Tải bản đầy đủ (.doc) (174 trang)

Thực trạng bệnh quanh răng và hiệu quả can thiệp trên người bệnh điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone tại thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 174 trang )

0

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRỊNH ĐỨC MẬU

THỰC TRẠNG BỆNH QUANH RĂNG
VÀ HIỆU QUẢ CAN THIỆP TRÊN NGƯỜI BỆNH ĐIỀU
TRỊ THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC
PHIỆN BẰNG METHADONE TẠI THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Vệ sinh xã hội học và Tổ chức Y tế
Mã số: 62720164

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

THÁI NGUYÊN-2019


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRỊNH ĐỨC MẬU

THỰC TRẠNG BỆNH QUANH RĂNG
VÀ HIỆU QUẢ CAN THIỆP TRÊN NGƯỜI BỆNH
ĐIỀU TRỊ THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG
THUỐC PHIỆN BẰNG METHADONE TẠI THÁI


NGUYÊN
Chuyên ngành: Vệ sinh xã hội học và Tổ chức Y tế
Mã số: 62720164

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. GS.TS Trịnh Đình Hải
2. PGS.TS Nguyễn Quý Thái

THÁI NGUYÊN-2019


2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 4 năm 2019
Tác giả
Trịnh Đức Mậu


3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới GS.TS Trịnh Đình Hải, Giám đốc Bệnh
viện Răng hàm mặt Trung ương, Chủ tịch Hội Răng hàm mặt Việt Nam ; PGS.TS Nguyễn
Quý Thái, Trưởng khoa các chuyên khoa, Trưởng bộ môn Da liễu - Trường Đại học Y
Dược Thái Nguyên, Trưởng khoa Da liễu - Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, là những
người Thày đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, làm nghiên

cứu và hoàn thành luận án.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, các Thày cô giáo các bộ môn, Khoa Y tế
công cộng, phòng Đào tạo Sau đại học - Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, đã tận tình
giảng dạy cho tôi những kiến thức quý báu.
Xin trân trọng cảm ơn Ths.BS Vũ Hoài Nam, Giám đốc Trung tâm Y tế, Trưởng cơ
sở điều trị methadone; BSCKI Lê Thị Minh Huệ, phó Giám đốc Trung tâm Y tế, phó
trưởng Cơ sở điều trị methadone Đại Từ. BSCKII Nguyễn Đức Vượng, phó Giám đốc
Trung tâm Y tế, trưởng Cơ sở điều trị methadone Phổ Yên và các anh chị trong hai Trung
tâm đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành quá trình nghiên cứu đề tài luận án.
Xin trân trọng cảm ơn các anh chị em của Trung tâm Nha khoa Quốc tế Việt Đức, đã
giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu luận án.
Xin chân thành cảm ơn sự chia sẻ, giúp đỡ, động viên của toàn thể thành viên trong
gia đình, bạn bè, anh chị em đồng nghiệp đã luôn đồng hành cùng tôi trong suốt thời gian
học tập và hoàn thành luận án.
Xin trân trọng cảm ơn.
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 4 năm 2019
Tác giả
Trịnh Đức Mậu


4
MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng, hộp, biểu đồ, sơ đồ và hình

Đặt vấn đề

1

Chương 1. Tổng quan

3

1.1.

Các chất dạng thuốc phiện

3

1.2.

Thuốc methadone

3

1.3.

Một số khái niệm cơ bản về bệnh quanh răng

5

1.4.

Thực trạng và nghiên cứu can thiệp bệnh quanh răng


10

1.5.

Một số yếu tố liên quan đến bệnh quanh răng

19

1.6.

Một số giải pháp can thiệp bệnh quanh răng tại cộng đồng

27

Chương 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1.

Đối tượng nghiên cứu

32

2.2.

Thời gian và địa điểm nghiên cứu

32

2.3.

Phương pháp nghiên cứu


33

2.4.

Chỉ số nghiên cứu

38

2.5.

Nội dung nghiên cứu mô tả

40

2.6.

Nội dung nghiên cứu can thiệp

40

2.7.

Tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá

48

2.8.

Phương pháp thu thập số liệu


56

2.9.

Vật liệu nghiên cứu

58

2.10.

Phương pháp khống chế sai số

59

2.11.

Phương pháp xử lý số liệu

59


5
2.12.

Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu

60

Chương 3. Kết quả nghiên cứu

3.1.

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến bệnh quanh răng

61

3.1.1.

Thực trạng và một số yếu tố liên quan trong nghiên cứu định lượng

61

3.1.2.

Thực trạng và một số yếu tố liên quan trong nghiên cứu định tính

70

3.2.

Kết quả thực hiện các giải pháp can thiệp

74

3.2.1.

Kết quả thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành

74


3.2.2.

Hiệu quả can thiệp bệnh quanh răng

85

Chương 4. Bàn luận
4.1.

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến bệnh quanh răng

91

4.1.1.

Thực trạng bệnh quanh răng

91

4.1.2.

Yếu tố liên quan đến bệnh quanh răng

99

4.1.3.

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến bệnh quanh răngqua

107


4.2.

nghiên cứu định tính
Kết quả thực hiện các giải pháp can thiệp

109

4.2.1.

Kết quả can thiệp thay đổi đến kiến thức, thái độ, thực hành

110

4.2.2.

Hiệu quả can thiệp bệnh quanh răng

124

4.2.3.

Kết quả can thiệp qua nghiên cứu định tính

128

Kết luận

131


Khuyến nghị

133

Tài liệu tham khảo

134

Phụ lục
Danh sách đối tượng nghiên cứu


6
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AIDS
CI-S
CPI
CPITN

Acquired Immuno Deficiency Syndrome
Calculus Index (chỉ số cao răng)
Community Periodontal Index (tình trạng quanh răng)
Community Periodontal Index of Treatment Needs (nhu cầu điều trị

CSHQ
DI-S
GI
HIV
HQCT
n

OHI-S
SL
TN
VSRM

quanh răng cộng đồng)
Chỉ số hiệu quả
Deberis Index-Simplified (chỉ số mảng bám)
Gingival Index (Chỉ số lợi)
Human Immunodeficiency Virus infection
Hiệu quả can thiệp
Số lượng
Oral Hygiene Simplified (Chỉ số vệ sinh răng miệng đơn giản)
Số lượng
Treatment Needs (nhu cầu điều trị quanh răng)
Vệ sinh răng miệng

DANH MỤC BẢNG
Nội dung
Bảng 3.1.

