TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
Tên đề tài: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN VÀO VIỆC XÂY
DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở HUYỆN KỲ ANH,
TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY.
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: NGƯỜI THỰC HIỆN:
TS. TRẦN VIẾT QUÂN NGUYỄN BẰNG GIANG
Huế, 07/ 2014
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa khái quát thì
nguyên lý về sự phát triển mà trong đó quan điểm phát triển là cơ sở là nền
tảng của phép biện chứng duy vật phản ánh quá trình vận động, phát triển
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Sự phát triển sự vật, hiện tượng theo phương thức chuyển hóa từ những
thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại trên cơ sở việc
giải quyết mâu thuẫn, vận động theo xu hướng phủ định. Quá trình phát triển
nảy sinh từ chính nội tại của sự vật, là quá trình vận động không ngừng, khi
nhanh khi chậm, khi tuần tự lúc nhảy vọt, đôi khi lại có những bước thụt lùi
với những bước đi quanh co phức tạp. Nếu nhìn nhận sự vật, hiện tượng
trong cả một chặng đường thì đó chính là quá trình phát triển của nó. Quán
triệt quan điểm phát triển là yêu cầu rất cần thiết trong quá trình nhận thức
và cả trong hoạt động thực tiễn.
Qua gần 30 năm đổi mới nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nước ta đang chuyển dịch theo hướng hiện đại.
Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi nền kinh tế tri thức đang từng bước
phát triển, đòi hỏi cần có sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Do
đó, vấn đề phát triển nguồn nhân lực là một trong 3 bước đột phá cơ bản của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. Trong 3 bước đột phá
ấy thì việc phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao
là bước đột phá tiên quyết so với vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường, xây dựng kết cấu hạ tầng; bởi vì trong thời đại ngày nay con người
đang là trung tâm của mọi chiến lược, nó vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển bền vững.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của nền của nền kinh tế tri thức hiện nay thì
chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta còn nhiều bất cập và tồn tại những hạn
chế. Hiện nay nước ta mới chỉ đáp ứng được khoảng 30 – 40% nhu cầu nhân
lực chất lượng cao của doanh nghiệp. Thị trường nguồn nhân lực chất lượng
cao của Việt Nam đang đứng trước những hạn chế to lớn về số lượng, chất
lượng và cơ cấu.
Huyện Kỳ Anh là huyện miền núi ven biển, nằm ở phía đông nam của
tỉnh Hà Tĩnh, nơi có dãy Hoành Sơn và Đèo Ngang. Là huyện có vị trí quan
trọng cả về kinh tế và quốc phòng, an ninh đối với tỉnh Hà Tĩnh. Với diện
tích 1.053 km2, dân số 175.039 người, hiện nay là một trong những huyện
có nhiều tiềm năng phát triển của tỉnh. Lực lượng lao động chiếm 59% dân
số, có lượng lao động dồi dào, tuy nhiên chất lượng và cơ cấu nguồn nhân
lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Đặc
biệt, hiện nay huyện Kỳ Anh là huyện có tiềm năng phát triển kinh tế rất lớn,
trong đó có khu kinh tế Cảng Vũng Áng, hiện nay đang thu hút nhiều nhà
đầu tư nước ngoài, nổi bật trong đó có dự án FOMOSA của Đài Loan với
tổng mức đầu tư 15 tỉ USD (được chia làm 2 giai đoạn), nằm trên diện tích
3.300ha trong đó diện tích đất liền là hơn 2000ha và diện tích mặt nước trên
1.200ha. Do đó, để đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, cũng
như phù hợp với những tiềm năng sẵn có, trong thời gian tới, một trong
những mục tiêu của huyện là cần phải đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính vì điều đó, việc
vận dụng quan điểm phát triển vào việc xây dựng nguồn nhân lực chất
lượng cao ở huyện Kỳ Anh, đồng thời đóng góp một số giải pháp phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội ở huyện Kỳ Anh là hết sức cần thiết, có ý nghĩa to lớn cả về lý luận cũng
như thực tiễn. Vì vậy, học viên chọn đề tài: “Vận dụng quan điểm phát
triển vào việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao ở huyện Kỳ Anh,
tỉnh Hà Tĩnh hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quan điểm phát triển nằm trong nguyên lý về sự phát triển – một trong
hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật. Quan điểm về sự phát triển là
một vấn đề lớn của triết học được nhiều người quan tâm nghiên cứu, liên
quan trực tiếp, gián tiếp đến các đề tài đã có nhiều công trình, bài viết, hội
thảo như:
1.Bài viết của PGS.TS. Lương Đình Hải: Tư duy phát triển và sự phát
triển của đất nước (2011), đăng bởi Tạp chí triết học. Tác giả cho rằng một
trong những yếu tố quyết định tốc độ phát triển của quốc gia là chất lượng
nguồn nhân lực.
2. Hội thảo cấp cao “ Việt nam hướng tới thập niên mới và giai đoạn
xa hơn” Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ 5 quan điểm phát triển của
Việt Nam trong giai đoạn 2011- 2020. Thủ tướng nêu rõ đó là: phát triển
nhanh gắn liền với phát triển bền vững, đổi mới đồng bộ, thực hành dân chủ
phát huy nhân tố con người, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Nghiên cứu về vấn đề phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất
lượng cao luôn là đề tài quan tâm của nhiều người, nhiều cơ quan, tổ chức
và các nhà nghiên cứu khoa học, cũng như các hội thảo khoa học, các luận
văn thạc sĩ, tiến sĩ. Những nghiên cứu về đề tài này được xem xét ở nhiều
góc độ, phạm vi rộng, hẹp khác nhau như:
3. Phát triển nguồn nhân lực cho vùng kinh tế trọng điểm miền trung
– Hội thảo phát triển nguồn nhân lực cho vùng kinh tế trọng điểm miền
trung, tại Đà Nẵng, 10-1-2012.
