Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra vụ án hình sự theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.77 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THANH THỦY

TẠM ĐÌNH CHỈ VÀ ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THANH THỦY

TẠM ĐÌNH CHỈ VÀ ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NĂM 2015

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự


Mã số: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Huyên

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của PGS. TS. Luật sƣ Nguyễn Văn Huyên.
Các kết quả nêu trong luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
đƣợc trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thanh Thủy


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực tiễn,
đƣợc sự hƣớng dẫn, giảng dạy của Quý thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ nhiệt
tình của cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, tôi đã hoàn thành Luận
văn Thạc sỹ Luật học.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng quý thầy cô Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, các thầy
cô, các Giáo sƣ, Phó Giáo sƣ, Tiến sỹ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt nhiều

kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian tôi học tập tại trƣờng.
Khoa Sau đại học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội thực hiện quản lý đào
tạo, cung cấp thông tin cần thiết về quy chế đào tạo cũng nhƣ chƣơng trình
đào tạo một cách kịp thời, tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này
đúng tiến độ.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Luật sƣ Nguyễn
Văn Huyên đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực
hiện luận văn này
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thanh Thủy


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCA

Bộ Công an

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BQP


Bộ Quốc phòng

CQĐT

Cơ quan điều tra

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐTV

Điều tra viên

TNHS

Trách nhiệm hình sự

THTT

Tiến hành tố tụng

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát


VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

STT

Tên bảng

Nội dung

2.1.1.1

Bảng thống kê số vụ, số bị can CQĐT các cấp đã thụ
lý điều tra và tạm đình chỉ điều tra (2013 – 06 tháng
đầu năm 2018)

2.1.1.2

Bảng thống kê số vụ, số bị can CQĐT các cấp đã kết
thúc điều tra và đình chỉ điều tra (2013 – 06 tháng đầu
năm 2018)

2.1.2.1

Bảng thống kê số vụ và số bị can Viện kiểm sát tạm
đình chỉ và đình chỉ vụ án (2013 – 06 tháng đầu năm

2018)

4

2.1.2.2

Bảng so sánh số vụ án tạm đình chỉ và đình chỉ điều
tra của Cơ quan điều tra so với số vụ án tạm đình chỉ
và đình chỉ của Viện kiểm sát các cấp (2013 – 06
tháng đầu năm 2018)

STT

Tên biểu

Nội dung

2.1.1.1

Biểu đồ diễn biến số vụ, số bị can CQĐT các cấp đã
thụ lý điều tra và tạm đình chỉ điều tra (2013 – 06
tháng đầu năm 2018)

2.1.1.2

Biểu đồ diễn biến số vụ, số bị can CQĐT các cấp đã
kết thúc điều tra và đình chỉ điều tra (2013 – 06 tháng
đầu năm 2018)

1


2

3

1

2


MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
PHẦN II. NỘI DUNG....................................................................................... 7
Chƣơng 1: ...................................................................................................... 7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ VÀ
ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ... 7
1.1. Khái niệm về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra: ................................ 8
1.2. Ý nghĩa của tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra: ................................ 15
1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tạm đình chỉ và
đình chỉ điều tra vụ án hình sự: ....................................................................... 17
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 45
Chƣơng 2: .................................................................................................... 46
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN QUY ĐỊNH VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ VÀ ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................................................................................... 46
2.1. Thực trạng thực hiện quy định của bộ luật tố tụng hình sự về tạm
đình chỉ và đình chỉ điều tra vụ án hình sự: .................................................... 46
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại trong việc thực hiện quy
định về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra vụ án hình sự: ................................ 65

2.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện quy
định về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra vụ án hình sự: ................................ 69
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 74
PHẦN III. KẾT LUẬN ................................................................................... 75