Đặc điểm chung về người nghiện các chất dạng thuốc phiện

Trang
61


7
Bảng 3.2.


62

Bảng 3.4.

Thói quen hút thuốc ở người nghiện các chất dạng thuốc
phiện
Thực trạng vệ sinh răng miệng (OHI-S) ở người nghiện các
chất dạng thuốc phiện
Tỷ lệ bệnh viêm lợi và viêm quanh răng

Bảng 3.5.

Tình trạng lợi (GI) ở người nghiện các chất dạng thuốc phiện

65

Bảng 3.6.

Phân bố tình trạng lợi (GI) theo độ tuổi

66

Bảng 3.7.

Liên quan giữa độ tuổi với bệnh quanh răng

66

Bảng 3.8.


67

Bảng 3.10.

Liên quan giữa chỉ số vệ sinh răng miệng (OHI-S) với tình
trạng lợi (GI)
Liên quan giữa thời gian uống methadone với tình trạng vệ
sinh răng miệng (OHI-S)
Liên quan giữa giới tính với bệnh quanh răng

Bảng 3.11.

Liên quan giữa thói quen hút thuốc với bệnh quanh răng

68

Bảng 3.12.

Liên quan giữa độ tuổi với bệnh quanh răng tính theo mã số
CPI cao nhất
Liên quan giữa thời gian uống methadone với bệnh quanh
răng tính theo mã số CPI cao nhất
Liên quan giữa nhu cầu điều trị quanh răng cộng đồng
(CPITN) với thời gian uống methadone
Sự thay đổi kiến thức vệ sinh răng miệng sau khi ăn

69

Sự thay đổi kiến thức về cách chải răng đúng cách sau can
thiệp

Sự thay đổi kiến thức về nguyên nhân chảy máu lợi sau can
thiệp
Sự thay đổi kiến thức về biểu hiện của viêm lợi sau can thiệp

74

Sự thay đổi kiến thức về nguyên nhân gây bệnh quanh răng
sau can thiệp
Sự thay đổi kiến thức về biểu hiện viêm quanh răng sau can
thiệp

76

Bảng 3.3.

Bảng 3.9.

Bảng 3.13
Bảng 3.14.
Bảng 3.15.
Bảng 3.16.
Bảng 3.17.
Bảng 3.18.
Bảng 3.19.
Bảng 3.20.

63
64

67

68

69
70
74

75
76

77


8

Bảng 3.21.

Sự thay đổi thái độ về sự cần thiết phải đến bác sĩ khám khi
có bệnh răng miệng sau can thiệp
Sự thay đổi thái độ về sử dụng bàn chải, kem đánh răng sau
can thiệp
Sự thay đổi thái độ sau can thiệp về tình trạng vệ sinh răng
miệng kém là nguyên nhân gây bệnh quanh răng
Sự thay đổi thái độ về đánh răng đúng cách để phòng bệnh
quanh răng sau can thiệp
Sự thay đổi thái độ về khám định kỳ phát hiện, điều trị bệnh
quanh răng sau can thiệp
Sự thay đổi thực hành về thời điểm chăm sóc sức khỏe răng
miệng trong ngày sau can thiệp
Sự thay đổi thực hành sau can thiệp về cách vệ sinh răng
miệng sau ăn

Sự thay đổi thực hành số lần chải răng trong ngày sau can
thiệp
Sự thay đổi thực hành về cách chải răng sau can thiệp

78

84

Bảng 3.32.

Sự thay đổi thực hành thời gian mỗi lần chải răng sau can
thiệp
Hiệu quả can thiệp đến mức độ vệ sinh răng miệng theo chỉ
số OHI-S
Hiệu quả can thiệp đến tỷ lệ bệnh viêm lợi

Bảng 3.33.

Hiệu quả can thiệp đến mức độ viêm lợi theo chỉ số GI

87

Bảng 3.34.

Hiệu quả can thiệp đến tỷ lệ bệnh viêm quanh răng theo CPI

88

Bảng 3.22.
Bảng 3.23.

Bảng 3.24.
Bảng 3.25.
Bảng 3.26.
Bảng 3.27.
Bảng 3.28.
Bảng 3.29.
Bảng 3.30.
Bảng 3.31.

78
79
80
80
81
82
82
83

85
86


9
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH, BIỂU ĐỒ
Nội dung

Trang

Sơ đồ 2.1.


Sơ đồ can thiệp so sánh trước sau có đối chứng

34

Hình 2.1.

Kỹ thuật chải răng theo phương pháp Bass cải tiến

44

Hình 2.2.

Minh họa cây thăm dò quanh răng

49

Hình 2.3.

Minh họa cách chia đoạn lục phân (sextant)

49

Hình 2.4.

Minh họa cây thăm dò quanh răng của WHO

51

Hình 2.5.


Các răng khám đại diện đánh giá chỉ số lợi (GI)

52

Hình 2.6.

Vị trí chọn răng khám đại diện trong chỉ số OHI-S

54

Hình 2.7.

Minh họa cách tính chỉ số mảng bám

54

Biểu đồ 3.1.

Mức độ hút thuốc ở người nghiện các chất dạng thuốc phiện

62

Biểu đồ 3.2.

Mức độ vệ sinh răng miệng (OHI-S) ở người nghiện các chất

63

Biểu đồ 3.3.


dạng thuốc phiện
Tỷ lệ bệnh viêm lợi và viêm quanh răng

64

Biểu đồ 3.4.

