Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Việc tham gia tố tụng dân sự của viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn thực hiện tại viện kiểm sát nhân dân huyện hữu lũng, tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.25 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

MÃ LAN HƢƠNG

VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

MÃ LAN HƢƠNG

VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN



Chuyên ngành :

Luật dân sự và Tố tụng dân sự

Mã số

838103

:

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS Trần Anh Tuấn

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kì công trình
nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, đƣợc
trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Mã Lan Hƣơng



LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành Luận văn này, bên cạnh sự nỗ
lực của bản thân, tôi đã nhận đƣợc rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hƣớng dẫn
của các thầy cô giáo, gia đình, lãnh đạo cơ quan và đồng nghiệp
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Trần Anh Tuấn - Giảng viên tổ bộ
môn Luật Tố tụng dân sự - Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, ngƣời đã trực tiếp
hƣớng dẫn và tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, toàn thể
các quý thầy cô, cán bộ Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Phát luật Dân
sự và Tố tụng dân sự và cán bộ Thƣ viện trong trƣờng Đại học Luật Hà Nội đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành Luận văn Thạc sĩ.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng chấm
Luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn thiện Luận văn này.
Hà Nội, ngày 27 tháng 12 năm 2018
Tác giả

Mã Lan Hƣơng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

BLDS

Bộ luật dân sự


CNSTT

Công nhận sự thỏa thuận

KSV

Kiểm sát viên

KSVTTPL

Kiểm sát việc tuân theo pháp luật

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

Tố tụng dân sự

TTLT

Thông tƣ liên tịch

VKS


Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
Trang bìa phụ

i

Lời cam đoan và Lời cảm ơn

ii

Danh mục từ viêt tắt

iii

MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆC THAM GIA 7

CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và cơ sở về việc tham gia tố 7
tụng của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm về việc tham gia của Viện kiểm sát cấp huyện 7
trong tố tụng dân sự
1.1.2. Đặc điểm việc tham gia của Viện kiểm sát cấp huyện trong tố 9
tụng dân sự
1.1.3. Ý nghĩa về việc tham gia của Viện kiểm sát cấp huyện trong 11
tố tụng dân sự
1.1.4. Cơ sở của việc xây dựng quy định về việc tham gia của Viện 11
kiểm sát trong tố tụng dân sự
1.2. Các quy định về việc tham gia của Viện kiểm sát nhân dân 16
cấp huyện trong tố tụng dân sự
1.2.1. Quy định về kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu 16
giải quyết việc dân sự
1.2.2. Quy định về kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự

19


1.2.3. Quy định về kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án

22

1.2.4. Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện tham gia phiên tòa, phiên 32
họp dân sự sơ thẩm
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

42


CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ 43
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH
LẠNG SƠN VÀ KIẾN NGHỊ
2.1. Thực tiễn tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân 43
dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
2.1.1. Thực tiễn kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự của Viện kiểm 44
sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
2.1.2. Thực tiễn kiểm sát của VKS huyện Hữu Lũng đối với bản án, 51
quyết định dân sự của Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
2.1.3. Thực tiễn tham gia phiên tòa, phiên họp của Viện kiểm sát 59
nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
2.2. Những tồn tại, hạn chế và vƣớng mắc, bất cập trong thực tiễn 64
tham gia tố tụng dân sự
2.3. Một số kiến nghị từ thực tiễn tham gia tố tụng dân sự của 66
Viện kiểm sát huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
2.3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sự tham gia tố tụng dân sự 66
của VKS cấp huyện từ thực tiễn tại VKS huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
2.3.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về việc tham gia tố tụng của Viện 72
kiểm sát nhân dân cấp huyện từ thực tiễn tại VKSND huyện Hữu Lũng,
tỉnh Lạng Sơn


KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

75

KẾT LUẬN CHUNG

76


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

77


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tƣ pháp của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trải qua lịch sử xây
dựng và phát triển, Viện kiểm sát nhân dân đã khẳng định vai trò của mình là cơ
quan bảo vệ pháp luật quan trọng của quốc gia, trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của
nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời. Xét về thực tế thì sự
tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự cũng hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng pháp luật có quan điểm cho rằng, trong tố tụng
dân sự không cần có sự tham gia can thiệp của Viện kiểm sát nhân dân bởi lẽ việc
dân sự là cốt ở đôi bên, họ có quyền tự thỏa thuận, định đoạt theo ý chí của mình, và
Tòa án giữ vai trò trọng tài để giải quyết các tranh chấp trên cơ sở thỏa thuận giữa
các bên hoặc dựa vào chứng cứ. Theo quan điểm này, nếu quy định cho Viện kiểm
sát tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm dân sự chỉ để nhận định xem Tòa án chấp
hành đúng hay chƣa đúng thủ tục tố tụng thì không có nhiều ý nghĩa. Đƣơng sự đã có
đầy đủ quyền đƣợc yêu cầu luật sƣ, trợ giúp pháp lý, thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng,
kháng cáo, khiếu nại với bản án, quyết định… nên không cần sự giám sát, hỗ trợ của
Viện kiểm sát. Theo xu hƣớng này, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đã thu hẹp hơn
phạm vi tham gia của của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, chƣa tạo điều kiện
cho Viện kiểm sát thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định
của Hiến pháp và Luật Tổ chức viện kiểm sát, đặc biệt là hạn chế phạm vi tham gia
phiên tòa của Viện kiểm sát đối với vụ án dân sự...Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 ra đời đã phần nào khắc phục và bổ sung quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự nhƣng khi đƣa