Tại hội thảo này gồm có 43 bài nghiên cứu của các nhà khoa học các
nhà nghiên cứu, cán bộ giảng dạy của Học viện Chính trị - Hành chính khu
vực III, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế -
xã hội Đà Nẵng…Trong 43 bài nghiên cứu có 14 bài đề cập đến những vấn
đề chung về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng
nhân tài; 25 bài đề cập đến thực trạng những vấn đề đặt ra cũng như những
giải pháp để phát triển nguồn nhân lực cho vùng trọng điểm miền trung.
4. Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH – HĐH, và hội nhập
quốc tế - Hội thảo khoa học, tại Hà Nội ngày 24-8-2012.
Hội thảo thu hút 80 tham luận của các nhà khoa học, nhà quản lý, đại
diện các cơ quan, ban, ngành, và 12 ý kiến phát biểu trực tiếp. Hội thảo
khẳng định: Việt Nam đang đẩy mạnh CNH – HĐH và hội nhập quốc tế, tất
yếu đang từng bước tiến tới chiếm lĩnh những thành tựu khoa học – công
nghệ tiên tiến, nên đòi hỏi một lực lượng đông đảo nhân lực có trình độ cao,
có khả năng làm việc trong môi trường công nghệ và cạnh tranh. Do vậy
phát triển nguồn nhân lực có chất lượng với những thay đổi nhanh chóng của
công nghệ sản xuất là yếu tố then chốt bảo đảm nền kinh tế Việt Nam phát
triển theo hướng hiện đại, bền vững.
5. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung từ nay đến 2020 – PGS, TS Hồ Tấn Sáng, Học viện CT-
HC Khu vực III.
Bài viết nêu rõ, yêu cầu bức thiết của việc phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Đồng thời
nêu lên một số giải pháp góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
ở các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong giai đoạn 2011-2020.
6. Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ sự phát triển bền
vững của đất nước – TS. Trần Hồng Lưu, Khoa lý luận chính trị , Đại học
kinh tế Đà Nẵng.
Bài viết nêu bật vai trò của nguồn nhân lực có trình độ cao là yếu tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và những số liệu liên quan đến
nguồn nhân lực cùng những kiến nghị đối với nhà nước, các cơ quan ban
ngành, đặc biệt là ngành giáo dục – đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực đó.
7. Giáo dục – đào tạo với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa – PGS,TS. Đường Vinh Sường, Học
viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Tạp chí cộng sản, số 833
(3-2012).
Bài viết nêu rõ, nguồn nhân lực chất lượng cao của thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa phải là “những con người phát triển cả về thể lực và trí lực,
cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị xã hội, về đạo đức, tình
cảm trong sáng”…
8. Vai trò nguồn nhân lực với sự phát triển kinh tế miền trung – TS.
Nguyễn Văn Thanh, Đại học kinh tế Đà Nẵng.
Tác giả phân tích làm rõ khái niệm con người và nguồn lực con người,
số lượng và chất lượng của nguồn lực con người, đồng thời nêu lên những
nhiệm vụ cần thực hiện để phát huy nguồn lực con người.
9. Một số yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao trong hội nhập
kinh tế quốc tế - Võ Thị Kim Loan, Hội thảo toàn quốc giáo dục đại học
Việt Nam, 9-11-2012.
…(Ngoài các công trình trên, có thể tìm hiểu thêm các bài viết khác ở
các tạp chí)
Các đề tài nghiên cứu khoa học được nêu ở trên, hầu hết các tác giả, các
cuộc hội thảo khoa học đều nêu khái quát vai trò của sự phát triển nguồn
nhân lực đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng
thời cũng đã nêu ra những nhiệm vụ và giải pháp trong việc phát triển nguồn
nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở vận dụng nguyên lý phát triển và quan điểm phát triển của
phép biện chứng duy vật nhằm đánh giá tình hình và thực trạng nguồn nhân
lực chất lượng cao ở huyện Kỳ Anh trong những năm gần đây, từ đó đưa ra
những nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội huyện từ nay đến 2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích khái niệm phát triển, nội dung nguyên lý về sự phát triển và
rút ra phương pháp luận làm cơ sở vận dụng vào việc xây dựng nguồn nhân
lực chất lượng cao.
- Đánh giá tình hình và thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở
huyện Kỳ Anh trong thời gian vừa qua.
- Tìm hiểu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở một
số tỉnh thành trong cả nước.
- Đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở huyện Kỳ Anh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan điểm phát triển, cũng
như việc phân tích nguyên lý của sự phát triển chủ yếu chú trọng đến mặt lý
luận, đưa ra các dẫn chứng, ví dụ của các nhà kinh điển. Vận dụng quan
điểm phát triển từ sự tìm hiểu nguyên lý trở thành nguyên tắc chỉ đạo cho
việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam nói chung và
huyện Kỳ Anh nói riêng.
4.2. Với tính chất là một luận văn nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ
giới hạn việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời gian gần
đây của huyện Kỳ Anh, khoảng từ 2006 đến 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng, Nhà nước và của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Đồng thời luận văn cũng sử dụng các phương pháp như: Phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh, phương pháp điều tra xã
hội học…
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
Kết quả của luận văn góp phần nâng cao nhận thức cũng như trách
nhiệm cho bản thân. Đồng thời luận văn còn là tài liệu tham khảo cho những
ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm có 2 chương, 5 tiết.