Mức độ viêm lợi ở người nghiện các chất dạng thuốc phiện

65


10
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh quanh răng là một trong những bệnh phổ biến nhất, ảnh hưởng đến
khoảng 20-50% dân số toàn cầu. Ở Việt Nam, trên 90% người trưởng thành
mắc viêm lợi và viêm quanh răng [7]. Bệnh quanh răng là bệnh nhiễm khuẩn
mạn tính có liên quan đến sự phá hủy các cấu trúc nâng đỡ răng, bao gồm lợi,
dây chằng quanh răng và xương ổ răng [73]. Bệnh khởi phát do sự tích tụ vi
khuẩn ở sát cổ răng. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh trở thành mạn tính và
chuyển thành viêm quanh răng. Điều trị bệnh quanh răng rất tốn kém, mất từ
5 đến 10% của các nguồn lực chăm sóc sức khỏe [42]. Viêm quanh răng là
một trong những hậu quả gây mất răng, đặc biệt là ở người lớn [31]. Ngày
nay, kiểm soát tốt bệnh viêm quanh răng đang là mối quan tâm hàng đầu của
các bác sĩ răng hàm mặt [29]. Các bệnh về lợi và quanh răng thường xuyên
xảy ra, chúng ta có thể phòng ngừa bằng cách can thiệp dựa vào cộng đồng
[53]. Các can thiệp về giáo dục đã được xác định là những công cụ hiệu quả
về chi phí để cải thiện sức khỏe răng miệng của người dân [45].
Ở Việt Nam nghiên cứu về bệnh quanh răng trên người nghiện ma túy là
rất ít. Nguyễn Thị Thơ (2003) nghiên cứu về bệnh quanh răng trên người

nghiện ma túy cho thấy tỷ lệ bệnh quanh răng là 89,5% [30]. Nhưng nghiên
cứu này chỉ dừng lại ở mô tả thực trạng bệnh quanh răng trên người nghiện
ma túy. Còn đề tài nghiên cứu về bệnh quanh răng và can thiệp nhằm giảm tỷ
lệ bệnh quanh răng cho người nghiện ma túy cho đến nay chưa thấy tác giả
nào công bố.
Thái Nguyên là tỉnh trung tâm của vùng miền núi phía Bắc, tập trung
nhiều nhà máy, xí nghiệp, nhiều trường đại học, khu du lịch Hồ Núi Cốc… có
vị trí thuận lợi cho vận chuyển, buôn bán, sử dụng ma túy. Theo số liệu thống
kê, hiện toàn tỉnh Thái Nguyên có 5329 người nghiện có hồ sơ quản lý, trong


11
đó có 3859 người ở cộng đồng, 1148 người vắng mặt ở địa phương [3].
Trong những năm qua, Thái Nguyên đã thành lập 5 cơ sở điều trị thay thế
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone. Trong các tác dụng
không mong muốn thường gặp của methadone xảy ra trong quá trình điều trị
thay thế, có tác dụng phụ gây khô miệng do giảm tiết nước bọt, kèm theo lối
sống kém vệ sinh của người nghiện lâu ngày, dẫn đến dễ nhiễm trùng răng
miệng, hơi thở hôi [2]. Thái Nguyên cũng chưa nghiên cứu, chưa có giải pháp
cụ thể nào để làm giảm tỷ lệ bệnh quanh răng cho người nghiện các chất dạng
thuốc phiện. Câu hỏi nghiên cứu ở đây là thực trạng bệnh quanh răng và
những giải pháp can thiệp nào phù hợp để tăng cường sức khỏe răng miệng và
giảm tỷ lệ bệnh quanh răng cho người điều trị thay thế nghiện các chất dạng
thuốc phiện tại Thái Nguyên. Do vậy, chúng tôi tiến hành đề tài “Thực trạng
bệnh quanh răng và hiệu quả can thiệp trên người bệnh điều trị thay thế
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone tại Thái Nguyên” với hai
mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng và một số yếu tố liên quan đến bệnh quanh răng trên
người bệnh điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng
methadone tại Thái Nguyên.

2. Đánh giá hiệu quả một số giải pháp can thiệp phòng chống bệnh quanh
răng ở người bệnh điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng
methadone tại huyện Đại Từ, Thái Nguyên.


12
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Các chất dạng thuốc phiện
Các chất dạng thuốc phiện như thuốc phiện, morphin, heroin là những
chất gây nghiện mạnh (gây khoái cảm mạnh) ; thời gian tác dụng nhanh nên
người bệnh nhanh chóng xuất hiện triệu chứng nhiễm độc hệ thần kinh trung
ương ; thời gian bán hủy ngắn do đó phải sử dụng nhiều lần trong ngày và nếu
không sử dụng lại sẽ bị hội chứng cai. Vì vậy, người nghiện các chất dạng
thuốc phiện (đặc biệt là heroin) luôn dao động giữa tình trạng nhiễm độc hệ
thần kinh trung ương và tình trạng thiếu thuốc (hội chứng cai)nhiều lần trong
ngày, là nguồn gốc dẫn họ đến những hành vi nguy hại cho bản thân và những
người khác [1]. Việc điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng
thuốc methadone nhằm 3 mục đích chủ yếu sau :
- Giảm tác hại do nghiện các chất dạng thuốc phiện gây ra như : lây
nhiễm HIV, viêm gan B, C do sử dụng chung dụng cụ do tiêm chích, tử vong
do sử dụng quá liều các chất dạng thuốc phiện và hoạt động tội phạm.
- Giảm sử dụng các chất dạng thuốc phiện bất hợp pháp, giảm tỷ lệ tiêm
chích các chất dạng thuốc phiện.
- Cải thiện sức khỏe và giúp người nghiện duy trì việc làm, ổn định cuộc
sống lâu dài, tăng sức sản xuất của xã hội.
1.2. Thuốc methadone
Methadone là một chất dạng thuốc phiện tổng hợp, có tác dụng dược lý
tương tự như các chất dạng thuốc phiện khác (đồng vận) nhưng không gây
nhiễm độc hệ thần kinh trung ương và không gây khoái cảm ở liều điều trị, có
thời gian bán huỷ dài (trung bình là 24 giờ) nên chỉ cần sử dụng một lần trong

một ngày là đủ để không xuất hiện hội chứng cai. Methadone có độ dung nạp
ổn định nên ít phải tăng liều khi điều trị lâu dài [1], [26]. Jiang H.(2016) điều