vào thi hành thực tiễn vẫn còn tồn tại bất cập. Trong công cuộc hội nhập kinh tế
quốc tế, để khắc phục những hạn chế, bất cập của Bộ luật Tố tụng dân sự trƣớc đây,
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đƣợc thông qua ngày 25/11/2015 đánh dấu bƣớc
phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam với những điểm mới đáng chú ý về
vai trò của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.


2
Qua gần hai năm thực hiện BLTTDS năm 2015, công tác kiểm sát án dân sự
theo quy định của Bộ luật đã từng bƣớc đi vào ổn định, là căn cứ pháp lý cơ bản để
Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, qua đó, Viện kiểm sát
đã kiến nghị Tòa án nhân dân khắc phục nhiều vi phạm pháp luật, ban hành nhiều
kháng nghị góp phần nâng cao chất lƣợng giải quyết án của ngành Tòa án. Tuy
nhiên, việc thực thi các quy định về việc tham gia của Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện trong tố tụng dân sự cũng cho thấy vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế và vƣớng
mắc, bất cập.
Huyện Hữu Lũng là một huyện với địa bàn rộng, có dân cƣ đông lại trong quá
trình đô thị hóa nhanh, kinh tế phát triển năng động và đa dạng nên bên cạnh những
thuận lợi để phát triển kinh tế, các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế,
lao động đang ngày càng có chiều hƣớng gia tăng, đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên,
về mặt bằng chung trình độ dân trí ở đây còn tƣơng đối thấp, nhận thức và hiểu biết
pháp luật của ngƣời dân còn hạn chế nên chƣa có khả năng tự chứng minh để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chƣa có điều kiện mời luật sƣ tham gia bảo
vệ. Thực tiễn kiểm sát án dân sự tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh
Lạng Sơn cho thấy những sai sót, vi phạm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự
vẫn còn tồn tại, có nhiều vụ việc giải quyết chƣa bảo đảm tính khách quan, giải
quyết kéo dài, gây bức xúc cho đƣơng sự dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông ngƣời
làm mất ổn định trật tự xã hội.
Việc nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật về việc tham gia của
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong tố tụng dân sự nhằm làm rõ hơn những

thuận lợi cũng nhƣ hạn chế và bất cập trong thực tiễn thực hiện để từ đó đƣa ra
những đề xuất, kiến nghị để khắc phục là rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về
lý luận và thực tiễn. Với những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Việc tham gia tố
tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn thực hiện tại Viện kiểm sát
nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn” để thực hiện Luận văn Thạc sỹ theo
định hƣớng ứng dụng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


3
Hiện nay, về góc độ nghiên cứu Luật học, đã có nhiều công trình, bài viết liên
quan đến sự tham gia của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đƣợc thể hiện trong
các luận văn thạc sĩ, tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo, cụ thể nhƣ sau:
Nhóm các bài viết liên quan đến sự tham gia của Viện kiểm sát trong tố tụng
dân sự: “Về việc tham gia phiên tòa dân sự của Viện kiểm sát nhân dân” của tác giả
Trần Văn Trung đăng trên Tạp chí Luật học số 8 năm 2005, “Vị trí, vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả
Nguyễn Ngọc Khánh đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 14,16 năm 2008, “Viện kiểm
sát nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự và thực tiễn” của tác giả Trần Xuân
Hách đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 19 năm 2012; “Đổi mới và nâng cao
chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự” của Phó giáo sƣ,
Tiến sĩ Nguyễn Hòa Bình đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 7 năm 2016.
Nhóm các Luận văn nghiên cứu về đề tài này: “Vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Phƣơng Thúy, Luận văn Thạc
sỹ Luật học, trƣờng Đại học Luật Hà Nội, năm 1996; “Sự tham gia tố tụng của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Võ Thị Phƣợng,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, trƣờng Đại Học Luật Hà Nội, năm 2011; “Sự tham gia
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại thành
phố Hải Phòng” của tác giả Bùi Thị Phƣợng, Luận văn thạc sĩ Luật học, trƣờng Đại
Học Luật Hà Nội, năm 2015.