CHƯƠNG I
QUAN ĐIỂM VỀ SỰ PHÁT TRIỂN VÀ VIỆC XÂY DỰNG NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
1.1. Quan điểm về sự phát triển
1.1.1. Quan điểm về phát triển trong triết học trước Mác
Quan điểm về phát triển ở Phương Tây đã xuất hiện những mầm mống
đầu tiên từ thời Hy Lạp cổ đại. Trong đó tiêu biểu là Hêraclit đã cho rằng : “
mọi vật đều tồn tại, và cũng không tồn tại, vì mọi vật đang trôi qua, mọi vật
đều không ngừng biến hóa, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu
vong”. Tư tưởng biện chứng Hy Lạp cổ đại tạo tiền đề cho sự phát triển của
tư duy biện chứng ở phương Tây sau này, đặc biệt trong thời kỳ Cận đại và
cổ điển Đức.
Thời kỳ Cận đại, khi tư duy không còn hướng đến những đối tượng
được gợi mở trong Kinh thánh, thay vào đó là sự hướng đến với giới tự
nhiên, khi đó phương pháp siêu hình ra đời trên tinh thần duy vật.
Ph.Ănghen đánh giá rằng, phương pháp mà Heeghen gọi là phương pháp
siêu hình áp dụng chủ yếu vào việc nghiên cứu những sự vật được coi như là
những cái gì đã hoàn thành và bất biến, phương pháp đó vào thời đại đó đã
nói lên sự vĩ đai của nó. Cuộc cách mạng vĩ đại nhất trái đất chưa từng thấy
ở phương Tây thời kỳ Cận đại đã tạo ra một lượng máy móc khổng lồ.
Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph.Ănggen dẫn ra quan
niệm về sự phát triển của giới tự nhiên ở các nhà duy vật thế kỉ XVIII: “Năm
châu hiện nay lúc nào cũng vẫn tồn tại; bao giờ chúng cũng vẫn có những
núi non ấy, cũng những thung lũng ấy, những sông ngòi ấy, khí hậu ấy, cỏ
cây ấy, động vật; trừ phi bị bàn tay con người làm biến đổi đi hoặc xê dịch
đi thì không kể. Họ cho rằng, giới tự nhiên sinh ra như thế nào thì cứ vĩnh
viễn như thế không thay đổi. . . Ngược với lịch sử của nhân loại là cái diễn
ra trong thơì gian, người ta cho rằng lịch sủ của giới tự nhiên chỉ diễn ra
trong không gian mà thôi” (39, tr.469). Với quan điểm siêu hình của mình,
các nhà triết học thời kì này xem xét sự vật một cách hoàn toàn cô lập tách
rời với các sự vật khác, nằm cạnh nhau mà không nhìn thấy nhau, sự tồn tại
hay tiêu vong cũng không liên quan gì đến nhau. Họ xem xét sự vật trong
trạng thái nằm yên bất động, không vận động biến đổi. Người siêu hình cho
rằng, cái gì sinh ra một lần rồi nhất thành bất biến và còn có quan niệm coi
phát triển là sự vận động đi tới cõi chết. Nhưng vẫn có các nhà triết học khác
có thừa nhận sự phát triển nhưng với họ, sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay
giảm đi đơn thuần về mặt lượng, một sự trưởng thành đơn giản, không thấy
được sự thay đổi về mặt chất của sự vật và nếu có sự thay đổi về chất thì
quá trình đó diễn ra theo một vào khiếp kín chứ không phải sự chuyển hóa từ
sự vật, hiện tượng này thành sự vật, hiện tượng khác và cũng không có sự
xuất hiện cái mới tiến bộ. và đây là cái cớ của những nhà tư tưởng tư sản và
bọn cơ hội đấu tranh chống lại phép biện chứng duy vật, để tuyên truyền cho
sự tồn tại vĩnh viễn của chủ nghĩa tư bản.
Thời kỳ Tây Âu Trung cổ, triết học bị trói chặt bởi thần học và nhà
thờ đã đẩy sự xem xét thế giới bởi những quan niệm cứng nhắc, không có
sự vận động, thế giới đó hoàn toàn bị chi phối bởi lực lượng siêu nhiên bên
ngoài. Khi thoát ra được cái vòng vây đó các nhà duy vật cận đại đã có
những nhìn nhận thay đổi: “tất cả những gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả gì
là cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta
cho là vĩnh cữu thì trở thành nhất thời, và người ta đã chứng minh rằng toàn
bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dòng và tuần hoàn vĩnh cữu. Thực
ra, một cái gì đó trông bề ngoài vẻ như vững chắc với cách nhìn siêu hình
nhưng nhìn nhận quan điểm biện chứng nó bắt đầu tan chảy, bởi vì sự vật,
hiện tượng đang không ngừng phát sinh, phát triển.