1

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài:
Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày
27/11/2015 và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016 với rất nhiều điểm mới, sửa
đổi, bổ sung một cách căn bản và toàn diện so với Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003. Trong đó, một điểm mới quan trọng là Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 đã quy định đầy đủ, cụ thể trình tự, thủ tục choạt động tố tụng trong mỗi
giai đoạn nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của BLTTHS năm 2003.
Hiện nay, chất lƣợng công tác tƣ pháp nói chung và chất lƣợng của hoạt
động điều tra của CQĐT nói riêng còn chƣa hiệu quả, còn nhiều trƣờng hợp
bỏ lọt tội phạm, làm oan ngƣời vô tội; vi phạm các quyền tự do, dân chủ của
công dân. Nhiệm vụ của CQĐT là khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm phải
khởi tố vụ án hình sự để điều tra. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT phải tiến
hành các hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm và ngƣời thực hiện tội
phạm. Trƣờng hợp hết thời hạn điều tra mà chƣa xác định đƣợc bị can hoặc đã
xác định đƣợc bị can nhƣng không biết bị can đang ở đâu hoặc có căn cứ cho
rằng bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác thì CQĐT phải
tạm ngừng các hoạt động điều tra. Trƣờng hợp trong quá trình điều tra CQĐT
phát hiện có quyết định khởi tố không có căn cứ, khởi tố sai hoặc bị can có
các căn cứ miễn TNHS thì phải đình chỉ điều tra.
Nếu CQĐT vẫn tiếp tục tiến hành các hoạt động điều tra trong hai

trƣờng hợp trên có thể dẫn đến tình trạng oan sai ảnh hƣởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của bị can. Thực tiễn thời gian qua vẫn còn không ít trƣờng hợp
CQĐT tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra không đúng căn cứ do pháp luật
quy định hoặc có căn cứ nhƣng CQĐT không ra Quyết định tạm đình chỉ điều


2

tra, Quyết định đình chỉ điều tra, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can. BLTTHS năm 2015 đã có những quy định về tạm đình chỉ và đình chỉ
điều tra để CQĐT tạm ngừng hoặc chấm dứt hoạt động điều tra trong các
trƣờng hợp này.
Trong khoa học luật hình sự, tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, chế
định tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra vẫn chƣa đƣợc quan tâm, nghiên cứu
một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và toàn diện. Bên cạnh đó nhìn từ góc
độ thực tiễn thì hoạt động tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra còn có những mặt
chƣa thực sự chuyển biến. Do đó, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện
công cuộc cải cách tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày
25/4/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020 phù hợp mục
tiêu của chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, việc nghiên
cứu đề tài “Tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015” mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn
là đòi hỏi thực tiễn.
1.2. Tình hình nghiên cứu của đề tài:
Trong thời gian qua, ở mức độ khác nhau, vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ
điều tra vụ án hình sự còn đƣợc đề cập trong các cuốn giáo trình, bình luận,
một số luận văn thạc sĩ và một số bài viết trên tạp chí nghiên cứu về đình chỉ,
tạm đình chỉ vụ án, nhƣ: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam

của trƣờng Đại học Luật Hà Nội; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
Việt Nam năm 2003 - Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia do PGS.TS Nguyễn
Ngọc Anh và đồng nghiệp chủ biên…; Luận văn thạc sĩ có “Quyết định đình
chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố” của tác giả Võ Thu Hằng năm 2014; hay


3

một số công trình nghiên cứu chuyên sâu nhƣng chỉ viết về một phần nội
dung của đề tài này nhƣ bài viết: “ Bàn về quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ
điều tra vụ án và bị can theo quy định của BLTTHS” của tác giả Mai Văn
Minh ( Tạp chí kiểm sát – VKSNDTC số 1/2006 ); “Đình chỉ điều tra và đình
chỉ vụ án đối với trƣờng hợp không có sự việc phạm tội và hành vi không cấu
thành tội phạm” của tác giả Mai Văn Lƣu ( Tạp chí kiểm sát – VKSNDTC số
5/2008 ); “Đình chỉ điều tra vụ án khởi tố theo yêu cầu của ngƣời bị hại khi
họ rút đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm 2003” của tác
giả Mai Thế Bày (Tạp chí kiểm sát – VKSNDTC số 20/2009) …
Trên cơ sở khảo sát nêu trên, có thể thấy, ở nƣớc ta đã có một số công
trình nghiên cứu về vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra vụ án. Tuy nhiên,
những nghiên cứu về đề tài này chủ yếu mới chỉ tập trung vào căn cứ đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ nhất định. Mặt khác, những công trình nêu trên chỉ đề cập
một cách tổng thể, khái quát những vấn đề lý luận chứ chƣa nghiên cứu một
cách toàn diện, sâu sắc, riêng biệt về đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra vụ án
dƣới cả hai góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án hình sự
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” có điều kiện tiếp thu
tham khảo và không trùng lặp với các công trình đã nghiên cứu.
1.3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam năm 2015 và thực tiễn thi hành các quy định về tạm đình

chỉ và đình chỉ điều tra vụ án, có so sánh với BLTTHS năm 2003 để thấy
đƣợc những điểm mới của BLTTHS năm 2015.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về tạm đình chỉ và
đình chỉ điều tra và thực tiễn áp dụng những quy định này của các CQĐT,