Những công trình trên tiếp cận nghiên cứu các khía cạnh khác nhau về vị trí,
vai trò của VKS trong tố tụng dân sự, việc tham gia của VKS trong các giai đoạn tố
tụng dân sự trong bối cảnh cải cách tƣ pháp và hội nhập cũng nhƣ thực tiễn về sự
tham gia tố tụng của VKS tại một số địa phƣơng. Tuy nhiên, chƣa có công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên sâu về việc tham gia tố tụng dân sự của
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, đặc biệt là tại địa bàn một huyện miền núi nhƣ
huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của Luận Văn
* Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn


4
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, trong đó chủ
yếu là quy định trong các Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về việc tham gia của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự và thực tiễn tham gia tố tụng của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
* Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
Trong khuôn khổ của Luận văn thạc sỹ luật học, Luận văn giới hạn phạm vi
nghiên cứu công tác kiểm sát án dân sự ở Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và thực
tiễn ở một địa phƣơng cụ thể mà không tiếp cận nghiên cứu về công tác kiểm sát thi
hành án dân sự. Luận văn có những nghiên cứu, đánh giá tổng quan về việc tham
gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát cấp huyện nói chung và từ đó lồng ghép phân
tích về thực tiễn thực hiện tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng
Sơn trong những năm gần đây. Việc xác định giới hạn và định hƣớng nghiên cứu
này thực sự có ý nghĩa thiết thực và phục vụ trực tiếp cho công tác kiểm sát án dân
sự tại địa phƣơng nơi học viên công tác.
4. Các phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện Luận văn
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc pháp luật. Những quan điểm cơ
bản của Đảng và Nhà nƣớc ta trong sự nghiệp xây dựng, đổi mới và phát triển đất

nƣớc, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cải cách tƣ
pháp ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, để thực hiện Luận văn tác giả sử
dụng các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: Phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử, phƣơng
pháp so sánh luật học, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp thống kê, tổng hợp.
5. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm phát hiện hạn chế, thiếu sót của pháp luật về sự
tham gia tố tụng của VKS cấp huyện cũng nhƣ vƣớng mắc, bất cập trong thực tiễn
thực hiện các quy định về việc tham gia tố tụng dân sự của VKS cấp huyện tại
huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, từ đó đƣa ra đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả về việc tham gia tố tụng dân sự của VKS cấp huyện.
Với mục tiêu trên, đề tài xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể nhƣ sau:


5
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về việc tham gia tố tụng dân sự của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện;
+ Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật tại Viện
kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn;
+ Nghiên cứu đề xuất cơ sở và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực hiện công tác kiểm sát án dân sự của Viện kiểm sát
cấp huyện.
6. Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của đề tài
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu riêng biệt và chuyên sâu về việc
tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện qua thực tiễn tại
Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
- Luận văn luận giải về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc tham gia tố
tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện.
- Luận văn luận giải và chỉ ra đƣợc những điểm mới của BLTTDS năm 2015
về việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát cấp huyện; đánh giá thực trạng
pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về việc tham gia tố tụng dân sự của Viện

kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh
Lạng Sơn.
- Luận văn đƣa ra đƣợc đề xuất và cơ sở của đề xuất hoàn thiện pháp luật và
thực hiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát án dân sự trong thực tiễn.
- Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên
cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục sơ thẩm và về nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tƣ liệu tham khảo phục vụ cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy khoa học pháp lý nói chung và đào tạo chức danh
Tƣ pháp nói riêng. Nội dung của luận văn cũng có thể góp phần xây dựng kỹ năng
nghề nghiệp của chuyên viên, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên, kỹ năng nghiên cứu hồ
sơ, đặc biệt là đối với các Kiểm sát viên kiểm sát các vụ, việc dân sự tại Viện kiểm
sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
7. Bố cục Luận văn


6
Ngoài phần mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
đƣợc kết cấu bởi 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về việc tham gia của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện trong tố tụng dân sự
Chƣơng 2: Thực tiễn tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn và kiến nghị.


7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆC THAM GIA CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và cơ sở về việc tham gia tố tụng của

Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm việc tham gia của Viện kiểm sát cấp huyện trong tố tụng
dân sự
Tại Việt Nam, bộ máy nhà nƣớc đƣợc tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa, quyền lực Nhà nƣớc là thống nhất, tập trung
vào Quốc hội, có sự phân công, phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và
Viện kiểm sát, để mỗi cơ quan thi hành có hiệu lực chức năng, nhiệm vụ của mình,
với sự phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp quyền lực Nhà nƣớc. Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tƣ pháp, thực hiện quyền lực tƣ
pháp, trong đó, Tòa án nhân dân thực hiện chức năng xét xử, Viện kiểm sát nhân
dân thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp.
VKSND là một hệ thống cơ quan có vị trí độc lập trong bộ máy nhà nƣớc,
đƣợc tổ chức thành một hệ thống từ trung ƣơng đến địa phƣơng (cấp tỉnh và huyện),
có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp, đảm bảo cho
pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Khoản 1 Điều 2- Luật Tổ
chức VKSND công bố ngày 24/11/2014 đã ghi nhận chức năng của VKSND:
“Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tại Khoản 1 Điều 107 Hiến
pháp 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp”.
Xuất phát từ chức năng chung của ngành, VKSND cấp huyện tham gia vào
quá trình giải quyết vụ việc dân sự của TAND cấp huyện nhằm kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong quá trình tố tụng. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự là giám sát, kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ đối với hành vi của các