Thế giới luôn thống nhất ở tính vật chất của nó, tính vật chất gắn
liền với tính không ngừng vận động và chính sự tự vận động để dẫn đến sự
thay đổi về lượng và chất. Sự phong phú của sự vật, hiện tượng, không khác
gì là nhờ nội lực thúc đẩy trong chính bản thân của nó. Điều này được
V.Leenin làm rõ trong khi nói về “Những bài giảng về lịch sử triết học” của
Heeghen. Điều quan trọng phải kết hợp “nguyên tắc về sự phat triển” và
nguyên tắc về sự thống nhất (nguyên tắc về mối liên hệ phổ biến) giới tự
nhiên, của vận động, của vật chất và trong trường hợp cụ thể. Làm được điều
đó để thấy thế giới luôn ở trong sự vận động không ngừng. Các sự vật, hiện
tượng luôn ở trong những mối liên hệ rằng buộc nhau và tự vận động là bản
chất của thế giới. Làm rõ những quan điểm về sự phát triển, V.Leenin cho
rằng:
Sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường
thẳng, sự phát triển bằng nhảy vọt, bằng sự đột biến, bằng những cuộc đổi
thành chất, bằng những cuộc cách mạng; những bước gián đoạn của sự tiến
dần dần; sự biến đổi thành chất, những kích thích nội tại theo hướng phát
triển, những kích thích gây ra bởi sự mâu thuẫn, bởi sự xung đột giữa những
lực lượng và những xu thế khác nhau dang tác động vào một vật thể xác
định, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các mối liên hệ chặt chẽ, mật thiết,…quy
định quá trình vận động có tính chất thế giới, thống nhất và có quy có luật là
một số điểm về phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển (29.tr65).
Sự phát triển từ những biến đổi khó nhìn thấy bởi diễn ra trong nội
tại sự vật đến những thay đổi rõ ràng căn bản; từ những tích lũy về lượng
thúc đẩy thay đổi về chất. Những biến đổi ấy không phải là ngẫu nhiên mà là
kết quả tất yếu của những biến đổi nhỏ tạo thành những chuyển biến lớn.
Kèm theo đó, quá trình phát triển không phải là một chuyển động vòng tròn
khep kín, không phải “đi lại con đường đã đi qua”, mà là sự đi lên theo
hướng tiến bộ, từ cái cũ cho đến cái mới như là một sự phát triển từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Trên cơ sở khái quát những biến đổi các sự vật, hiện tượng tồn tại
trong hiện thực, trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm:
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động đi lên từ
khuynh hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn, trong đó có sự xuất hiện cái mới tiến bộ là tiêu
chuẩn nói lên sự phát triển.
Tóm lại, khái niệm phát triển cho ta cái nhìn xuyên suốt về sự vận
động của sự vật hiện tượng. Sự vận động đó trải qua con đường quanh co,
phức tạp với những biến đổi khong đồng đều và không đi theo đường thẳng.
Bởi sự phát triển hiện diện ở khắp mọi nơi, đa dạng và phong phú và tự vach
ra quy luật phát triển khách quan cho nó.
1.1.2. Quan điểm về phát triển trong triết học Mác- Lênin
Liên quan đến khái niệm phát triển, khái niệm vận động, Ăngghen cho
rằng: “vận động là phương thức tồn tại của vật chất”, “là thuộc tính cố hữu
của vật chất”. Theo Ăngghen, vận động là mọi biến đổi nói chung, “bao gồm
mọi sự thay đổi và quá trình diễn ra trong vũ trũ, kể từ sự thay đổi đơn giản
cho đến tư duy” bao hàm trong đó sự thay đổi về chất .
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng sự phát triển, đổi mới là hiện
tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy, mà
nguồn gốc của nó là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập trong bản thân sự
vật và hiện tượng. Nhưng không nên hiểu sự phát triển bao giờ cũng diễn ra
một cách đơn giản, theo đường thẳng. Xét từng trường hợp cá biệt, thì có
những vận động đi lên, tuần hoàn, thậm chí đi xuống, nhưng xét cả quá
trình, trong phạm vi rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng thống trị.
Khái quát tình hình trên đây, phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, phát
triển là khuynh hướng chung của sự vận động của sự vật và hiện tượng.
Quan điểm biện chứng xác định nguồn gốc bên trong của mọi sự phát triển.
Cho nên thế giới phát triển là tự thân phát triển, là quá trình bao hàm mâu
thuẫn và thường xuyên giải quyết mâu thuẫn, vừa liên tục vừa có gián đoạn;
là quá trình bao hàm sự phủ định cái cũ và ra đời cái mới. Sự phát triển như
là vận động đi lên ra đời cái mới, nhưng cái mới không đoạn tuyệt với cái cũ
mà kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Tất cả những điều đó nói lên
tính chất phức tạp của sự phát triển, nhưng bao giờ cũng theo khuynh hướng
đi lên.
Trên cơ sở khái quát những biến đổi các sự vật, hiện tượng, trên lập
trường chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm: Phát triển là một phạm trù
triết học dùng để chỉ quá trình vận động đi lên theo khuynh hướng từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn,
trong đó có sự xuất hiện cái mới, tiến bộ. Sự xuất hiện cái mới tiến bộ là
tiêu chuẩn nói lên sự phát triển.
1.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là tất yếu khách
quan trong giai đoạn hiện nay
1.2.1. Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực nói chung
Ở bất kỳ thời điểm nào của lịch sử phát triển, nguồn lực con người luôn là
vấn đề quan trọng bậc nhất và là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia,
dân tộc vì nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sức mạnh của đất
nước. Điều đó càng thể hiện rõ nét hơn trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay
khi nền kinh tế nào dựa nhiều vào tri thức sẽ tạo ra nhiều cơ hội phát triển,
duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực.
Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế gần đây cũng chỉ ra rằng động lực quan
trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là yếu tố con người.
Phát triển nguồn nhân lực là một “quá trình làm biến đổi về số lượng,
chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu
của nền kinh tế xã hội”, đó là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính
sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho nguồn nhân
lực (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý – xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về
nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát
triển.