4

VKS từ năm 2013 đến hết 6 tháng đầu năm 2018 trên phạm vi cả nƣớc, bởi
BLTTHS năm 2015 mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 nên thực tiễn tạm
đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra còn ít.
Tuy nhiên, do điều kiện khách quan không thể nghiên cứu thực tiễn số
liệu liên quan đến việc áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 về tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra
trong Quân đội nhân dân nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu thực tiễn việc
áp dụng các quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tạm đình chỉ và
đình chỉ điều tra vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra của Công an nhân
dân và của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
1.4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 về vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra dƣới khía cạnh lập
pháp và việc áp dụng các quy định đó trong thực tiễn. Từ đó, chỉ ra các
nguyên nhân làm phát sinh những tồn tại trong việc đình chỉ, tạm đình chỉ
điều tra và những kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra trên thực tế.
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Giải quyết một số vấn đề lý luận về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án nhƣ:
khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra;
- Phân tích những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
hành về đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra, bao gồm: căn cứ, thẩm quyền, trình

tự, thủ tục…;
-


5

- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ
án, đồng thời phân tích, làm rõ những nguyên nhân làm phát sinh những tồn
tại trong việc đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án;
- Đƣa ra những kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án.
1.5. Các phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn:
Luận văn áp dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về đấu tranh phòng,
chống tội phạm, cũng nhƣ thành tựu của các ngành khoa học nhƣ triết học, xã
hội học, lịch sử, lý luận về nhà nƣớc và pháp luật, luật hình sự, luật tố tụng
hình sự, tội phạm học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên
cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa
học Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả luận văn đã sử dụng một số
phƣơng pháp nghiên cứu của khoa học luật tố tụng hình sự, nhƣ: so sánh,
phân tích, tổng hợp, thống kê... Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào
các văn bản pháp luật của Nhà nƣớc và những giải thích, hƣớng dẫn thống
nhất có tính chất chỉ đạo nghiệp vụ trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử
thuộc lĩnh vực pháp luật tố tụng hình sự do các cơ quan có thẩm quyền ban
hành có liên quan đến vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra vụ án; những số
liệu thống kê, tổng kết hàng năm trong các báo cáo của ngành Viện kiểm sát
nhân dân và Tòa án nhân dân, thống kê dựa trên các quy phạm pháp luật hiện
hành, các tài liệu, sách báo, bài viết, công trình nghiên cứu khoa học của các
tác giả đã nghiên cứu trƣớc đó, kết hợp đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật

tố tụng hình sự để hoàn thành luận văn có chất lƣợng, cũng nhƣ những thông


6

tin trên mạng internet để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật tố tụng
hình sự và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn.
1.6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn:
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận, khái niệm tạm đình chỉ điều tra,
đình chỉ điều tra, phân tích rõ các quy định của pháp luật, chỉ ra những điểm
mới của Bộ luật TTHS năm 2015 so với Bộ luật TTHS năm 2003 về tạm đình
chỉ và đình chỉ điều tra, cũng nhƣ việc áp dụng những quy định này trong
thực tiễn trong việc khắc phục những trƣờng hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm do
hoạt động khởi tố và điều tra vụ án hình sự gây ra, đồng thời đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của bị can, ngƣời bị hại. Trên cơ sở nghiên cứu này, đóng
góp một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật
về tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra trên thực tế.
1.7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục từ viết tắt và Danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chƣơng:
Chƣơng I: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tạm đình chỉ và đình chỉ
điều tra vụ án hình sự trong tố tụng hình sự.
Chƣơng II: Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện quy định về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra vụ án hình sự