8
chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, đối với văn bản áp dụng pháp luật giải quyết
vụ việc dân sự của chủ thể tiến hành tố tụng.
VKSND sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý đƣợc quy định trong Bộ

luật tố tụng dân sự để kịp thời phát hiện, sửa chữa và loại bỏ các vi phạm của cơ
quan, ngƣời tiến hành tố tụng và những ngƣời tham gia tố tụng nhằm bảo đảm cho
pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất bảo vệ lợi ích đất nƣớc, lợi
ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự.
Việc tham gia của VKSND cấp huyện vào quan hệ pháp luật TTDS là tất yếu
và khách quan, nhằm đáp ứng yêu cầu về bảo đảm sự tuân thủ theo pháp luật trong
tố tụng dân sự của Toà án cấp huyện – cơ quan tƣ pháp có thẩm quyền sơ thẩm
phần lớn các vụ việc dân sự, đồng thời bảo đảm quyền của con ngƣời, quyền công
dân trong lĩnh vực dân sự. Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 12 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa án. Theo
đó, Tòa án nhân dân cấp huyện có nhiệm vụ xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật. Đây là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm pháp luật đƣợc
thực thi trên thực tế, bảo đảm thực hiện quyền công dân đối với các vụ việc dân sự
thuộc thẩm quyền của Tòa án. Tuy nhiên, để Tòa án cấp huyện có thể đảm đƣơng tốt
chức năng nhiệm vụ của mình, giải quyết các vụ việc một cách khách quan, công
tâm, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật thì cần phải có sự giám sát nhất định từ phía VKS
cấp huyện. Với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, VKSND cấp huyện
tham gia vào quá trình giải quyết các vụ việc dân sự nhằm tạo ra sự kiềm chế, giám
sát đối với cơ quan Tòa án cấp huyện, bảo đảm cho quá trình tố tụng dân sự (TTDS)
đƣợc diễn ra theo đúng các quy định của pháp luật, các quyền và nghĩa vụ tố tụng của
đƣơng sự đƣợc tôn trọng.
Từ những phân tích trên, có thể đƣa ra một định nghĩa khái quát về việc tham
gia TTDS của VKSND cấp huyện nhƣ sau: Việc tham gia của VKSND cấp huyện
trong tố tụng dân sự là sự tham gia của cơ quan tiến hành tố tụng có chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được thi hành
nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án nhân
dân cấp huyện.


9

1.1.2. Đặc điểm việc tham gia của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong
tố tụng dân sự
Do vị trí, chức năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống Viện kiểm
sát nhân dân hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành
và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà nƣớc nào khác ở
địa phƣơng. Vì vậy, việc tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
cũng mang những đặc điểm đặc thù sau:
Thứ nhất, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện là cơ quan duy nhất kiểm sát
việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự tại Tòa án cấp huyện.
Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất đƣợc nhà nƣớc trao quyền kiểm sát hoạt
động của Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Quyền năng này của
VKSND đƣợc ghi nhận trong các Hiến pháp, BLTTDS, Luật Tổ chức VKSND. Khi
tham gia tố tụng dân sự, VKSND cấp huyện có chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự của TAND cấp huyện. VKSND
cấp huyện có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án
trong quá trình tố tụng sơ thẩm từ khâu thụ lý đến xét xử để ban hành các văn bản tố
tụng, bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự theo đúng quy
định của pháp luật.
Thứ hai, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện chỉ thực hiện việc kiểm sát việc
tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tố tụng tại Toà án cấp huyện.
Việc kiểm sát của Viện kiểm sát cấp huyện chỉ giới hạn trong phạm vi những
hoạt động tố tụng dân sự tại Toà án cấp sơ thẩm nhƣ kiểm sát việc thụ lý, trả lại đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự; tham gia phiên tòa, phiên họp sơ
thẩm tại Toà án cấp huyện, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải
quyết vụ án, vụ việc; kiểm sát bản án, quyết định của Toà án cấp huyện; kiểm sát
hoạt động tố tụng của ngƣời tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền xử lý ngƣời tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; kháng nghị, kiến
nghị bản án, quyết định của Toà án nhân dân cấp huyện có vi phạm pháp luật; kiến
nghị, yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố
tụng.v.v...Nếu phát hiện sai lầm, vi phạm của Toà án cấp huyện thì Viện trƣởng



