều kiện cho phát triển như: vốn, công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm
quản lý đòi hỏi phải biết phát huy được lợi thế của những nguồn nhân lực hiện
có, cần phải có chiến lược và giải pháp để xây dựng nguồn nhân lực của mình.
Trong phần mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước, báo cáo chính trị tại
Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Đổi mới toàn diện giáo
dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”. Điều đó cho thấy
đào tạo và xây dựng phát triển NNL chở thành một trong những yếu tố then
chốt thúc đẩy đất nước phát triển. [8, tr.35]
Sông Công là thành phố công nghiệp, trung tâm kinh tế, hành chính, văn
hóa - xã hội phía Nam của tỉnh Thái Nguyên; là đầu mối giao thông, giao lưu
phát triển kinh tế - xã hội quan trọng của vùng Đông Bắc Bắc Bộ. Với vị trí

chuyển tiếp giữa đồng bằng và trung du, có vai trò quan trọng góp phần thực
hiện thành công CNH, HĐH đất nước, vì vậy hơn bất cứ địa phương nào trong
khu vực, đòi hỏi thành phố Sông Công cần phải xây dựng được một nguồn
nhân lực bao gồm những người có đức có tài, ham học hỏi, có năng lực sản
xuất kinh doanh, quản lý, điều hành... Hơn nữa trong xu hướng chung của đât
nước hiện nay việc liên tục xây dựng phát triển nguồn nhân lực chất lượng là
hết sức cần thiết, xây dựng được nguồn nhân lực chất lượng được coi là điều
kiện rút ngắn khoảng cách tụt hậu và tăng trưởng nhanh. Nhưng có thể thấy
nguồn nhân lực thành phố Sông Công chưa đáp ứng được yêu cầu của đề án
đưa thành phố Sông Công đưa thành phố nằm trong danh mục đô thị được nâng
cấp lên đô thị loại II trong giai đoạn 2012 -2020. Cho nên việc nghiên cứu lý
luận và phân tích thực trạng nguồn nhân lực để có những giải pháp tạo ra
những chuyển biến tích cực là cần thiết.
2


Xuất phát từ lý do trên, em lựa chon đề tài: “Xây dựng nguồn nhân lực
trên địa bàn Thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên hiện nay” làm khóa
luận sinh viên với mong muốn góp một phần trí tuệ đưa ra phương hướng và
giải pháp nhằm xây dựng nguồn nhân lực cho thành phố.
2. Tình hình nghiên cứu.
Nghiên cứu về nguồn nhân lực và xây dựng nguồn nhân lực đã được
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở những góc độ khác nhau, có thể
khái quát một số công trình tiêu biểu sau đây:
Tác giả Vũ Bá Thể trong cuốn sách: “Phát huy nguồn lực con người để
công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam”,
Nhà xuất bản Lao động -Xã hội, Hà Nội, 2005 đã khái quát kinh nghiệm phát
triển nguồn nhân lực của một số quốc gia phát triển trên thế giới. Qua đó, đề
xuất những những định hướng cơ bản để phát triển nguồn nhân lực của nước ta
trong thời kỳ CNH, HĐH.

Tác giả Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương với công trình: “Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2004 cũng đưa ra những kiến giải về xây dựng nguồn nhân lực, nhất là
nguồn lực quản lý trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam hiện nay.
Hay như ấn phẩm: "Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài
năng" của Trần Văn Tùng; Nxb Thế giới, 2012 cũng đã chỉ rõ con đường để
Việt Nam đổi mới thành công phải là tập trung vào đào tạo, bồi dưỡng và sử
dụng nguồn nhân lực tài năng -nguồn lực trí tuệ của đội ngũ lao động trí óc.
Nhà nghiên cứu Lê Thanh Hà với cuốn sách: “Phát triển nguồn nhân lực
công nghiệp Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và vai trò của công đoàn”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2009 cũng đánh giá vai trò
của công đoàn trong xây dựng và phát triển nguồn nhân lực công nghiệp.
3