Phát triển nguồn nhân lực bao gồm:
Thứ nhất, phát triển về số lượng: là sự gia tăng về số lượng và thay đổi
cơ cấu của đội ngũ nhân lực theo hướng phù hợp với môi trường và điều
kiện hoạt động mới. Số lượng của nguồn nhân lực được xác định trên quy
mô dân số, độ tuổi, sự kế tiếp và đan xen giữa các thế hệ, giới tính cân bằng,
phân bố dân cư giữa các vùng miền của đất nước, giữa các ngành kinh tế, kết
hợp hài hòa giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương, kinh tế theo khu
vực và kinh tế vùng miền, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tất cả
những vấn đề cơ bản trên đây có tác động qua lại lẫn nhau trong đó thế
mạnh của quy mô dân số có ý nghĩa vai trò to lớn trong việc phát triển
nguồn nhân lực. Nhìn rộng ra thế giới những nước có dân số đông đa phần là
những nước có kinh tế phát triển vì lợi thế ưu điểm của quy mô dân số lựa
chọn ra những nguồn lực con người có chất lượng cao để phát triển kinh tế
xã hội và những vấn đề khác.
Thứ hai, Phát triển về chất lượng: là sự gia tăng mức sống, trình độ
hộc vấn, trình độ chuyên môn kĩ thuật và sức khỏe của các thành viên trong
xã hội. Chất của nguồn nhân lực là một khái niệm tổng hợp nó quyết định
toàn bộ nội dung, bản chất của nguồn lực bởi vì nó bao gồm những đặc
trưng, chất lượng, chất xám, trí tuệ, trí lực, thể lực, trình độ kỹ thuật, tay
nghề, trình độ học vấn, trình độ năng lực quản lí, tính chuyên nghiệp thành
thạo trong công việc được đảm nhận…
Để phát triển nhanh nguồn nhân lực cả về lượng và chất, Đại hội XI
chỉ rõ: “Phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý là khâu then chốt”.( Đảng Cộng săn Việt Nam, Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội. 2011, tr 130-131).
Ngày nay, vị trí, vai trò của các nguồn lực được nhìn nhận rõ hơn,
trong đó nguồn nhân lực được coi vừa là nguồn lực nội tại, cơ bản, quyết
định sự nghiệp CNH, HĐH, vừa là đối tượng mà chính quá trình CNH, HĐH
phải hướng vào phục vụ.
Xét về tiềm năng, việc phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục,
đào tạo nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ,… làm cho nguồn lực con người
không ngừng phát triển trở thành tiềm năng vô tận. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng
lại xem xét nguồn nhân lực dưới dạng tiềm năng thì chưa đủ. Vấn đề quan
trọng là phải khai thác, huy động và phát huy có hiệu quả nhất tiềm năng đó
vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Đó chính là quá trình chuyển hoá
nguồn nhân lực dưới dạng tiềm năng thành “vốn nhân lực”. Nghiên cứu bản
chất phát triển nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển con người, chúng
ta càng hiểu sâu sắc hơn tầm quan trọng đặc biệt của đầu tư vào con người,
vào phát triển nguồn nhân lực, thực chất là đầu tư cho phát triển để tạo ra
vốn nhân lực, nguồn nội lực vô tận của đất nước.
1.2.2. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam, thuật ngữ này chính thức
được nêu ra trong Văn Kiện Đại Hội Đảng lần thứ X: “ thông qua việc đổi
mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”. Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc Đảng lần thứ XI năm 2011 một lần nữa khẳng định: “phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lí giỏi;
đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hóa đầu đàn; đội ngũ doanh nhân
và lao động lành nghề”. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một khái niệm quan
điểm thống nhất và những tiêu chí cơ bản để xác định thế nào là nguồn nhân
lực chất lượng cao vẫn còn tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Theo GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, “ nguồn nhân lực chất lượng cao-
một nguồn nhân lực mới, là một lực lượng lao động có học vấn, có trình độ
chuyên môn cao và nhất là có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi
nhanh chóng của công nghệ sản xuất”.
Theo GS.VS Phạm Minh Hạc, “ nguồn nhân lực chất lượng cao là đội
ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, là lực lượng xung kích tiếp nhận
chuyển giao công nghệ tiên tiến, sử dụng có hiệu quả việc ứng dụng vào
điều kiện nước ta là hạt nhân đưa lĩnh vực của mình đi vào công nghiệp
hóa, hiện đại hóa được mở rộng theo kiểu vết dầu loang bằng cách dẫn dắt
những bộ phận có trình độ và năng lực thấp hơn, đi lên với tốc độ nhanh”.
Như vậy có thể quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao như sau:
Nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng lao động có khả năng đáp ứng
nhu cầu cao và biết cách giải quyết tối ưu những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Lực lượng này có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao, có khả năng
nhận thức, tiếp thu nhanh kiến thức mới; biết vận dụng sáng tạo tri thức, kỹ
năng được đào tạo và những thành tựu khoa học- công nghệ vào lao động
sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là tập hợp những người tham gia vào
các hoạt động khoa học công nghệ (KHCN) với các chức năng nghiên cứu,
sáng tạo, giảng dạy, quản lý, tác nghiệp,… Đây là lực lượng góp phần quyết
định tạo nên sự phát triển, tiến bộ cuả KHCN nói riêng và của sự nghiệp
CNH, HĐH nói chung. Trong đội ngũ này, đáng chú ý là các cán bộ KHCN
làm việc trong hệ thống các cơ quan nghiên cứu và triển khai (R&D) bao
gồm hệ thống các viện nghiên cứu, thiết kế, các cơ sở quản lý, tư vấn, dịch
vụ chuyển giao công nghệ cùng các cơ sở sản xuất dịch vụ trực tiếp tham gia
thử nghiệm hoặc tiếp nhận công nghệ được chuyển giao ứng dụng. Có thể
nói đây là lực lượng tiên phong trong việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ
tiên tiến, thực hiện việc ứng dụng có kết quả vào điều kiện Việt Nam, là hạt
nhân trong việc đưa lĩnh vực nơi họ đang lao động, sáng tạo đi vào CNH,
HĐH.