13
tra nồng độ methadone trong máu những người tham gia điều trị bằng
methadone, cho thấy methadone ổn định trong máu [72]. Tran B.X.(2018) tìm
hiểu bệnh nhân dùng liệu pháp methadone duy trì có tương quan với việc
giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp. Nếu dùng methadone lâu dài vẫn có hiệu
quả và nên được mở rộng ở khu vực miền núi [113].
* Một số tác dụng không mong muốn thường gặp của methadone xảy ra
trong quá trình điều trị thay thế [2]:
- Ra nhiều mồ hôi: nếu xảy ra ở giai đoạn đầu, cần phân biệt với tăng tiết
mồ hôi của hội chứng cai.
- Táo bón: Là biểu hiện thường gặp nhất, có thể có chán ăn, nôn, buồn
nôn, sút cân.
- Mất ngủ: Trong giai đoạn đầu điều trị cần phân biệt với biểu hiện của
hội chứng cai và hội chứng trầm cảm và các rối loạn tâm thần khác.
- Khô miệng: Bệnh nhân được điều trị bằng methadone thường có tác
dụng phụ khô miệng do giảm tiết nước bọt, kèm theo lối sống kém vệ sinh
của người nghiện lâu ngày, dễ dẫn đến nhiễm trùng răng miệng, thở hôi, biến
đổi màu men răng. Đây cũng chính là một trong các lý do bệnh nhân không
tuân thủ điều trị lâu dài, ngừng, bỏ điều trị. Để giải quyết vấn đề này, trong
quá trình điều trị, thày thuốc cần hướng dẫn bệnh nhân: Giảm uống đường và
đồ ngọt; Vệ sinh răng miệng thường xuyên (đánh răng 2 lần/ngày); Chế độ ăn
hợp lý; Làm tăng tiết nước bọt bằng cách tăng cử động nhai như nhai kẹo cao
su không đường; Khám chuyên khoa răng khi cần thiết.
- Mệt mỏi và buồn ngủ: phải tìm hiểu xác định nguyên nhân như thời
gian uống thuốc, trầm cảm... để có biện pháp xử trí cho phù hợp
- Các tác dụng mong muốn khác như trên hệ thống thần kinh, hệ tiêu hóa,

hệ sinh dục nội tiết...


14
1.3. Một số khái niệm cơ bản về bệnh quanh răng
1.3.1. Giải phẫu và tổ chức học vùng quanh răng
Vùng quanh răng là vùng nâng đỡ răng, bao gồm lợi, dây chằng quanh
răng, xương răng và xương ổ răng. Tổ chức quanh răng được cấu tạo bởi
thành phần giải phẫu cơ bản là loại mô mềm (lợi và dây chằng quanh răng) và
loại mô cứng (xương răng và xương ổ răng) [7].
1.3.2. Khái niệm về bệnh quanh răng
Bệnh quanh răng là một bệnh lý rất hay gặp, là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến mất răng, ảnh hưởng đến sức nhai và thẩm mỹ của con người. Bệnh
quanh răng thường tấn công vào mô nâng đỡ của răng, bệnh có hai dạng chính
là viêm lợi và viêm quanh răng. Bệnh quanh răng là kết quả của sự mất cân
bằng giữa vi trùng gây bệnh, khả năng đề kháng tại chỗ và toàn thân của cơ
thể [28].
Phân loại bệnh quanh răng: Việc phân loại bệnh có ý nghĩa quan trọng
trong việc chẩn đoán, tiên lượng và xây dựng kế hoạch điều trị. Có nhiều cách
phân loại khác nhau về bệnh quanh răng. Ở đây giới thiệu Phân loại bệnh
quanh răng theo Hội nghị Quốc tế năm 1999 [7]: Các bệnh lợi; Viêm quanh
răng mạn; Viêm quanh răng phá hủy; Viêm quanh răng là biểu lộ của các bệnh
toàn thân; Các bệnh quanh răng hoại tử; Các áp xe vùng quanh răng; Viêm
quanh răng do các tổn thương nội nha; Các biến dạng và tình trạng mắc phải
hay trong quá trình phát triển.
Theo xu hướng chung và các quan điểm hiện đại, người ta chia bệnh
quanh răng ra làm hai loại chính là các bệnh của lợi và các bệnh của cấu trúc
chống đỡ răng như sau:
- Các bệnh lợi bao gồm các bệnh mà chỉ có tổn thương ở lợi.
- Các bệnh của cấu trúc chống đỡ răng bao gồm các bệnh liên quan tới cấu

trúc chống đỡ răng như dây chằng quanh răng, xương ổ răng và xương răng.


15
1.3.3. Khái niệm về viêm lợi
Viêm lợi là tổn thương các tổ chức phần mềm xung quanh răng, thường
thấy ở dạng mạn tính. Viêm lợi xuất hiện sớm, chỉ sau 7 ngày có mảng bám vi
khuẩn bám vào tổ chức mềm quanh răng. Viêm có thể gây phá hủy dây chằng
hay xương ổ răng tạo thành bệnh viêm quanh răng. Viêm lợi có dạng gây tụt
lợi tùy vào tính chất của viêm và tình trạng sức khỏe của con người. Loại bỏ
được nguyên nhân gây bệnh, viêm lợi có thể phục hồi [28]. Viêm lợi khi tổn
thương mô cứng và mô mềm không thể phục hồi, nếu không điều trị có thể
dẫn đến mất răng [61].
Bệnh viêm lợi được phân làm nhiều loại : Viêm lợi do mảng bám, do
các yếu tố toàn thân (nội tiết, ung thư máu), do dùng thuốc, do suy dinh
dưỡng, do vi khuẩn đặc hiệu, do nấm, do sang chấn…Ngoài ra, có những
trường hợp dị ứng kết hợp với những thay đổi ở lợi, nhưng ít gặp, thường dị
ứng với các chất như kem chải răng, thuốc súc miệng, thực phẩm, kẹo cao su,
vật liệu trám răng [6].
1.3.4. Khái niệm về viêm quanh răng
Viêm quanh răng là tình trạng viêm tổ chức quanh răng. Giai đoạn đầu
gọi là viêm lợi với biểu hiện lợi sưng, đỏ và có thể chảy máu. Trường hợp
nặng hơn gọi là viêm quanh răng với biểu hiện tụt lợi, tiêu xương, răng lung
lay hoặc rụng. Viêm quanh răng là một vấn đề sức khỏe phổ biến, bởi sự hình
thành của màng sinh học vi khuẩn gây ra viêm, dẫn đến viêm lợi [61]. Là
bệnh viêm nhiễm mô nâng đỡ răng do vi khuẩn đặc hiệu gây ra, dẫn tới phá
hủy dây chằng quanh răng, xương ổ răng với sự thành lập túi quanh răng, tụt
lợi hoặc cả hai. Đặc tính lâm sàng để phân biệt viêm lợi và viêm quanh răng
là sự mất bám dính quanh răng. Thường mất bám dính đi kèm với sự xuất
hiện túi quanh răng và thay đổi về mật độ và chiều cao xương ổ răng. Một số