Tác giả Đoàn Văn Khái với công trình: “Nguồn lực con người trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
2005 cũng chỉ ra những giải pháp cơ bản để phát huy nguồn lực con người
trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
Ngoài ra còn nhiều bài viết, công trình đề cập đến phát triển nguồn nhân lực
được đăng tải trên các tạp chí như:
- LêThị Mỹ Phượng với bài: "Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai", Tạp chí Lao động và xã hội, (354),
tr. 26-29, 2009.
- Võ Xuân Tiến với bài viết: “Một số vấn đề về đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực”, Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng - số
5(40), 2010.
- Nguyễn Thanh Tuấn với ấn phẩm: "Đa dạng hóa cơ cấu để phát

triển số lượng và chất lượng nguồn nhân lực", Tạp chí Lao động xã hội,
(318), tr.31-33, 2007.
- Phạm Vĩnh Thái với bài viết: "Đào tạo nguồn nhân lực: còn nhiều việc
phải làm", Tạp chí Kinh tế và Dự báo (35), tr.37-39, 2013. ….
Các công trình kể trên đã đề cập và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
chung về xây dựng và phát triển NNL ở Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có đề tài
nào nghiên cứu về công tác xây dựng, phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn
thành phố Sông Công, tỉnh Thái nguyên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận chỉ giới hạn việc nghiên cứu về vấn
đề xây dựng nguồn nhân lực
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Khóa luận tập trung nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực trong phạm vi
thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn từ 2010 đến nay.
4


4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Mục đích nghiên cứu.
- Khóa luận nghiên cứu lý luận về NNL và xây dựng NNL tạo cơ sở cho
phân tích thực trạng phát triển NNL này ở thành phố sông công.
- Đề xuất những giải pháp để đào tạo xây dựng NNL chất lượng cho thành
phố Sông Công đến năm 2020.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, khóa luận cần thực hiện một số
nhiệm vụ cơ bản như sau:
1. Làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận chung về NNL, xây dựng NNL
và nâng cao chất lượng NNL.
2. Khảo sát, nghiên cứu thực trạng xây dựng , phát triển NNL ở thành phố

Sông Công, tỉnh Thái Nguyên
3. Đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế về mặt chất
lượng NNL, đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng được
NNL chất lượng trong thời gian tới cho thành phố.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
kết hợp với các phương pháp cụ thể như phương pháp điều tra, quan sát, phân
tích, so sánh, tổng hợp.
6. Đóng góp mới của khóa luận
- Luận giải được những vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực và xây dựng
NNL chất lượng ở thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.
- Khái quát những kết quả đạt được và những hạn chế trong quá trình xây
dựng và phát triển NNL thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên
- Đề xuất được những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng nguồn nhân lực
chất lượng phục vụ cho sự phát triển của thành phố đến năm 2020.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và xây dựng nguồn nhân
lực chất lượng ở thành phố Sông Công trong những năm qua.
5


7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
phần nội dung đề tài được chia làm 3 chương, 6 tiết.