7

PHẦN II. NỘI DUNG
Chƣơng 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ VÀ
ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Quá trình tố tụng hình sự từ khi khởi tố vụ án hình sự đến khi kết thúc
việc giải quyết vụ án là một quá trình phức tạp, gồm nhiều hoạt động tố tụng
đƣợc thực hiện trong các giai đoạn khác nhau. Sau khi có quyết định khởi tố,
các hoạt động điều tra đƣợc tiến hành để thu thập các tài liệu, chứng cứ nhằm
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Để đảm bảo cho hoạt động điều tra
đƣợc nhanh chóng, kịp thời, CQĐT tiến hành các biện pháp điều tra theo quy
định của BLTTHS và các biện pháp nghiệp vụ trong phạm vi pháp luật cho
phép nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. BLTTHS quy định cho
CQĐT có một thời hạn nhất định để điều tra vụ án. Trong thời hạn điều tra mà
có căn cứ do pháp luật quy định thì CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra
hoặc trong trƣờng hợp đã hết thời hạn điều tra theo luật định (kể cả thời hạn
gia hạn điều tra) mà không chứng minh đƣợc bị can phạm tội thì CQĐT phải
ra quyết định đình chỉ điều tra. Nếu có đủ cơ sở kết luận bị can là ngƣời thực
hiện hành vi phạm tội thì CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng bản kết
luận điều tra sang Viện kiểm sát. Sau khi tiếp nhận hồ sơ vụ án cùng bản kết
luận điều tra, Viện kiểm sát xem xét, nghiên cứu thấy đủ cơ sở truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định truy tố và chuyển
hồ sơ sang Tòa án. Nếu trong thời hạn nghiên cứu để quyết định việc truy tố
mà Viện kiểm sát phát hiện các căn cứ để đình chỉ thì Viện kiểm sát ra quyết
định đình chỉ vụ án. Sau khi tiếp nhận hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát, trong thời
hạn chuẩn bị xét xử nếu phát hiện các căn cứ để đình chỉ vụ án thì phẩm phán
đƣợc phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án.


8

Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày

27/11/2015 và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016 với rất nhiều điểm mới, sửa
đổi, bổ sung một cách căn bản và toàn diện so với Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003. Trong đó, một điểm mới quan trọng là Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 đã quy định đầy đủ, cụ thể trình tự, thủ tục choạt động tố tụng trong mỗi
giai đoạn nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của BLTTHS năm 2003.
1.1. Khái niệm về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra:
Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của trƣờng Đại học Luật
Hà Nội năm 2018 thì: "Điều tra là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ
quan có thẩm quyền điều tra áp dụng mọi biện pháp do luật định để xác định
tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác làm cơ sở
cho việc giải quyết vụ án"1.
Giai đoạn điều tra giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình
sự mà trong đó cơ quan Điều tra áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố chứng cứ
để chứng minh tội phạm, xác định ngƣời thực hiện hành vi phạm tội, nguyên
nhân và điều kiện phạm tội, xác định thiệt hai do tội phạm gây ra và các tình
tiết ảnh hƣởng đến trách nhiệm hình sự và hình phạt đối ngƣời thực hiện tội
phạm, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thƣờng thiệt hại về vật chất do tội
phạm gây nên. Trên cơ sở kết quả điều tra, CQĐT ra Bản kết luận điều tra đề
nghị truy tố hoặc ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra trong
trƣờng hợp có căn cứ do pháp luật quy định.

1

Trƣờng Đại học Luật Hà Nội(2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.307.