10
Viện kiểm sát cấp huyện có thể kháng nghị phúc thẩm hoặc ban hành kiến nghị
nhƣng không đƣợc tiến hành các hoạt động kiểm sát tại Toà án cấp phúc thẩm,
không có quyền tham gia phiên toà và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát cấp
huyện tại Toà án cấp phúc thẩm.
Thứ ba, VKSND cấp huyện thực hiện việc tham gia TTDS của mình thông
qua hoạt động của Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên và kiểm tra viên.
VKSND cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn pháp luật thông qua
hoạt động của các chức danh pháp lý cụ thể, đó là Viện trƣởng, Kiểm sát viên và
Kiểm tra viên.
Là ngƣời chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND cấp huyện về kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng nên khi tham gia
TTDS, Viện trƣởng VKSND cấp huyện có các nhiệm vụ, quyền hạn sau: Tổ chức,
chỉ đạo thực hiện công tác KSVTTPL trong các hoạt động TTDS nhƣ quyết định
phân công Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật và tham gia phiên tòa xét
xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự…tại Tòa án cấp huyện. Nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện trƣởng VKSND cấp huyện đƣợc quy định tại các Điều 57,
62, 278, 331, 354, khoản 2 Điều 504 và một số điều luật khác trong BLTTDS năm
2015. Ngoài ra, để bảo đảm thực hiện đƣợc nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trƣởng
VKSND cấp huyện, khoản 2 Điều 57 BLTTDS năm 2015 quy định khi Viện trƣởng
vắng mặt thì một Phó Viện trƣởng đƣợc Viện trƣởng ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ
quyền hạn của Viện trƣởng.
Là ngƣời tiến hành tố tụng, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ KSVTPL đối với
hoạt động tố tụng, khi tham gia vào các hoạt động TTDS, Kiểm sát viên có những
nhiệm vụ, quyền hạn sau: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án cấp huyện
trong việc giải quyết vụ việc dân sự nhƣ kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ án, các
quyết định tố tụng, bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự, tham gia phiên tòa
xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự, phát biểu ý kiến của VKS về

việc giải quyết vụ việc dân sự…Hoạt động của Kiểm sát viên góp phần bảo đảm
việc giải quyết đúng đắn, khách quan các vụ việc dân sự. Để phát huy đƣợc vai trò
của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự, các nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên


11
đã đƣợc quy định khá đầy đủ tại các Điều 45, 207, 234, 271 BLTTDS năm 2004 và
BLTTDS sửa đổi năm 2011, nay đƣợc quy định tại các Điều 58, 232, 262 và một số
điều luật khác trong BLTTDS năm 2015.
BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định về chức danh Kiểm tra viên và ghi
nhận cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể này tại điểm b, khoản 1 Điều 46
BLTTDS năm 2015. Khi đƣợc phân công, Kiểm tra viên có nhiệm vụ nghiên cứu
hồ sơ vụ việc, báo cáo kết quả với KSV, lập hồ sơ kiểm sát vụ việc dân sự theo sự
phân công của Viện trƣởng hoặc KSV, giúp KSV kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự (Điều 59 BLTTDS năm 2015).
1.1.3. Ý nghĩa về sự tham gia của Viện kiểm sát cấp huyện trong tố tụng
dân sự
Việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có ý
nghĩa bảo đảm tính thƣợng tôn pháp luật. VKSND cấp huyện có vai trò quan trọng
trong việc thực hiện nhiệm vụ giám sát việc thực thi pháp luật của các cơ quan tƣ
pháp.
Thông qua việc thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, VKSND
cấp huyện với chức năng kiểm sát hoạt động việc tuân theo pháp luật nhằm bảo
đảm pháp luật đƣợc tuân thủ, tiến trình tố tụng giải quyết các vụ việc dân sự của
TAND cấp huyện đƣợc tiến hành nhanh chóng, khách quan, toàn diện, kịp thời,
đúng pháp luật.
Việc tham gia của VKSND cấp huyện trong TTDS nhằm phát hiện, hạn chế
vi phạm của TAND cấp huyện trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, kiểm soát
sự lạm quyền của cán bộ Tòa án và các chủ thể khác, tạo niềm tin của ngƣời dân
vào công lý và bảo đảm thực hiện các quyền tố tụng và lợi ích hợp pháp của đƣơng

sự.
1.1.4. Cơ sở của việc xây dựng quy định về việc tham gia của Viện kiểm sát
trong tố tụng dân sự
1.1.4.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của VKSND do pháp luật quy định