6


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực và xây dựng nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực (Human Resources)
Trong những thời kỳ mà nền kinh tế tự nhiên còn phổ biến thì sự phát
triển của nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và sức lao
động thủ công. Vì vậy, quốc gia nào giàu tài nguyên, nguồn lao động dồi dào
thì nước đó có lợi thế trong phát triển kinh tế, xã hội và ngược lại. Trong thời
đại ngày nay, khi cách mạng khoa học -công nghệ có những bước tiến vượt
bậc, những quốc gia nêu trên chưa hẳn đã có lợi thế trong việc phát triển hơn
các nước nghèo tài nguyên hoặc khan hiếm nguồn lao động giản đơn. Chẳng
hạn như Singapo với dân số chỉ có trên 3 triệu người, tài nguyên không có gì
nổi bật nhưng đã nổi lên thành một nền kinh tế có mức độ cạnh tranh cao tốp
đầu thế giới. Ngoài ra, trên thế giới cũng còn rất nhiều quốc gia phát triển
nhưng cũng không có sự ưu ái về tài nguyên, thiên nhiên. Vậy, nguyên nhân
nào mà các quốc gia có sự phát triển như vậy?
Qua khảo sát thực tế, hầu hết các quốc gia có sự phát triển vượt bậc như
vậy là bởi trong định hướng phát triển họ đã quan tâm, đầu tư cho phát triển
nguồn nhân lực (NNL), nhất là việc xây dựng được NNL chất lượng tốt.
Vậy nguồn nhân lực lực là gì, nguồn nhân lực có vai trò gì đối với sự
phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc?
Theo chiết tự từ, “nhân” là người, “lực” là sức, “nhân lực” chính là sức
lao động được huy động trong quá trình sản xuất.
Trong ấn phẩm “Đại từ điển kinh tế thị trường” của Viện nghiên cứu và
phổ biến tri thức Bách Khoa, Nxb Thế giới, Hà Nội, năm1998, khẳng định:
Nguồn nhân lực là nhân khẩu có năng lực lao động tất yếu, thích ứng được với
7


nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nhân lực là chỉ tổng nhân khẩu xã hội, là
nguồn tài nguyên. Tài nguyên nhân lực là tiền đề vật chất của tái sản xuất xã
hội. Tài nguyên nhân lực vừa là động lực vừa là chủ thể của sự phát triển, có

tính năng động trong tái sản xuất xã hội. Chính vì lẽ đó khi phân tích về nguồn
tài nguyên nhân lực, phải xem xét nó trong mối quan hệ với tốc độ tăng dân số,
sự phát triển của giáo dục đào tạo, nâng cao phẩm chất của người dân, và
những điều kiện vật chất cần thiết đảm bảo tái sản xuất sức lao động, tái sản
xuất nguồn lực cho xã hội [25, tr.1064]. Nhiều nhà nghiên cứu lại cho rằng,
nguồn lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động và có khả năng
lao động. Như vậy, nguồn nhân lực rộng hơn nguồn lao động bởi nguồn nhân
lực bao gồm cả những người ngoài tuổi lao động có tham gia lao động. Tuy
nhiên, ở chừng mực nào đó có thể coi “Nguồn lao động hay nguồn nhân lực là
những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, cũng như cả người
ngoài tuổi lao động có nhu cầu và khả năng tham gia lao động” [25, tr.29].
Ngoài ra còn một số những quan niệm của các nhà nghiên cứu khác về
nguồn lực con người như:
Quan niệm của tác giả Mai Quốc Chánh “Nguồn nhân lực là nguồn lực
con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội
được biểu hiện ra là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất
định” [5, tr 12].
Tác giả Hoàng Chí Bảo cho rằng: Nguồn lực con người là sự kết hợp thể
lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng - hiệu quả hoạt động và
triển vọng mới phát triển của con người” [1, tr.14] tức là kết cấu bên trong của
nguồn nhân lực bao gồm sức mạnh thể lực, trí tuệ và sự kết hợp hai yếu tố đó tạo
thành năng lực sáng tạo của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên.
Tác giả Đoàn Khải lại khẳng định: Nguồn lực con người là khái niệm chỉ
số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả đặc điểm và
sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội” [14, tr.9].
8


Tác giả Lê Thị Ngân thì quan niệm: NNL là tổng thể những năng lực thể
chất và tinh thần tồn tại trong tổng số lực lượng lao động của xã hội và được