trường hợp tụt lợi có thể kết hợp với mất bám dính. Dấu hiệu lâm sàng của


16
viêm quanh răng gồm có sự thay đổi về màu sắc, đường viền, độ chắc của lợi,
chảy máu lợi khi thăm khám, đo độ sâu túi quanh răng, đây là chỉ dấu tin cậy
của hiện tượng viêm quanh răng [6]. Viêm quanh răng khởi đầu từ một mảng
bám sinh học vi khuẩn được gọi là mảng bám răng. Nguyên nhân gây viêm
quanh răng là do sự tích tụ vi khuẩn trong mảng bám răng [22]. Theo Coretti
L. (2017), viêm quanh răng là bệnh viêm do nhiễm khuẩn phổ biến nhất, kết
quả là thoái hóa mô liên kết và dần mất răng. Nó biểu hiện với sự hình thành
túi quanh răng, nghiên cứu của tác giả này khẳng định viêm quanh răng mạn
tính là bệnh nhiễm khuẩn [52]. Sự hình thành quá mức màng sinh học do các
loài vi khuẩn được nuôi dưỡng trong khoang miệng, kết hợp với một đáp ứng
miễn dịch gây viêm lợi và viêm quanh răng [78].
1.3.5. Các chỉ số thường dùng trong nghiên cứu bệnh quanh răng [114]
- Chỉ số vệ sinh răng miệng đơn giản OHI-S (Oral Hygiene Index –
Simplified) theo Green và Vermillion - 1960, 1975.
- Chỉ số lợi GI (Gingival Index) theo Loe và Silness - 1964
- Chỉ số nhu cầu điều trị quanh răng cộng đồng CPITN (Community
Periodontal Index of Treatment Needs) theo Ainamo - 1982
- Chỉ số mất bám dính quanh răng (Loss of Attachment).
1.3.6. Cơ sở khoa học cho việc phòng bệnh quanh răng
Tỷ lệ mắc bệnh quanh răng cao ở các lứa tuổi làm cho bệnh quanh răng
trở thành mối quan tâm về sức khỏe cộng đồng. Một số yếu tố nguy cơ như vệ
sinh răng miệng kém, hút thuốc, tuổi, đái tháo đường, thuốc điều trị bệnh…
có liên quan đến bệnh quanh răng. Các chiến lược phòng chống dịch bệnh
bằng miệng được kết hợp trong các sáng kiến phòng bệnh mạn tính, để giảm
bớt gánh nặng bệnh tật trong quần thể. Việc giảm tỷ lệ mắc bệnh quanh răng
có thể làm giảm các bệnh hệ thống liên quan và giảm thiểu tác động tài chính

lên các hệ thống chăm sóc sức khỏe [91].


17
Bệnh quanh răng là quá trình viêm xảy ra trong các mô quanh răng để
đáp ứng với sự tích tụ của vi khuẩn hoặc mảng bám trên răng [75]. Nguyên
nhân chính gây bệnh quanh răng là mảng bám răng và cao răng, do sự tích tụ
của vi khuẩn dính chặt vào bề mặt răng [6], [17]. Việc nhận biết chi tiết các
loài vi khuẩn ở mảng bám răng rất khó, vì hệ vi khuẩn ở vùng quanh răng là
một hệ phức tạp, nhiều loài cho đến nay vẫn khó hoặc không thể phân lập ở
phòng thí nghiệm [7].
Có nhiều yếu tố gây bệnh quanh răng:
- Yếu tố bên ngoài: Mảng bám, cao răng, vi khuẩn kỵ khí gram âm và
xoắn khuẩn (gây tổn thương lợi và quanh răng). Chấn thương, lệch lạc khớp
cắn, răng mọc lệch…làm cho tình trạng viêm tiến triển nặng thêm [20].
- Yếu tố bên trong: Suy dinh dưỡng, thiếu vitamin (đặc biệt là vitamin
C); thay đổi nội tiết tố ở tuổi dạy thì, thai nghén, cho con bú, có các bệnh toàn
thân như bệnh nội tiết, bệnh máu, sức đề kháng yếu [6], [36].
1.3.6.1. Mảng bám răng
Mảng bám răng là mảng bám vi khuẩn được mô tả là sự tập hợp vi khuẩn
bám chặt vào răng và những bề mặt khác trong miệng [6].
Mảng bám răng là một màng sinh học hình thành trên bề mặt của răng có
trong khoang miệng. Mảng bám răng được coi là một trong những yếu tố gây
bệnh viêm lợi và viêm quanh răng. Kiểm soát mảng bám răng hiệu quả là điều
cần thiết để duy trì, bảo vệ sức khỏe răng miệng và lợi được tốt [67].
Mảng bám răng phân làm 2 loại tùy theo vị trí:
- Mảng bám trên lợi: Là sự tập hợp vi khuẩn trên bề mặt răng, chúng có
thể trải dài đến khe lợi để tiếp xúc với viền lợi.
- Mảng bám dưới lợi: Là sự tập hợp vi khuẩn trong khe lợi hay trong túi
quanh răng. Mảng bám dưới lợi dày đặc vi khuẩn, chúng sắp xếp thành lớp tại