9


Nói cách khác, kết quả điều tra chính là cơ sở để viện kiểm sát quyết
định truy tố bị can trƣớc tòa án hoặc quyết định khác để giải quyết vụ án, từ
đó là cơ sở để tòa án xét xử đúng ngƣời đúng tội. Không có kết quả điều tra
của giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát không thể truy tố, Tòa án không thể xét
xử vụ án và vụ án không thể đƣợc giải quyết một cách xác đáng.
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện hoạt động điều tra, do nhiều nguyên
nhân khác nhau mà việc điều tra không thể tiếp tục tiến hành đƣợc, nếu cứ
điều tra sẽ ảnh hƣởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can
hoặc làm cho kết quả điều tra không chính xác. Đó là các trƣờng hợp việc
khởi tố vụ án không có căn cứ hoặc đã hết thời hạn điều tra mà không chứng
minh đƣợc bị can đã thực hiện tội phạm, thì Cơ quan điều tra ra bản kết luận
điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Nếu Cơ quan điều tra phát hiện bị can
bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo có chứng nhận của hội đồng giám
định pháp y hoặc không xác định đƣợc bị can hoặc không biết bị can đang ở
đâu theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, cơ quan điều tra phải ra Quyết
định tạm đình chỉ điều tra2. Thông qua những quy định về tạm đình chỉ và
đình chỉ điều tra, cơ quan điều tra tạm ngừng hoặc kết thúc hoạt động điều tra
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, ngƣời bị hại.
Hiện nay, trong Bộ luật tố tụng hình sự, chỉ có quy định về căn cứ, thẩm
quyền, trình tự, thủ tục tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự chứ chƣa đƣa ra
khái niệm thế nào là tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự. Do vậy, ở mỗi góc
độ tiếp cận vấn đề khác nhau, mỗi nhà lý luận và thực tiễn đƣa ra những quan
niệm khác nhau về khái niệm tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự, theo đó, các

2

Trƣờng Đại học Luật Hà Nội(2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr.8,9.



10

quan điệm này cũng có phạm vi khái niệm cũng nhƣ tính khoa học, tính thực
tiễn phù hợp với khái niệm khác nhau.
Nhìn chung phần lớn các quan điểm hiện nay đều chƣa đƣa ra đƣợc một
khái niệm chính xác và đầy đủ nhất về tạm đình chỉ điều tra. Các quan điểm
này hoặc là chƣa chính xác, chƣa thể hiện rõ đƣợc bản chất pháp lý, chủ thể
có thẩm quyền ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra, cho rằng: Tạm đình chỉ
điều tra chỉ đơn giản là "hình thức tạm ngừng vụ án hình sự ở giai đoạn điều
tra"3; hoặc là chỉ ra đối tƣợng tạm đình chỉ điều tra là vụ án và bị can, chỉ ra
hậu quả pháp lý của Quyết định tạm đình chỉ điều tra là làm ngừng các hoạt
động điều tra nhƣng chƣa chỉ ra đƣợc chủ thể có thẩm quyền ra Quyết định
tạm đình chỉ điều tra, định nghĩa tạm đình chỉ điều tra là “tạm ngừng tiến
hành điều tra trong một thời gian đối với vụ án hoặc đối với từng bị can" 4;
hoặc là nhìn nhận tạm đình chỉ điều tra là một giai đoạn điều tra và phản ánh
hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ điều tra chƣa đƣa ra đƣợc đối tƣợng của tạm
đình chỉ điều tra, cho rằng: Tạm đình chỉ điều tra là “một giai đoạn điều tra,
mà do những lý do khách quam cơ quan điều tra phải tạm dừng các hoạt động
điều tra, nhƣng chƣa đƣa ra những kết luận cuối cùng về kết quả điều tra,
chƣa khẳng định về việc có tiếp tục điều tra hay không”5.
Một khái niệm toàn diện và đầy đủ về tạm đình chỉ điều tra, cần phản
ảnh đƣợc:
Thứ nhất: Đối tƣợng của tạm đình chỉ điều tra là vụ án và bị can.

3

Trung tâm biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách khoa (tập 2), Hà Nội, tr.515.
Mai Thanh Hiếu, Nguyễn Chí Công (2007), Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự, Nxb Lao động - xã
hội, tr.314.
5

Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự , Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.466.
4