họ đang và sẽ đem ra vận dụng để sản xuất ra hàng hóa tiêu dùng cho xã hội
[16, tr.11].
Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội nước ta cũng chỉ rõ: “Nguồn nhân
lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia, suy
rộng ra có thể được xác định trên một địa phương, một ngành hay một vùng.
Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế xã hội” [3, tr.13].
Từ những quan điểm trên có thể khẳng định: Nguồn lực con người là yếu
tố quan trọng, năng động nhất của tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội;
là tổng hợp những tiềm năng lao động của con người trong một quốc gia, một
vùng, một khu vực, một địa phương trong một thời điểm nhất định. Tiềm năng
của nguồn nhân lực bao gồm thể lực, trí lực và tâm lực (đạo đức, lối sống,
nhân cách và truyền thống, lịch sử, văn hóa, dân tộc) của bộ phận dân số có
thể tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội.
1.1.2. Khái niệm xây dựng nguồn nhân lực
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế kinh tế thế giới, mỗi một quốc gia muốn
phát triển, cố nhiên phải xây dựng được cho mình một đội ngũ nguồn nhân lực
vừa đông về số lượng, vừa có thể đảm trách và thực hiện được các nhiệm vụ
mà thời đại giao phó. Cũng vì lẽ đó, khái niệm xây dựng nguồn nhân lực là vấn
đề được các tổ chức, nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Trong một số diễn
đàn, hội thảo trong và ngoài nước gần đây, các nhà khoa học đã đưa ra một số
cách tiếp nhận, đánh giá, mô phỏng về khái niệm xây dựng nguồn nhân lực.
Các nhà khoa cũng đã đặt ra nhiều câu hỏi liên quan đến vấn đề “làm thế nào
để xây dựng được một đội ngũ NNL tốt đáp ứng nhu cầu của xã hội”.
Là quốc gia có điểm xuất phát thấp, lại chịu tác động và hậu quả của các
chiến tranh, để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu, Việt Nam đã tiến hành đẩy mạnh sự
nghiệp CNH, HĐH và đổi mới toàn diện đất nước. Trong quá trình vừa làm,

9



vừa khảo cứu mô hình phát triển, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng vấn
đề xây dựng và phát triển nguồn nhân lực:
Tại Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ nhận thức “đáp ứng yêu cầu về
con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, đồng thời khẳng định phương
hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ cập
trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng
bước phát triển kinh tế tri thức”. [26, tr.25 ]
Chăm lo xây dựng nguồn lực con người là một định hướng lớn trong chiến
lược phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội X thể
hiện rõ quyết tâm: “Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài;
nhanh chóng xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý về ngành nghề, trình độ
đào tạo, dân tộc, vùng miền...;”. [8, tr.32 ]
Kế thừa và phát triển quan điểm xây dựng nguồn nhân lực từ các đại hội
trước. Đại hội XI (2011) nêu rõ những giải pháp trực tiếp cho chiến lược phát
triển nguồn nhân lực, đó là: “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con
người Việt Nam”; “đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong
đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý là khâu then chốt”; “Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về
nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam”. [9, tr.18]
Trên cơ sở kế thừa các quan điểm của các học giả trong và ngoài nước;
căn cứ vào chủ trương, nhận thức của Đảng về xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực, có thể hiểu: Xây dựng nguồn nhân lực là quá trình quy hoạch, rà
soát và đào tạo nhằm tạo ra đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn tay
nghề, kĩ năng để thực hiện có hiệu quả hơn nhiệm vụ của bản thân đáp ứng
được các lĩnh vực chuyên môn mà mình đã đảm nhận.
10



Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực là chiến lược và giải pháp phát
triển của mỗi một quốc gia, vùng lãnh thổ hay một đơn vị dân cư. Nó là nhiệm
vụ mà các nhà hoạch định chiến lược luôn quan tâm. Là một trong những công
việc thường niên của các chính trị gia chuyên nghiệp. Nhưng đồng thời, nó
cũng là mối quan tâm hàng đầu, là nhiệm vụ mà mỗi công dân trong mỗi quốc
gia phải thực hiện.Vì vậy xây dựng nguồn nhân lực có vai trò quan trọng trong
sự phát triển đất nước.
1.2. Sự cần thiết của xây dựng nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố
Sông Công, tỉnh Thái Nguyên
1.2.1. Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra yêu cầu xây
dựng nguồn nhân lực ở thành phố Sông Công
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong
những xu thế chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Những phát triển mạnh mẽ
về khoa học công nghệ đã góp phần đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa nền kinh
tế thế giới. Thương mại hóa thế giới tăng lên nhanh chóng. Với sự ra đời cuả
các tổ chức như WTO (tổ chức thương mại thế giới ), APEC (diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á -Thái Bình Dương)… kéo theo đó là đòi hỏi cần phải có nguồn
lao động thích ứng với xu thế biến đổi và đáp ứng những tiêu chuẩn khắc khe
của hệ thống sản xuất.
“Toàn cầu hóa là một quá trình biến các vùng miền, các cộng đồng người
khác nhau từ trạng thái biệt lập, tách rời nhau thành một trạng thái khác về
chất, bằng sự liên kết gắn bó thành một thể thống nhất hữu cơ trên quy mô
toàn cầu. Khi đó, một sự kiện, một hiện tượng, một vấn đề xảy ra ở vùng miền
này, ở cộng đồng người này sẽ có ảnh hưởng, tác động tới các vùng miền, các
cộng đồng người khác trên quy mô toàn thế giới” [25, tr.11]. Toàn cầu hóa là
xu hướng tất yếu của quá trình tập trung, chuyên môn hóa sản xuất và phân
công lao động quốc tế. Khi nền kinh tế thế giới phát triển thành một thị trường
thống nhất thì không quốc gia nào đứng ngoài tiến trình này mà có thể tồn tại

và phát triển được và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Toàn cầu hoá và
11


khu vực hoá đã trở thành một trong những xu thế chủ yếu của quan hệ quốc tế
hiện đại và sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong thế kỷ tới. Toàn cầu hoá và khu
vực hoá được thể hiện rõ trong sự gia tăng rất nhanh trao đổi quốc tế về hàng
hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố sản xuất. Toàn cầu hoá đã và đang mang
lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế thế giới và cho mỗi quốc gia tham gia
vào quá trình hội nhập:
Xu thế hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy
việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích của việc
phân bổ nguồn lực hợp lý trên bình diện quốc tế từ đó phát huy cao độ nhân tố
sản xuất hữu dụng của từng quốc gia.
Trước xu thế toàn cầu hóa và hội quốc tế đặt ra yêu cầu nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là công tác xây dựng củng cố nguồn nhân lực
đối với các quốc gia trên thế giới đã và đang trở thành vấn đề cấp bách có tầm
chiến lược và cũng là vấn đề có tính chất sống còn.
Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng hiện đại
hoá. Tuy nhiên, để thúc đẩy tăng trưởng chúng ta còn thiếu nhiều điều kiện
như: vốn, công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý. Đồng thời, cũng cần
phát huy lợi thế của những nguồn lực hiện có nhất là chiến lược và giải pháp để
xây dựng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Việc xây dựng được đội ngũ
nguồn nhân lực chất lượng tốt sẽ giúp đất nước nhanh chóng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trên mọi lĩnh vực, giảm nguy cơ tụt hậu so với các nước trong
khu vực và trên thế giới, rút ngắn “khoảng cách” giữa các quốc gia, tạo khâu
đột phá trong giai đoạn tới đặc biệt là đi đầu đón bắt được những thành tựu
công nghệ khoa học tiên tiến …
Chính những tác động của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đối
cũng đặt ra cho thành phố Sông Công cần nhanh chóng xây dựng và phát triển

nguồn nhân lực chất lượng tốt bởi chỉ có như vậy mới có thể thực hiện thành
công mục tiêu mà Đảng bộ thành phố đề ra trong chiến lược phát triển thành