12
Ở nƣớc ta, sự ra đời của hệ thống Viện kiểm sát theo tờ trình Quốc hội về
LTCVKSND năm 1960 có nêu : “...Vì lẽ trên phải tổ chức ra VKSND để kiểm sát
việc tuân theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế XHCN, đảm bảo cho pháp luật
được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Việc giao chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của VKSND hoàn toàn phù hợp với lý luận về vai trò giám sát và
chống lạm quyền từ chính chủ thể nắm giữ quyền lực tƣ pháp là Tòa án nhằm bảo
thực thi các quyền cơ bản của công dân trong tố tụng dân sự. Xét về lý luận thì cần
có sự phối hợp và kìm chế, đối trọng giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc để
bảo đảm sự minh bạch, bảo đảm các quyền cơ bản của công dân. Xét dƣới góc độ tổ
chức quyền lực đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, có thể nhận thấy Điều 105 Hiến
pháp năm 1959 đã từng ghi nhận:“VKSNDTC nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ
quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân. Các
VKSND địa phương và VKS quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi luật định”.
Sau này, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 tuy có bổ sung, thay đổi về
tổ chức, hoạt động của VKSND nhƣng chức năng kiểm sát các hoạt động tƣ pháp
vẫn luôn đƣợc giao cho VKSND.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, một trong những yêu cầu cấp thiết đó là bảo đảm sự kiểm sát giữa
các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Vì vậy, tiếp
tục duy trì VKSND với tƣ cách là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà
nƣớc với chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp

là biện pháp quan trọng góp phần xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở nƣớc ta.
Thứ hai, xuất phát từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong
việc cải cách tư pháp
Trƣớc yêu cầu cấp bách về hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung cũng nhƣ
bộ máy, thủ tục tƣ pháp nói riêng trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, ngày 24/5/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị


13
quyết số 48-NQ/TW1 về chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020, đến ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị có
Nghị Quyết số 49-NQ/TW2 về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020. Cả hai
Nghị quyết trên đều xác định nhiều định hƣớng quan trọng, toàn diện cho việc xây
dựng hệ thống pháp luật và chƣơng trình cải cách tƣ pháp đến năm 2020, trong đó
có nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật làm căn cứ cho hoạt động
của VKS trong TTDS, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống các vi
phạm pháp luật trong tình hình mới, góp phần bảo đảm việc giải quyết các tranh
chấp nảy sinh trong các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động nhanh chóng, kịp thời,
đúng pháp luật. Chế định VKS trong tố tụng dân sự phải thực sự là công cụ hữu
hiệu bảo vệ chế độ, bảo đảm và tôn trọng công bằng xã hội, quyền tự do dân chủ
của công dân, tổ chức đã đƣợc Hiến pháp và pháp luật quy định, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế, xã hội3.
Trong kết luận của Bộ Chính trị số 230-TB/TW4 ngày 26/3/2009 về sơ kết 3
năm thực hiện Nghị Quyết số 49- NQ/TW ngày 02.6.2005, Bộ Chính trị đã nêu rõ
“Tiến độ giải quyết các vụ việc dân sự còn chậm, chất lượng giải quyết các vụ việc
dân sự còn thấp…trong đó có nguyên nhân là chưa có cơ chế giám sát, kiểm sát
hiệu quả việc giải quyết các vụ án dân sự”. Kết luận số 79-KL/TW5 ngày 28/7/2010
của Bộ Chính trị khẳng định: “Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp như hiện nay”. Báo cáo chính trị

tại Đại hội XI yêu cầu “Bảo đảm tốt hơn các điều kiện về Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp”. Nhiều đạo luật liên quan đến lĩnh vực tƣ pháp đƣợc sửa đổi, bổ sung hoặc
ban hành mới theo hƣớng tăng cƣờng vai trò giám sát các hoạt động tƣ pháp của
1

Bộ Chính trị, Nghị Quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2020.
2
Bộ Chính trị, Nghị Quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
3
Khuất Văn Nga (chủ biên, 2008), Vị trí vai trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư
pháp, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội, tr 192, 196-197.
4
Bộ Chính trị, Thông báo kết luận số 230-TB/TW ngày 26/3/2009 về Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 49NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5
Bộ Chính trị, Thông báo kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 về Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND,
VKSND và cơ quan điều tra.


14
VKSND. Các văn bản pháp luật này đều khẳng định một cách nhất quán yêu cầu
của Đảng, Quốc hội phải tăng cƣờng hơn nữa vai trò, trách nhiệm của VKSND
trong KSVTTPL trên tất cả các lĩnh vực tƣ pháp.
1.1.4.2. Cơ sở thực tiễn
Thứ nhất, sự thay đổi trong các quy định về việc tham gia tố tụng dân sự của
Viện kiểm sát cấp huyện
Tại Việt Nam, VKSND có những vai trò khác nhau qua các thời kỳ. Trƣớc
năm 2004, phạm vi và quyền hạn của Viện kiểm sát cấp huyện đối với kiểm sát án
dân sự sơ thẩm đƣợc mở rộng. Theo đó, Viện kiểm sát cấp huyện có quyền khởi tố