vùng mảng bám kết dính với bề mặt răng và sắp xếp một cách lỏng lẻo hơn ở


18
vùng mô liên kết. Một vài vi khuẩn dính với lớp biểu mô của túi quanh răng,
vì thế chúng không bị trôi đi dưới sự chảy rửa của dịch lợi [6].
Thành phần của mảng bám răng chủ yếu là vi khuẩn. Có khoảng 300 loài
vi khuẩn được tìm thấy ở mảng bám răng. Mảng bám răng còn có các tế bào
biểu mô, đại thực bào, bạch cầu [7]. Mảng bám răng là một yếu tố được công
nhận rộng rãi trong sự khởi đầu và tiến triển của một loạt các bệnh về miệng
[107]. Mảng bám răng gây hại theo hai cơ chế [17]:
- Cơ chế tác động trực tiếp: Các vi khuẩn sinh ra các enzym làm mềm
yếu sợi keo gây tiêu collagen, fibronectin và các globulin miễn dịch, phân hủy
tế bào làm bong rách biểu mô dính dẫn đến viêm. Nội độc tố gây tiết
prostaglandine làm tiêu xương.
- Cơ chế tác động gián tiếp: Vi khuẩn và chất gian khuẩn đóng vai trò
kháng nguyên, gây bệnh bằng cơ chế miễn dịch tại chỗ. Các vi khuẩn có thể
phá hủy tổ chức thông qua việc kích thích cơ thể sản xuất ra chất tiêu tổ chức
như protease, elastease và metalloprotese.
1.3.6.2. Cao răng
Về bản chất, cao răng được khoáng hóa từ mảng bám. Cao răng bám rất
chặt và được bồi đắp liên tục theo thời gian. Hầu hết cao răng trên lâm sàng là
kết quả của sự lắng đọng can xi và phosphat của mảng bám vi khuẩn [6]. Cao
răng bám vào răng và chân răng, dẫn đến tình trạng lợi mất chỗ bám dính, gây
tụt lợi. Vi khuẩn trên bề mặt cao răng đi vào lợi, rãnh lợi gây ra phản ứng
viêm [13]. Cao răng gây bệnh chủ yếu là tạo diện bám dính mới cho vi khuẩn
bám vào và hoạt động, tạo mảng bám răng, là yếu tố kích thích tại chỗ vùng
quanh răng [80]. Cao răng nằm trong túi lợi, bám rất chắc vào răng. Cao răng
thường xuất hiện ở những răng cạnh lỗ tuyến nước bọt như mặt ngoài răng 6,
7 hàm trên, mặt trong răng cửa dưới và răng 6 dưới [7].

Phân loại cao răng: 2 loại [6].


19
- Cao răng trên lợi: là những chất lắng đọng được khoáng hóa thành lập
trên bề mặt thân răng, phía trên đường viền lợi, lúc mới thường có màu trắng.
- Cao răng dưới lợi: là những chất lắng đọng bị khoáng hóa, thành lập
trên bề mặt chân răng, dưới đường viền lợi và kéo dài vào túi quanh răng,
thường từ mầu nâu sậm đến màu xanh đen và cứng hơn cao răng trên lợi.
1.3.6.3. Nước bọt
Nước bọt có vai trò bảo vệ lợi khỏi vi khuẩn, ổn định pH môi trường
miệng, pha loãng và loại bỏ những chất sinh ra từ acid hoặc kiềm. Sự chênh
lệch pH của nước bọt có ảnh hưởng đến việc thành lập mảng bám và tính toàn
vẹn của men răng. Nước bọt có đặc tính kháng khuẩn nhờ có kháng thể như
IgAs, những yếu tố bảo vệ sẵn có như : lactoferrin, lysozym..., các tế bào
bạch cầu đa nhân trung tính. Nước bọt có protein giúp chắc răng và hạn chế vi
khuẩn, làm giảm nguy cơ sâu răng và bệnh về lợi. Nước bọt còn góp phần vào
hiện tượng đông máu trong khoang miệng nhờ có thromboplastin [6].
Nước bọt chống hôi miệng nhờ kiểm soát được vi khuẩn. Khi vì một lý
do nào đó, thiếu nước bọt sẽ gây khô miệng, tạo điều kiện cho vi khuẩn, vi
trùng phát triển gây hôi miệng. Những hợp chất gây hôi miệng trong bệnh
quanh răng là kết quả của quá trình phân hủy protein, peptid và mucin trong
nước bọt, máu, dịch lợi, tế bào biểu mô và thức ăn còn dính lại trên bề mặt
răng miệng. Gọi là khô miệng khi nước bọt giảm 50% so với bình thường,
gây mất hoạt động kháng khuẩn của nước bọt, tạo ra nhiều mảng bám trên
răng và lưỡi [14].
1.4. Thực trạng và nghiên cứu can thiệp bệnh quanh răng
1.4.1. Thực trạng bệnh quanh răng trên thế giới
Tại Ấn Độ: Soumya S.G. (2017) đánh giá tình trạng sức khỏe răng miệng
của trẻ em 5-15 tuổi cho thấy 81,7% đạt vệ sinh răng miệng về lâm sàng. Ở