12


phố trở thành một trong những thành phố công nghiệp trọng điểm của tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 2015 - 2025
Hơn nữa, với đặc thù về vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế - xã hội như vị trí tiếp
giáp giữa khu vực đồng bằng và trung du miền núi, là khu vực có các tuyến giao
thông quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua nối với Thủ đô Hà Nội ở phía Nam và thành phố
Thái Nguyên ở phía Bắc, là trung tâm công nghiệp lớn và là đô thị bản lề, là
điểm chung chuyển kinh tế giữa các vùng trong khu vực cùng với yêu cầu cần
duy trì một lượng lớn lao động làm việc trong các nhà máy ở 2 khu công nghiệp
hiện có và 1 khu công nghiệp đang xây dựng đã và đang đặt ra yêu cầu của việc
xây dựng và đẩy mạnh quá trình đào tạo, phát triển NNL trên địa bàn.
1.2.2. Xây dựng nguồn nhân lực xuất phát từ yêu cầu đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một quá trình có tính lịch sử. Tất cả các
nước công nghiệp phát triển đều phải trải qua quá trình công nghiệp hóa ở các
thời điểm khác nhau với những qui mô tốc độ khác nhau và trong từng giai
đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội. Công nghiệp hoá không đơn thuần chỉ
là phát triển nền công nghiệp, mà còn là phát triển mọi lĩnh vực từ sản xuất vật
chất và dịch vụ của nền kinh tế, cho đến các khâu trang thiết bị, phương pháp
quản lý, tác phong lao động, kỹ năng sản xuất…
Trong điều kiện cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại đang diễn ra như
vũ bão thì CNH, HĐH được coi là phương thức cơ bản, con đường tất yếu để
mỗi quốc gia phát triển. CNH, HĐH là quá trình tạo ra những biến đổi về chất
trong toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội, trước hết là hoạt động sản
xuất vật chất để cải biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công

nghiệp văn minh.
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã thông qua
đường lối CNH, HĐH đất nước, trong đó Đảng ta xác định: “Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang
13


sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. [7, tr.31] Trong mối
quan hệ tác động qua lại với quá trình CNH, HĐH, NNL luôn giữ vị trí, vai trò
quyết định. Mặt khác, NNL cũng không ngừng biến đổi, phát triển dưới tác động
của quá trình CNH, HĐH đất nước.
Xây dựng NNL có chất lượng tốt ở Việt Nam nói chung và ở thành phố
Sông Công nói riêng là một yêu cầu khách quan trong quá trình CNH, HĐH.
Sông Công hiện đang là thành phố trọng điểm của sản xuất công nghiệp nặng ở
Thái Nguyên. Hoạt động công nghiệp dịch vụ phát triển mạnh mẽ. Thực hiện
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của UBND tỉnh Thái Nguyên, Nghị quyết
HĐND thành phố Sông Công khóa VII cũng đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 -2020
Năm 2018 là năm bản lề có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thành kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020 chính vì thế UBND thành phố đang
và sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng , cố gắng xây dựng được NNL có
chất lượng trong thời gian tới góp phần quan trọng trong việc tháo gỡ các khó khăn
để phát triển Công nghiệp -thương mại -dịch vụ, cụ thể hóa mục tiêu của Thành phố
đặt ra, chính vì thế việc xây dựng NNL chất lượng là một tất yếu trên địa bàn.
1.2.3. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn
thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên nhằm phát huy
tiềm năng và lợi thế của địa phương

Sông Công với những tiềm năng như: Nằm ở phía Nam và cách Thái
Nguyên 20km, thành phố Sông Công có vị trí địa lý khá thuận lợi khi cách khu
du lịch Hồ Núi Cốc 17km, cách sân bay quốc tế Nội Bài 48km và cách Hà Nội
60km. Bên cạnh đó, thành phố còn có hệ thống giao thông ngang dọc với các
tuyến quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua như: quốc lộ 3, cao tốc Hà Nội -Thái Nguyên,
tuyến đường sắt Hà Nội -Quan Triều,… Là vùng đất chuyển tiếp giữa đồng