1.2.3. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một tất yếu
khách quan trong giai đoạn hiện nay
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, để phát triển thành công kinh
tế- xã hội bền vững, phải chú ý phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lượng cao.Nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của
con người, thì mọi nguồn lực khác đều trở nên vô nghĩa. Sự khẳng định này
không chỉ nói lên vai trò quyết định của nguồn lực con người trong quan hệ
so sánh với các nguồn lực khác, mà còn phản ánh một đặc điểm quan trọng
của nó; đó là, nguồn lực con người là nguồn lực duy nhất mà nhờ vào đó,
các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực đối
với quá trình CNH, HĐH. Với ý nghĩa đó, nguồn nhân lực là yếu tố quyết
định không thể thay thế trong phát triển kinh tế - xã hội.
Ở nước ta hiện nay, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là đột phá chiến lược
nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, là
yếu tố quyết định cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
kinh tế và lợi thế cạnh tranh dài hạn, đảm bảo kinh tế - xã hội phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững. Trong giai đoạn hiện nay, nguồn nhân lực chất
lượng cao đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế bởi vì:
- Nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng then chốt quyết định đến
tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội.
- Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện ở quá trình chuyển
đổi căn bản và toàn diện từ hoạt động sản xuất sử dụng lao động thủ công là
phổ biến sang sử dụng lao động đã được đào tạo chuyên môn, có tay nghề
và áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất tạo ra năng suất lao động cao
hơn. Vì vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ là lực lượng chủ yếu tham
gia quá trình sản xuất và có vai trò quyết định cho sự thành công của công
cuộc này.
- Ngoài ra, nguồn nhân lực chất lượng cao là tiền đề để chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động
quốc tế…
Trong khu vực Đông Nam Á, Xin-ga-po được coi là hình mẫu về phát
triển nguồn nhân lực. Thực tế đã minh chứng, quốc gia nhỏ bé này đã rất
thành công trong việc xây dựng một đất nước có trình độ dân trí cao và hệ
thống giáo dục phát triển hàng đầu châu Á.
Ở châu Á, Nhật Bản là một trong những nước đi đầu trong phát triển nguồn
nhân lực. Xuất phát từ việc xác định rằng, nước Nhật nghèo tài nguyên thiên
nhiên, để phát triển, chỉ có thể trông chờ vào chính mỗi người dân Nhật Bản,
Chính phủ nước này đã đặc biệt chú trọng tới giáo dục - đào tạo, thực sự coi
đây là quốc sách hàng đầu. Theo đó, chương trình giáo dục đối với cấp tiểu
học và trung học cơ sở là bắt buộc; tất cả học sinh trong độ tuổi từ 6 đến 15
tuổi được học miễn phí. Kết quả là, tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại
học, cao đẳng ở nước này ngày càng nhiều. Nhật Bản trở thành một trong
những cường quốc giáo dục của thế giới…
Tóm lại, từ lý luận vai trò nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế-
xã hội và thực tiễn đang diễn ra, Việt Nam muốn thực hiện thành công khâu
đột phá này, trước hết phải cải cách triệt để thể chế giáo dục, nhất là giáo
dục đại học và dạy nghề. Tiếp theo, Nhà nước cần có sự đầu tư và phối hợp
nguồn lực xã hội theo thể chế mới để phát huy các cơ sở đào tạo tiên tiến,
loại bỏ các cơ sở kém chất lượng. Cuối cùng, gốc rễ của phát huy nguồn
nhân lực là công tác sử dụng nhân lực, đặc biệt là sử dụng người tài. Nếu sử
dụng tốt, tự nó sẽ phát huy được yếu tố nguồn nhân lực và tạo ra chuyển
biến trong hệ thống đào tạo nguồn nhân lực, trong đó có đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao.
1.2.4. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp
CNH- HĐH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Khi khẳng định vai trò nguồn nhân lực chúng ta phải đặt nó trong
quan hệ so sánh với các nguồn lực khác, mức độ chi phối của nó đến sự
thành bại của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng
thời, cũng cần đặt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
hiện nay khi cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật và công nghệ hiện đại
đang phát triển mạnh mẽ; lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành
xu thế phổ biến trong sự phát triển của nhân loại; khi công nghiệp hóa gắn
liền với hiện đại hóa, mà thực chất là hiện đại hóa lực lượng sản xuất
trong giai đoạn hiện nay của đất nước.
Với cách tiếp cận như trên, vai trò của nguồn nhân lực đối với các
nguồn lực khác, với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
được biểu hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lý vv chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý
nghĩa tích cực đối với xã hội khi nó được kết hợp với nguồn lực con người.
Bởi con người, bằng hoạt động thực tiễn có ý thức, với tư duy, trí tuệ của
mình, con người biết sử dụng, chi phối, gắn kết các nguồn lực khác tạo nên
một sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Hơn thế nữa, các nguồn lực khác chúng là những khách thể, chịu sự
tác động, cải biến của con người; con người khai thác các nguồn lực khác
nhằm phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của họ. Một thực tế, chúng ta muốn tiến
hành công nghiệp hóa trước hết phải có vốn, nhưng vốn chỉ có thể trở thành
nguồn lực cho sự phát triển khi nó nằm trong tay những con người biết sử
dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. Cũng như vậy, sự giàu có tài
nguyên thiên nhiên và những ưu thế về địa lý cũng sẽ mất hết ý nghĩa nếu
chủ nhân của nó không có năng lực khai thác v.v Và như vậy, xét đến cùng
nếu thiếu sự hiện diện của con người bằng trí tuệ và tài năng thì mọi nguồn
lực trở thành vô nghĩa.
Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt,
trong khi đó nguồn nhân lực con người, mà cốt lõi là nguồn lực trí tuệ lại là
nguồn nhân lực vô tận. Tính vô tận của trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó
không chỉ tái sinh và tự sinh sản về mặt sinh học, mà còn có khả năng tự
đổi mới không ngừng về chất lượng trong con người xã hội, nếu chúng ta
biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Nhờ vậy nguồn nhân lực có trí
tuệ cao ngày càng vươn lên làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài
nguyên mới vốn không có sẵn trong tự nhiên. Chính điều đó nói lên vai trò
của nguồn nhân lực trong sự phát triển của xã hội.
Thứ ba, nguồn nhân lực có được một tiềm năng, trí tuệ, được học tập
và được đào tạo cơ bản đó sẽ là một sức mạnh to lớn và khi nó được vật thể
hóa sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp cho sự phát triển của đất nước
Ngày nay, sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật
và công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước đang phát triển
vận động đến nền kinh tế của trí tuệ. Những nước này, lao động trí tuệ ngày
càng chiếm tỷ lệ cao, nguồn lợi thu được từ chất xám chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng giá trị tài sản quốc gia. Ví dụ: Ở Nhật Bản, nguồn lợi thu được do
tin học mang lại đã chiếm 40% tổng giá trị tài sản quốc gia. Như vậy, rõ
ràng nguồn nhân lực có trí tuệ cao là lực lượng lao động có một vai trò to
lớn trong việc ứng dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào quá trình sản
xuất, tạo nên một bước chuyển lớn lao cho quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Thứ tư, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thực chất là tiến
hành cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ nhằm thay đổi lao
động thủ công bằng lao động máy móc, tạo một bước phát triển mới về
năng suất lao động, đưa đất nước nhanh chóng phát triển tiến kịp xu thế
chung của thời đại.
Nước ta vốn là một nước nông nghiệp còn phổ biến là sản xuất nhỏ,
hơn 50% lực lượng lao động làm nông nghiệp, chưa được đào tạo một
cách căn bản về chuyên môn kỹ thuật đây là một trở lực lớn cho sự phát
triển của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (tính đến
1/7/2007 lực lượng lao động của cả nước là 44,171 triệu người trong đó
nông nghiệp là 22,176 triệu người, công nghiệp chỉ 8,7 triệu người, chiếm
18%).
Để đáp ứng ngày càng cao trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được một
nguồn lực lao động có thể chất, trình độ trí tuệ cao, phẩm chất, bản lĩnh
chính trị tốt và chỉ có như vậy chúng ta mới thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO Ở HUYỆN KỲ ANH,
TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao
2.1.1. Nhân tố khách quan
- Sự phát triển của khoa học công nghệ
Trong thời kỳ phát triển như hiện nay thì khoa học và công nghệ
chiếm vị trí quan trọng trong guồng máy vận hành của nhiều lĩnh vực : kinh
tế, tài chính, thống kê, khí tượng thủy văn, dich vụ…điều này dự báo nguồn
nhân lực chuyên sâu về nhóm ngành này sẽ thu hút nhiều sự đầu tư của các
đơn vị giáo dục, đào tạo, tuyển dụng…
Theo thống kê của trang www.fofbes.com , lĩnh vực này chiếm vị trí
thượng phong trong bảng xếp hạng mười nghề hàng đầu của thế giới năm
2013. Dẫn đầu là phát triển phần mềm (software developers), chiếm vị trí
thứ 4 là phân tích hệ thống máy tính (computer systems analysts), chiếm vị
trí thứ 6 là quản trị hệ thống máy tính và mạng ( Network and computer
systems administrators).
Nhằm bắt kịp xu hướng chung của quốc tế, Việt Nam đạt mục tiêu
đạt được khoảng một triệu nhân lực chuyên sâu về công nghệ thông tin vào
năm 2020. Đấy cũng chính là bức tranh nghề nghiệp hấp dẫn dành cho các
bạn trẻ đam mê tìm tòi ứng dụng khoa học kỹ thuật vào mọi mặt của khoa
học đời sống để đạt được những mục tiêu trong cuộc đua cạnh tranh chất
xám giữa các ngành nghề phong phú hiện nay.
Nếu như nói an ninh, quốc phòng, giáo dục, văn hóa- xã hội…là
những lĩnh vực không thể thiếu cho sự ổn định và phát triển đất nước thì
khoa học – công nghệ là một lĩnh vực vô cùng quan trọng và cần thiết cho sự
phát triển của mỗi đất nước chứ không riêng gì Việt Nam ta, đó là lĩnh vực
mà mối liên hệ mật thiết và bổ trợ cho sự phát triển của các lĩnh vực khác.
Khoa học- công nghệ mang lại rất nhiều lợi ích trong sự phát triển của đất
nước nó giúp đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đổi mới
công nghệ máy móc cũ thay bằng công nghệ máy móc mới hiện đại ngày
càng giảm sức lao động của con người. Có khoa học – công nghệ năng suất
lao động ngày càng tăng lên, hàng hóa của cải vật chất ngày càng nhiều, đất
nước ngày càng phát triển và có vị thế lớn về kinh tế, nhất là trong quá trình
hội nhập thì việc lợi thế lớn về kinh tế trong khu vực và thế giới là vô cùng
cần thiết cho sự phát triển của đất nước.