trường tư thục 82,2% vệ sinh răng miệng tốt, 17,2% mức độ trung bình, 0,7%


20
mức độ kém. Ở trường công (Chính phủ) 80,9% vệ sinh răng miệng tốt,
18,3% mức độ trung bình, 0,8% mức độ kém [106]. Chandra (2016) cho thấy
95% dân số mắc bệnh quanh răng. Chỉ có 50% sử dụng bàn chải đánh răng;
2% đi khám nha sĩ. Do vậy, cần thiết phải có sự quan tâm đến nhu cầu cấp
thiết về các giải pháp tăng cường hoạt động chăm sóc sức khỏe răng miệng,
ngăn ngừa bệnh quanh răng [48].
Tại Thái Lan: Goel R. (2015) cho biết vệ sinh răng miệng kém có thể
dẫn đến viêm quanh răng, viêm lợi. Khoảng 70% trẻ em 12 tuổi và 63% trẻ 15
tuổi bị chảy máu lợi [57]. Baelum V. (2003) khám lâm sàng mảng bám răng
và chảy máu răng cho 359 người ở Thái Lan. Kết quả: 84% ở nhóm 30-39
tuổi và 93% ở nhóm 50-59 tuổi bị bệnh răng miệng [40].
Tại Thụy Sĩ: Murray T.R. (2014) cho biết khoảng 8% dân số mắc bệnh
quanh răng ở mức bệnh tiến triển nhanh, 81% mức trung bình, 11% không
mắc bệnh quanh răng. Khoảng 15-30% mắc bệnh viêm lợi, tỷ lệ mắc hầu hết
ở nhóm người trưởng [92].
Tại Jordan: Rajab L.D. (2014) khảo sát 2496 trẻ em 6 tuổi và 2560 trẻ
em 12 tuổi. Kết quả 17,7% trẻ 6 tuổi và 49,1% trẻ 12 tuổi bị chảy máu lợi. Có
sự khác biệt về sức khỏe của lợi theo giới tính, vị trí, vùng địa lý và nhóm
kinh tế xã hội. Do vậy cần tăng cường chương trình chăm sóc sức khỏe răng
miệng [100].
Tại Châu Âu: König J. (2010) cho biết sức khỏe răng miệng ở Tây Ban
Nha, Thuỵ Điển và Thụy Sĩ là tốt nhất trong số các nước Châu Âu. Trái ngược
với Đức, nơi có sự gia tăng tổn thương răng, tỷ lệ độ sâu thăm dò
(Community Periodontal Index) ≥3 hoặc 4mm, tỷ lệ tổn thương khớp nối lâm
sàng ≥4mm cao nhất [77].
Tại Cộng hòa Liên bang Đức: Holtfreter B. (2009) nghiên cứu bệnh

quanh răng trên 4310 người từ 20 đến 81 tuổi. Kết quả tỷ lệ bệnh quanh răng


21
là 89,7%; 62,8% tổn thương viêm quanh răng mức độ nhẹ; 29,6% mức độ
trung bình; 25,3% mức độ nặng. Viêm quanh răng tăng theo tuổi [65].
1.4.2. Nghiên cứu can thiệp bệnh quanh răng trên thế giới
Tại Nhật Bản: Omori S. (2018) can thiệp dự phòng bệnh quanh răng
bằng giải pháp tập thể dục, để cải thiện tình trạng bệnh viêm quanh răng, trên
đối tượng là 71 người đàn ông trưởng thành, mắc béo phì, thời gian can thiệp
trong 12 tuần. Kết quả thu được ở nhóm số lượng răng có độ sâu túi thăm dò
(PPD) ≥4mm giảm từ 14,4% xuống 5,6% (p<0,001). Số lượng răng có chảy
máu khi thăm dò (BOP) giảm từ 39,8% xuống 14,4% (p<0,001) [96].
Tại Iran: Mahdia G. (2017), can thiệp trên 543 người trưởng thành từ
18 đến 50 tuổi, bằng truyền thông trên truyền hình về kiến thức sức khỏe răng
miệng và bệnh quanh răng. Sau ba tháng theo dõi, tiến hành phỏng vấn 294
người, đánh giá điểm số kiến thức quanh răng của mỗi người tham gia bằng
bảng câu hỏi in sẵn thống nhất bao gồm tuổi, trình độ học vấn, tình trạng hôn
nhân, nghề nghiệp và tình trạng kinh tế. Kết quả: điểm trung bình cải thiện
kiến thức sau can thiệp cao hơn trước can thiệp (0,61) so với những người
không tham gia can thiệp (0,29), với p<0,05. Mức cải thiện cao nhất (27,3%)
và thấp nhất (15,6%) trong các câu trả lời đúng liên quan đến dấu hiệu sớm
của bệnh lợi và định nghĩa mảng bám răng [87].
Tại Thái Lan: Petersen P.E. (2015) can thiệp 2 năm ở 15 trường học với
3706 trẻ; trong đó 8 trường với 1766 trẻ là nhóm đối chứng; 7 trường với
1940 trẻ ở nhóm can thiệp giáo dục nha khoa, súc miệng với fluor, kết hợp
chải răng có giám sát, sử dụng kem đánh răng có chứa 1450 ppm fluor và
1,5% arginine. Kết quả: sâu mất trám và sâu mất trám “men răng và ngà răng”
là 1,19 và 1,91 cho các nhóm đối chứng; 1,04 và 1,59 cho nhóm can thiệp.
Các nhóm này giảm 12,6% và 16,8% tương ứng. Sâu mất trám và sâu mất

trám "ngưỡng ngà răng" là 0,26 và 0,44 cho nhóm đối chứng; 0,19 và 0,29


22
cho nhóm can thiệp, chiếm 26,9%, và 34,1% giảm tỷ lệ sâu răng tương ứng.
Sau 24 tháng kiểm tra lại, có những thay đổi đáng kể về chỉ số mảng bám
răng, đặc biệt trong nhóm can thiệp [97].
Tại Vương quốc Anh: Cooper A.M. (2013), can thiệp đánh giá hiệu quả
lâm sàng nhằm thay đổi hành vi liên quan đến thói quen đánh răng, tần suất
tiêu thụ thực phẩm, đồ uống ở 2302 trẻ em 4-12 tuổi. Kết luận: Có bằng
chứng về hiệu quả của các giải pháp can thiệp dựa trên kết quả mảng bám và
sự đạt được về kiến thức sức khỏe răng miệng [51].
Tại Nepal: Knevel R.J. (2010) can thiệp bằng mô hình đào tạo cho 141
phụ nữ là các phụ huynh học sinh ở vùng cao, miền núi về kiến thức chăm sóc
răng miệng. Sau đó các bà mẹ tổ chức các hoạt động chăm sóc và dự phòng
răng miệng cho học sinh như truyền thông hướng dẫn vệ sinh răng miệng cho
các phụ huynh khác trong cộng đồng. Trong 3 năm nhóm nòng cốt này đã mở
rộng cho 2100 phụ nữ khác, hơn 4000 học sinh ở các trường tiểu học được
tham dự chương trình này. Kết quả đã nâng được kiến thức, sự hiểu biết cho
phụ nữ và học sinh trung bình từ 35,6% lên 51,7%. Điều này đã góp phần
nâng cao và cải thiện kỹ năng thực hành chăm sóc răng miệng cho học sinh ở
các trường tiểu học, đồng thời tại gia đình thì phụ huynh là thành phần chính
để hướng dẫn học sinh chải răng hàng ngày [76].
Các mô hình can thiệp trên đối tượng là người lớn, phụ nữ là phụ huynh
học sinh và học sinh ở các trường học. Sử dụng biện pháp truyền thông nâng
cao kiến thức, thay đổi hành vi chăm sóc sức khỏe răng miệng, tăng cường
thực hành vệ sinh răng miệng bằng đánh răng thường xuyên. Chưa thấy
nghiên cứu nào can thiệp bệnh quanh răng cho người nghiện ma túy.
1.4.3. Thực trạng bệnh quanh răng tại Việt Nam
Tại Yên Bái: Nguyễn Ngọc Nghĩa (2014) nghiên cứu 1.370 học sinh

người dân tộc Mông nhận thấy: 71,4% mắc bệnh răng miệng, 50,1% viêm lợi.