14


bằng với trung du, từ thành phố Sông Công có thể giao thương thuận tiện với
các vùng kinh tế Bắc Thủ đô Hà Nội hoặc phía Nam của vùng núi phía Bắc mà
trung tâm là thành phố Thái Nguyên và các vùng kinh tế trọng điểm khác như
Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Bắc Ninh, Bắc Giang.
Ngoài ra, thành phố Sông Công còn nằm giữa nhiều khu công nghiệp lớn
như: Sông Công 1, Sông Công 2, Phổ Yên, Yên Bình, Diềm Thuỵ, Quyết
Thắng,… thu hút hàng vạn lao động từ khắp các nơi đổ về. Chưa kể nhà máy
sản xuất linh kiện của Samsung với vốn FDI hàng tỷ usd tại Thái Nguyên đang
hoạt động rất hiệu quả.
Bên cạnh đó con người, người dân thành phố Sông Công, tỉnh Thái
Nguyên có tinh thần đoàn kết, coi trọng tình nghĩa, cần cù, ham học hỏi, tiếp
thu nhanh các thành tựu khoa học kỹ thuật, có kinh nghiệm sản xuất phong phú
được tích lũy qua nhiều thế hệ. Một trong những ưu thế rõ rệt là nguồn lao
động của thành phố dồi dào. Đó là do quy mô dân số lớn, cơ cấu dân số trẻ
được coi là “cơ cấu vàng” số người trong độ tuổi lao động cũng tương đối lớn,
giá cả nhân công lại tương đối rẻ. Đây được coi là một trong những tiềm năng
quan trọng bậc nhất để thành phố Sông Công (Thái Nguyên) có thể xây dựng
cho thành phố một đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng chất lượng tốt đáp ứng
được yêu cầu của xã hội.
Sau nhiều năm thành lập, không chỉ diện mạo của thành phố Sông Công

(Thái Nguyên ) thay đổi từng ngày, mà các lĩnh vực kinh tế cũng đạt được
nhiều những thành tựu đáng kể. Với định hướng xây dựng và phát triển thành
một trung tâm công nghiệp theo hướng lấy công nghiệp, thương mại và dịch vụ
làm nền tảng; đồng thời trở thành khu vực trọng điểm trong phát triển công
nghiệp của tỉnh, thành phố Sông Công cần đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng
nguồn nhân lực đáp ứng phát huy tiềm năng lợi thế của một thành phố trẻ.

15


Tiểu kết chương 1
Trong thời đại hiện nay, con người được coi là một “tài nguyên” đặc
biệt, một nguồn lực quan trọng của sự phát triển. Do đó, phát triển con người
chiếm vị trí trung tâm trong xây dựng đội ngũ nguồn lực. Việc đầu tư phát triển
con người là đầu tư chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền
vững. Trong nguồn nhân lực, nguồn nhân lực có chất lượng là một bộ phận đặc
biệt, kết tinh những gì tinh túy nhất của NNL. Đó là lực lượng lao động có khả
năng đáp ứng nhu cầu cao của thực tiễn; là lực lượng lao động có trình độ học
vấn chuyên môn cao, có khả năng nhận thức tiếp thu nhanh chóng những kiến
thức mới, có năng lực sáng tạo biết vận dụng thành tựu khoa học công nghệ
vào thực tiễn; có phẩm chất công dân tốt, có đạo đức nghề nghiệp và đem lại
năng suất, chất lượng hiệu quả lao động cao hơn hẳn. Tuy nhiên, việc xây dựng
và phát triển đội ngũ này ở Việt Nam nói chung ở thành phố Sông Công nói
riêng còn nhiều hạn chế. Vì vậy, cần phải có những định hướng và biện pháp
cơ bản để xây dựng được đội ngũ này trong thời gian tới.