Trong quá trình hội nhập hiện nay thì khoa học - công nghệ sẽ làm
cho đất nước ngày càng văn minh hiện đại , đẩy nhanh, mạnh và vững chắc
cho sự phát triển của đất nước. Nâng cao sức cạnh tranh và tiếng nói của đất
nước Việt Nam trên trường khu vực và quốc tế. Chính vì vậy mà khoa học -
công nghệ là một trong lĩnh vực trọng tâm mà Đảng và Nhà nước luôn coi
trọng và tăng cường thúc đẩy phát triển trong thời kì công nghiệp hóa, hiện
đại hóa hiện nãy và cũng là lĩnh vực luôn được chú trọng xuyên xuốt tiến
trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sự phát triển của khoa học công nghệ làm thay đổi căn bản nền tảng
cơ sở và phương thức giao dịch giữa các nước trên thế giới. Nền công nghệ
cơ khí về cơ bản vẫn là một nền công nghệ có tính quốc gia, vì nó luôn phải
lấy thị trường trong nước làm chính. Hiệu năng của nền công nghệ cơ khí
chưa cho phép các quan hệ kinh tế quốc tế có thể phát triển xa hơn xét về
mặt hiệu quả kinh tế.
Chính khoa học-công nghệ sáng tạo ra những ứng dụng rộng rãi cho
nhiều quốc gia, góp phần cho sự đẩy mạnh quá trình toàn cầu hoá. Nhờ có
công nghệ phát triển, sự hợp tác giữa các quốc gia, các tập đoàn có thể mở
rộng từ sản xuất đến phân phối dịch vụ trên phạm vi toàn cầu, những quan
hệ tuỳ thuộc lẫn nhau cùng có lợi phát triển.
- Xu hướng toàn cầu hóa và mở cửa nền kinh tế
Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau về toàn cầu hóa, trong đó có định
nghĩa phản ánh khá chính xác bản chất của toàn cầu hóa đó là “ Toàn cầu
hóa là một quá trình biến các vùng miền, các cộng đồng người khác biệt
nhau từ trạng thái biệt lập, tách rời nhau thành một trạng thái khác về chất,
bằng sự liên kết gắn bó thành một thể thống nhất hữu cơ trên quy mô toàn
cầu. Khi đó, một sự kiện, một hiện tượng, một vấn đề xảy ra ở vùng miền
này, ở cộng đồng người này sẽ có ảnh hưởng, tác động tới các vùng miền,
các cộng đồng khác trên quy mô toàn thế giới”. ( Bùi Thanh Quất, Toàn
cầu hóa – Một cách tiếp cận mới/ Tạp chí cộng sản, 2003 Số 27- tr.11-14 ).
Toàn cầu hóa là một quá trình đa phương diện, bao hàm nhiều nhân tố
như kinh tế, chính trị, pháp luật, khoa học - công nghệ, văn hóa, xã hội.
“Toàn cầu hóa” là một thuật ngữ đòi hỏi phải có cách tiếp cận liên ngành
và đa chiều vì nó có liên quan đến tất cả các hiện tượng xã hội đương đại.
Toàn cầu hóa được tiếp cận từ góc độ kinh tế học, xã hội học, công nghệ
học, môi trường, văn hóa, v.v Đến nay đã có hàng trăm định nghĩa về
toàn cầu hóa được đưa ra từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, thậm chí đối
lập nhau. Nguyên nhân của sự khác nhau hoặc đối lập đó không chỉ do
khác nhau về lợi ích, về lập trường quan điểm mà còn do khác nhau về
cách tiếp cận vấn đề, về mục đích tìm hiểu toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa là kết quả tất yếu từ sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất. Quan niệm được nhiều học giả tán thành nhất. Chúng là
biểu hiện hệ quả của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong
các nền kinh tế riêng biệt, từ đó quá trình này dẫn đến phá vỡ sự biệt lập
của từng quốc gia, tạo ra mối quan hệ gắn kết, tương tác và phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên quy mô toàn cầu trong sự vận động
phát triển.
+ Tác động về kinh tế:
Không ai có thể phủ nhận được rằng toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu
và đang tạo ra những cơ hội cho các nước có nền kinh tế đang phát triển hội
nhập vào nền kinh tế thế giới để trên cơ sở đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
kinh tế và đổi mới công nghệ.
Việt Nam từ khi mở cửa, hội nhập, phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, có nhiều công ty nước ngoài đầu tư, thương mại phát triển
xuyên biên giới,…Đặc biệt là xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam gia nhập các tổ
chức kinh tế thế giới và khu vực như BTA ( hiệp định thương mại song
phương với Mỹ), AFTA ( Khu vực mậu dịch tự do ASEAN), WTO … Đây
là cơ hội mà để ngành kinh tế Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp có điều
kiện phát triển có sức cạnh tranh trên thi trường quốc tế.
Trong những năm gần đây xu hướng hội nhập kinh tế khu vực đã phát triển
mạnh mẽ thu hút ngày càng nhiều nước tham gia, đã có tới hàng trăm khối
xuất hiện. Theo thống kê của WTO, đến tháng 2013 có khoảng 400 Hiệp
định thương mại khu vực được thông báo tới WTO. Tuy có nhiều khối kinh
tế ra đời, nhưng những khối thực sự phát triển theo xu hướng tự do hoá kinh
tế, kiến lập những thể chế kinh tế khu vực lại không có nhiều, dường như chỉ
có 3 khối nổi bật đó là: Liên minh Châu Âu, (EU), khối mậu dịch tự do Bắc