vụ án dân sự, quyền yêu cầu Toà án điều tra xác minh hoặc tự mình tiến hành điều
tra xác minh nếu thấy cần thiết; có quyền tham gia các phiên toà sơ thẩm dân
sự...Với phạm vi quyền hạn này, Viện kiểm sát cấp huyện có thể thực hiện tốt hơn
và có hiệu quả vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Tuy
nhiên, BLTTDS năm 2004 đã hạn chế hơn quyền hạn của Viện kiểm sát cấp huyện,
đặc biệt là quyền tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm. Sự hạn chế này đã làm ảnh
hƣởng không nhỏ tới hiệu quả công tác kiểm sát án dân sự.
Phạm vi quyền hạn trong tố tụng dân sự bị hạn chế, hoạt động của Viện kiểm
sát cấp huyện trong kiểm sát hoạt động tuân theo pháp luật chủ yếu là tiếp nhận,
kiểm sát thông báo thụ lý, các quyết định, bản án do Tòa án cấp huyện chuyển sau
khi đã giải quyết và nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện vi phạm khi Tòa án giải quyết
tranh chấp. Nếu Viện kiểm sát cấp huyện chỉ dựa trên bản án để phát hiện các vi
phạm của Tòa án thì không đủ cơ sở tin cậy và khách quan. Bản án đƣợc ban hành
có thể không phản ánh đầy đủ, đúng các tình tiết, sự kiện, chứng cứ có trong hồ sơ,
tính chân thực trong lời khai báo, trình bày của đƣơng sự, ngƣời làm chứng. Ngoài
ra, việc Toà án cấp huyện chƣa thu thập đầy đủ chứng cứ, tài liệu cần thiết để giải
quyết vụ án, hoặc không còn khả năng để xác minh làm rõ hơn, tình tiết quan trọng
của vụ án, bỏ qua một vài tình tiết có liên quan đến đánh giá, vận dụng pháp luật
nội dung...cũng có thể dẫn tới bản án của Toà án có những sai lầm nghiêm trọng.
Trên phƣơng diện cải cách tƣ pháp, nếu yêu cầu tăng cƣờng vai trò của Viện kiểm
sát cấp huyện thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tƣ pháp thì việc hạn chế


15
quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự có thể dẫn tới Viện kiểm sát cấp
huyện không thể thực hiện có hiệu quả chức năng của mình. Chính vì vậy, BLTTDS
năm 2011 đã sửa đổi, bổ sung theo hƣớng mở rộng phạm vi trách nhiệm tham gia
phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự của Viện kiểm sát, trong đó có Viện
kiểm sát cấp huyện. Điều 21 BLTTDS năm 2015 đã kế thừa những quy định này
của BLTTDS năm 2011 trên cơ sở có những sửa đổi, bổ sung hợp lý phù hợp với

thực tiễn và những quy định mới của Luật Tổ chức Viện kiểm sát năm 2014.
Thứ hai, xuất phát từ các tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng và phức tạp,
trong khi đó việc giải quyết của Tòa án cấp huyện còn nhiều sai sót cần phải có cơ
chế giám sát, kiểm sát
Khi đất nƣớc đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện và hội nhập kinh tế
quốc tế, các tranh chấp dân sự diễn biến ngày càng phức tạp về tính chất, không
ngừng gia tăng về số lƣợng, chủng loại6 vốn đã phức tạp nay lại càng phát sinh
nhiều với tính chất phức tạp hơn. Để đạt đƣợc mục tiêu giải quyết các vụ việc dân
sự một cách nhanh chóng, khách quan, kịp thời đúng pháp luật, bảo đảm quyền và
lợi ích hợp hợp của cá nhân, cơ quan, tổ chức đặc biệt là những ngƣời yếu thế trong
xã hội thì ngoài cơ chế tự kiểm tra, giám sát từ bên trong thì rất cần thiết có cơ chế
kiểm tra giám sát từ bên ngoài để hạn chế những thiếu sót, sai lầm nghiêm trọng của
Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ án.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì “Tòa án nhân dân là cơ quan xét
xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (khoản
1 Điều 102). Nhƣ vậy, trong hệ thống các cơ quan Nhà nƣớc chỉ duy nhất Tòa án
mới có chức năng xét xử giải quyết các vụ việc dân sự. Do đó, số lƣợng các vụ án
Tòa án giải quyết luôn quá tải. Số liệu thống kê hàng năm của Tòa án nhân dân tối
cao (TANDTC) cho thấy lƣợng án mà Tòa án giải quyết ngày càng tăng, tỷ lệ các
6

Theo thống kê của Vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình (Vụ 9) VKSND tối cao,
trung bình mỗi năm, số lƣợng vụ, việc dân sự mà Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết tăng khoảng từ 10,1% đến
16,4%; Số lƣợng vụ việc Tòa án thụ lý giải quyết ở trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thảm cũng tăng
đáng kể. Vụ việc dân sự phổ biến và phức tạp nhất là tranh chấp về quyền sử dụng dất; về hợp đồng chuyển
nhƣợng, cho thuê, cho mƣợn, tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng vay tài sản có đối tƣợng thé chấp là nhà, đất;
thừa kế di sản là nhà, đất; tranh chấp về chia tài sản chung khi hết thời hiệu chia di sản thừa kế…
Trích trong tài liệu Nguyễn Hòa Bình (2016), “Đổi mới và nâng cao chất lƣợng công tác kiểm sát việc giải quyết
các vụ, việc dân sự”, Tạp chí Kiểm sát (7), tr. 10.