16


17



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của thành phố
Sông Công, tỉnh Thái Nguyên
2.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên của thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên
a. Vị trí địa lí
Sông Công là thành phố trực thuộc tỉnh Thái Nguyên. Thành phố Sông
Công tiền thân là Thị xã Sông Công. Sông Công là thành phố phía Nam của
tỉnh Thái Nguyên; là đầu mối giao thông, giao lưu phát triển kinh tế - xã hội
quan trọng của vùng Đông Bắc Bắc Bộ. Với vị trí chuyển tiếp giữa đồng bằng
và trung du, Sông Công có các tuyến giao thông quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua nối
với Thủ đô Hà Nội ở phía Nam và thành phố Thái Nguyên ở phía Bắc. Toàn
thành phố có diện tích là 98,37 km².
b. Địa hình
Thành phố Sông Công có địa hình đặc trưng là đồi núi đá vôi và đồi dạng
bát úp, địa hình thành phố không phức tạp lắm so với các vùng trung du, miền
núi khác, đây là một thuận lợi của thành phố cho canh tác nông lâm nghiệp và
phát triển kinh tế xã hội nói chung so với các các vùng trung du miền núi khác.
c. Khí hậu, thời tiết
Khí hậu: Sông Công có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nóng ẩm, được chia
làm 4 mùa rõ rệt xuân -hạ - thu -đông. Do có địa hình chủ yếu là đồi nên khí
hậu của thành phố có đặc điểm như sau:
Nhiệt độ trung bình năm đạt khoảng 23.60C (2010). Trong đó nhiệt độ trung
bình thấp nhất khoảng 160C và nhiệt độ trung bình cao nhất đạt khoảng 28,8 0C
(tháng 6).
Sông Công là khu vực có độ ẩm khá cao. Trung bình năm đạt tới 82%,
độ ẩm trung bình thấp nhất đạt khoảng 77% và lớn nhất đạt khoảng 88%. Với

18


lượng mưa khá lớn trung bình hàng năm đạt khoảng 2000mm đến 2500mm,
tuy nhiên lượng mưa phân bố không đều trong khu vực theo thời gian, không
gian. Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.300 đến 1.750 giờ và phân
phối tương đối đều cho các tháng trong năm. Được thiên nhiên ưu đãi về khí
hậu và đất đai, Sông Công có nhiều khả năng để phát triển nông lâm, công
nghiệp, du lịch và các loại hình dịch vụ khác. Diện tích rừng tự nhiên của tỉnh
là 102.190 ha, diện tích rừng trồng khoảng 44.450 ha. Ngoài sản xuất lương
thực, tỉnh còn có diện tích tương đối lớn để quy hoạch các đồng cỏ, phát triển
mạnh chăn nuôi đại gia súc, chăn nuôi bò sữa. Sông Công là vùng đất thích
hợp để phát triển cây chè.
2.1.2. Khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội của thành phố Sông Công, tỉnh
Thái Nguyên
Sông Công là thành phố trực thuộc tỉnh Thái Nguyên, tiền thân là Thị xã
Sông Công được thành lập trên cơ sở thị trấn Mỏ Chè, các xã Cải Đan, Tân
Quang và Bá Xuyên của huyện Phổ Yên theo quyết định số 113/HĐBT ngày 11
tháng 4năm 1985 của Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam, ban đầu gồm 3 phường:
Lương Châu, Mỏ Chè, Thắng Lợi và 3 xã: Bá Xuyên, Cải Đan, Tân Quang, khi
đó thuộc tỉnh Bắc Thái. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, tái lập tỉnh Thái Nguyên từ
tỉnh Bắc Thái, thị xã Sông Công trực thuộc tỉnh Thái Nguyên.
Ngày 10 tháng 4 năm 1999, thị xã Sông Công thành lập phường Phố Cò
và xã Vinh Sơn (từ một phần các xã Cải Đan và Bá Xuyên) theo Nghị định số
18/1999/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam. Cũng theo quyết định này, phần còn
lại của xã Cải Đan đổi thành phường Cải Đan, xã Bình Sơn thuộc huyện Phổ
Yên chuyển về thị xã Sông Công quản lý. Ngày 18 tháng 10 năm 2010, Bộ Xây
dựng ban hành quyết định số 925/QĐ-BXD công nhận thị xã Sông Công là đô
thị loại III. Ngày 13 tháng 1 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số
05/NQ-CP giải thể thị trấn nông trường và điều chỉnh địa giới hành chính để

thành lập thị trấn thuộc các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ, Đại Từ; thành lập
19


×