11

Trong trƣờng hợp vụ án có nhiều bị can mà có căn cứ để tạm đình chỉ
đối với một hoặc một số bị can và việc tạm đình chỉ đối với một hoặc một số
bị can đó không làm ảnh hƣởng tới việc giải quyết vụ án hình sự thì cơ quan
điều tra ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án đối với từng bị can có căn
cứ tạm đình chỉ đó.
Khi quyết định tạm đình chỉ điều tra, CQĐT sẽ tạm ngừng các hoạt động
điều tra đang tiến hành đối với vụ án hoặc đối với một số bị can cho tới khi có
căn cứ để hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ điều tra (bị can đã chữa trị khỏi
bệnh hoặc đã xác định đƣơc bị can hoặc bắt đƣợc bị can bỏ trốn).
Hai là: Tạm đình chỉ điều tra là một quyết định thuộc thẩm quyền của
Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra.
Tạm đình chỉ điều tra là hoạt động tố tụng đƣợc pháp luật tố tụng hình sự
quy định cho cơ quan điều tra nhằm tạm ngừng các hoạt động điều tra khi
xuất hiện những lí do khách quan không thể tiếp tục tiến hành các hoạt động
điều tra, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can.
Ba là: Quyết định tạm đình chỉ điều tra chỉ đƣơc thực hiện khi có căn cứ
do pháp luật quy định. Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định cụ thể về các căn
cứ tạm đình chỉ điều tra.
Khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, cơ quan điều tra phải chỉ rõ căn
cứ đã áp dụng để tạm đình chỉ điều tra. Nếu cơ quan điều tra ra quyết định
tạm đình chỉ điều tra không dựa trên các căn cứ luật định thì bị coi là vi phạm
pháp luật và sẽ bị Viện kiểm sát hủy bỏ, yêu cầu phục hồi điều tra.
Qua việc phân tích những đặc điểm của tạm đình chỉ điều tra, có thể đua

ra khái niệm tạm đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự nhƣ sau: Tạm đình chỉ
điều tra là biện pháp tố tụng cơ quan điều tra áp dụng để tạm ngừng hoạt
động điều tra đối với vụ án hoặc bị can khi có những căn cứ theo luật định.


12

Cũng nhƣ việc tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự, đình chỉ điều tra đã
đƣợc quy định từ lâu trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, tuy nhiên,
hiện nay vẫn chƣa có cách hiểu thống nhất về khái niệm này, vẫn còn tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm đình chỉ điều tra. Cụ thể còn tồn tại
một số quan điểm khác nhau nhƣ sau:
Theo Từ điển Bách khoa “Đình chỉ vụ án là việc CQTHTT quyết định
kết thúc vụ án khi có những căn cứ luật định”6.
Theo tác giả Đinh Văn Quế “Đình chỉ điều tra là quyết định của CQĐT
chấm dứt một giai đoạn tố tụng hình sự (giai đoạn điều tra) đối với vụ án hoặc
đối với một hoặc một số bị can trong vụ án”7.
Theo tác giả Mai Bộ “Đình chỉ vụ án là chấm dứt hoạt động tố tụng hình
sự đối với vụ án hoặc đối với một hoặc một số bị can, bị cáo trong vụ án” 8.
Tác giả Ngô Quang Chính cho rằng “Đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án
đều là một trong những biện pháp của tố tụng hình sự do CQTHTT áp dụng
khi có đủ căn cứ theo luật định”9.
Theo Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam thì “Quyết
định đình chỉ vụ án là việc cơ quan tiến hành tố tụng hình sự quyết định chấm
dứt việc giải quyết theo trình tự tố tụng hình sự đối với vụ án hoặc đối với bị
can, bị cáo khi có căn cứ theo quy định của pháp luật”10.
Theo Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của trƣờng Đại học Luật
Hà Nội thì “Đình chỉ điều tra là chấm dứt việc điều tra vụ án hoặc với từng bị
6


Viện chiến lƣợc và khoa học Bộ Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, tr.281.
7
Đinh Văn Quế (1999), “Thực tiễn áp dụng pháp luật về đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra”, Tạp chí
Kiểm sát, tr.28.
8
Mai Bộ (1999), “Một số ý kiến về quyền đình chỉ vụ án”, Tạp chí Kiểm sát, tr.25.
9
Ngô Quang Chính (1994), “Đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án”, Tạp chí Kiểm sát, tr.13.
10
Nguyễn Ngọc Anh và đồng nghiệp (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, tr. 404.