23
Tỷ lệ viêm lợi tăng dần theo tuổi (7 tuổi là 48,1%; 11 tuổi là 54,3%); 13,1% bị
chảy máu lợi, 52,1% có cao răng (mảng bám răng) [19]. Đào Thị Ngọc Lan
(2003) điều tra 1.389 học sinh thuộc 6 dân tộc khác nhau, từ 6 đến 15 tuổi.
Kết quả: 63,64% mắc bệnh quanh răng, cao nhất ở người Dao và người
H'Mông, trong đó CPI 1 là 5,76%, CPI 2 là 57,88%. Tỷ lệ CPITN 2 tăng dần
theo tuổi và có sự khác nhau rõ rệt giữa các nhóm tuổi (p<0,05). Có mối liên
quan giữa chăm sóc răng miệng kém với bệnh quanh răng (p<0,05) [13].
Tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương: Nguyễn Xuân Thực (2011) nghiên
cứu thực trạng bệnh quanh răng trên 625 bệnh nhân đái tháo đường typ 2. Kết
quả 100% viêm lợi. Trong đó: 7,4% viêm lợi nhẹ, 63,2% viêm lợi trung bình
và 29,4% viêm lợi nặng. Tỷ lệ viêm lợi (CPI2) là 24%, viêm lợi có túi bệnh lý
(CPI3 và CPI 4) là 76%, túi lợi sâu (CPI4) là 25,8% [33].
Tại Viện Răng hàm mặt Trung ương: Nguyễn Thị Hồng Minh (2010)
nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng viêm quanh răng mạn tính, cho thấy độ sâu
túi quanh răng trung bình ở nhóm viêm quanh răng mức độ nặng là
4,96±0,87mm, mức độ vừa 3,37±0,51mm. Các triệu chứng lâm sàng như tình
trạng và hình thái tiêu xương ổ răng, tình trạng chảy máu lợi, viêm lợi và tích
tụ mảng bám răng, số răng bị lung lay, số răng mất tăng theo mức độ viêm
quanh răng (p<0,05) [17].
Tại Hải Dương: Trịnh Đình Hải (2000) nghiên cứu trên 760 học sinh
(380 em 12 tuổi và 380 em 15 tuổi), kết quả cho thấy 95% bị viêm lợi; 42,1%
trẻ 12 tuổi có cao răng; 65,95% trẻ 15 tuổi có cao răng [8].
1.4.4. Nghiên cứu can thiệp bệnh quanh răng tại Việt Nam
Tại Đăk Lăk: Lê Nguyễn Bá Thụ (2017) đánh giá hiệu quả can thiệp
chăm sóc răng miệng và bệnh quanh răng cho người cao tuổi, bằng cách
truyền thông giáo dục sức khỏe theo mô hình giải pháp dự phòng răng miệng

của Tổ chức Y tế thế giới như: truyền thông kiến thức về chăm sóc sức khỏe


24
răng miệng, chải răng có giám sát, treo tranh ảnh có nội dung vệ sinh răng
miệng tại trạm y tế, tập huấn nâng cao kiến thức chuyên môn cho cán bộ y tế
tại trạm y tế phường kết hợp điều trị bệnh sâu răng, bệnh quanh răng, lấy cao
răng trong 12 tháng. Kết quả sau can thiệp: tỷ lệ sâu răng từ 32,9% giảm
xuống còn 21,4%; Tỷ lệ người có mô quanh răng lành mạnh tăng 61,4% [32].
Ở nghiên cứu này, tác giả đã tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến bệnh quanh
răng, giải pháp can thiệp sử dụng trong nghiên cứu có sự kết hợp truyền thông
giáo dục sức khỏe với can thiệp lâm sàng điều trị sâu răng, bệnh quanh răng
như trám răng, lấy cao răng. Tuy nhiên, nghiên cứu tiến hành trên đối tượng
người cao tuổi, có sự lão hóa về tổ chức tự nhiên, do vậy cũng phần nào ảnh
hưởng đến hiệu quả can thiệp.
Tại Thừa Thiên Huế: Trần Tấn Tài (2016) đã đánh giá hiệu quả của giải
pháp can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức khỏe răng miệng, hướng dẫn
chải răng đúng cách, sử dụng fluor, tư vấn hạn chế sử dụng đường (đặc biệt là
bánh, kẹo) thông qua tuyên truyền tranh ảnh treo tại sân trường, phát băng
video, tờ rơi kết hợp với tập huấn kiến thức về sức khỏe răng miệng cho thày
giáo, cô giáo, truyền thông cho cha mẹ học sinh… trong 2 năm tại một số
trường tiểu học ở Thành phố Huế và huyện miền núi Nam Đông. Hiệu quả
can thiệp với viêm lợi đạt 161%; mảng bám răng đạt 90,1%, với mảng bám
răng đạt 71,8%; cao răng đạt 39,7%; viêm lợi đạt 27,6% [24]. Trong nghiên
cứu này, do đối tượng là các em học sinh, nên tác giả huy động tối đa nguồn
lực của cộng đồng tham gia vào thực hiện các giải pháp can thiệp như nhà
trường, giáo viên, bố mẹ học sinh. Sử dụng kết hợp nhiều giải pháp can thiệp
cộng đồng. Tuy nhiên hạn chế của nghiên cứu này là các trường hợp bệnh
mắc mới phát sinh rất khó phát hiện. Khi phỏng vấn về kiến thức, thực hành
thì đối tượng phỏng vấn có thể cố tình trả lời không đúng.



×