16
bản án, quyết định bị hủy, sửa vẫn còn nhiều, số lƣợng đƣơng sự khiếu nại các bản
án, quyết định của Tòa án rất lớn. Điều này chứng tỏ sự thiếu khách quan, sự vi
phạm nghiêm trọng tố tụng trong việc giải quyết các vụ án dân sự vẫn còn tồn tại.
Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng còn có những bản án, quyết định của Tòa án
có sai sót nhƣng không bị phát hiện ra. Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó một nguyên nhân đƣợc coi là quan trọng là thiếu cơ chế giám sát,
kiểm sát. Vì vậy, đòi hỏi phải có cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết các
vụ việc dân sự của Tòa án.
1.2. Các quy định về việc tham gia của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
trong tố tụng dân sự
1.2.1. Quy định về kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết
việc dân sự
Trả lại đơn khởi kiện là hành vi tố tụng của Tòa án, theo đó Tòa án từ chối
quyền khởi kiện vụ án dân sự của ngƣời khởi kiện khi có căn cứ trả lại đơn khởi
kiện mà BLTTDS quy định. Kể từ thời điểm Tòa án ban hành văn bản trả lại đơn
khởi kiện thì mọi trách nhiệm về mặt tố tụng dân sự đối với yêu cầu khởi kiện của
ngƣời khởi kiện cũng chấm dứt. Việc trả lại đơn khởi kiện có ý nghĩa quan trọng
đối với quyền khởi kiện của đƣơng sự, nếu Tòa án áp dụng không đúng các căn cứ
trả lại đơn khởi kiện hoặc áp dụng tùy tiện theo ý chí chủ quan của Thẩm phán đƣợc
phân công xem xét, thụ lý đơn khởi kiện sẽ ảnh hƣởng đến quyền khởi kiện hợp
pháp của đƣơng sự. Để bảo đảm việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết
việc dân sự của Tòa án đƣợc khách quan, đúng đắn, không làm tổn hại đến quyền
cơ bản của đƣơng sự, pháp luật đã quy định VKSND có nhiệm vụ kiểm sát việc Tòa
án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đƣơng sự.
BLTTDS năm 2015 quy định việc kiểm sát trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
giải quyết vụ việc dân sự tại Điều 192 và Điều 364. Khoản 2 Điều 192 BLTTDS
năm 2015 quy định “Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho
người khởi kiện, Thẩm phán phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện,

đồng thời gửi ngay cho VKS cùng cấp. Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà


17
Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm
cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu”.
Về cơ bản điều luật về trả lại đơn khởi kiện của BLTTDS năm 2015 là sự kế
thừa tại Điều 168 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 giao thêm nhiệm vụ cho
VKS cấp huyện đó là kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của Tòa án
cấp huyện. Đây là điểm mới mà BLTTDS năm 2004 chƣa quy định. Theo Điều 168
BLTTDS năm 2004 thì khi trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án chỉ cần gửi
văn bản trả lại đơn cùng tài liệu chứng cứ kèm theo cho ngƣời khởi kiện, yêu cầu.
Nhƣ vậy, theo BLTTDS năm 2004 thì VKS không thể kiểm sát đƣợc việc trả lại
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của Tòa án vì khi Tòa án trả lại đơn pháp luật không
quy định Tòa án cấp huyện phải gửi thông báo trả lại đơn cho VKS cấp huyện, do
vậy VKS không có điều kiện để kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
của Tòa án. Để khắc phục bất cập trên, Điều 168 BLTTDS sửa đổi năm 2011 và
Điều 192 BLTTDS năm 2015 đã quy định khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu,
chứng cứ kèm theo cho ngƣời khởi kiện, Tòa án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại
đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Sự ghi nhận này là điều
hợp lý nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án đƣợc chặt chẽ
ngay từ khâu đầu tiên, tránh sự lạm quyền của Tòa án có thể xâm phạm đến lợi ích
của các cá nhân, tổ chức
Tuy nhiên, quy định tại Điều 192 BLTTDS năm 2015 vẫn có nhiều quan điểm
khác nhau về việc khi thông báo trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết việc
dân sự thì Tòa án có cần gửi bản sao đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ liên quan cho
Viện kiểm sát không? Thực tiễn tại địa phƣơng cho thấy, khi Viện kiểm sát cấp
huyện nhận đƣợc thông báo trả lại đơn khởi kiện của Tòa án cấp huyện, thƣờng
không có bản sao đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, việc này gây khó
khăn cho Viện kiểm sát phát hiện vi phạm, thiếu sót của Tòa án trong quá trình tố

tụng cũng nhƣ phát hiện sự thiếu khách quan, lạm quyền của Tòa án trong việc trả
lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự.


×