13

can”11 và “Đình chỉ vụ án là quyết định chấm dứt việc tiến hành tố tụng đối
với vụ án hoặc với từng bị can”12.
Cũng nhƣ khái niệm tạm đình chỉ điều tra, khái niệm đình chỉ điều tra
hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, đƣợc tiếp cận dƣới những
góc độ khác nhau, phạm vi khác nhau. Các quan điểm trên tuy diễn đạt bằng
nhiều cách khác nhau nhƣng đều đƣa ra đƣợc những đặc điểm chung về đình
chỉ điều tra là: hình thức kết thúc hoạt động điều tra, dựa trên những lý do và
căn cứ do pháp luật quy định.
Để đƣa ra khái niệm toàn diện và đẩy đủ về đình chỉ điều tra cần phải
làm rõ các đặc điểm sau:
Một là: Đình chỉ điều tra là một hình thức kết thúc hoạt động điều tra.
Việc điều tra kết thúc khi Cơ quan điều tra ra Bản kết luận điều tra đề
nghị truy tố hoặc ra Bản kết luận điều tra và Quyết định đình chỉ điều tra. Nhƣ
vậy, đình chỉ điều tra là một trong hai hình thức kết thúc điều tra. Khi Cơ

quan điều tra kết thúc các hoạt động điều tra cần thiết mà vẫn không có căn
cứ chứng minh bị can đã thực hiện tội phạm hoặc có căn cứ chứng minh bị
can đã thực hiện hành vi phạm tội nhƣng lại xuất hiện các căn cứ đình chỉ
điều tra thì Cơ quan điều tra phải ra Quyết định đình chỉ điều tra. Đến thời
điểm này, mọi hoạt động điều tra đang tiến hành đối với vụ án hoặc đối với
một hoặc một số bị can phải chấm dứt.
Hai là: Đình chỉ điều tra là một quyết định thuộc thẩm quyền của Cơ
quan điều tra đƣợc áp dụng trong giai đoạn điều tra.

11

Trƣờng Đại học Luật Hà Nội(2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.318.
12
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội(2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.338.


14

Ba là: Đình chỉ vụ án hình sự phải dựa vào những căn cứ, thẩm quyền,
trình tự, thủ tục đƣợc quy định tại BLTTHS. Trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, CQTHTT phải dựa vào những căn cứ đã đƣợc quy định trong
BLTTHS, chứ không thể tùy nghi áp dụng các căn cứ để ra quyết định đình
chỉ vụ án. Đồng thời, việc đình chỉ vụ án phải do ngƣời có thẩm quyền ra
quyết định theo trình tự, thủ tục đƣợc quy định trong BLTTHS.
Bốn là: Đối tƣợng của đình chỉ điều tra là vụ án hoặc bị can.
Khi có căn cứ để đình chỉ điều tra đối với vụ án nhƣ không có sự việc
phạm tội hoặc trong vụ án có một bị can mà có căn cứ để đình chỉ điều tra đối
với bị can đó nhƣ bị can chƣa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi không

cấu thành tội phạm, hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự… thì Cơ quan
điều tra ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Trong vụ án có nhiều bị can mà có căn cứ để đình chỉ điều tra đối với
từng bị can nhƣ bị can chƣa đến tuổi chịu TNHS, bị can đã chết…mà việc
đình chỉ đối với bị can đó không liên quan đến các bị can khác thì CQĐT ra
Quyết định đình chỉ điều tra đối với từng bị can có căn cứ đình chỉ đó.
Nhƣ vậy, bản chất của việc đình chỉ điều tra là chấm dứt các hoạt đông
điều tra.
Qua việc phân tích những đặc điểm của đình chỉ điều tra có thể đƣa ra
khái niệm đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự nhƣ sau: Đình chỉ điều tra là
một hình thức kết thúc hoạt động điều tra mà theo đó CQĐT ra quyết định
chấm dứt hoạt động tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc đối với bị can, bị
cáo khi có những căn cứ theo luật định.


15

1.2. Ý nghĩa của tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra:
Tạm đình chỉ điều tra là việc tạm ngừng tiến hành các hoạt động điều tra
đối với vụ án hoặc đối với bị can vì những lý do nhất định. Ý nghĩa của việc
quy định về tạm đình chỉ điều tra là nhằm hạn chế tối đa khả năng kéo dài
thời hạn điều tra khi không cần thiết, đồng thời khắc phục việc lạm dụng thời
hạn điều tra. Quy định về tạm đình chỉ điều tra còn nhằm khắc phục hiện
tƣợng quá tải, tồn động án ở khâu điều tra khi có những yếu tố bất khả kháng,
để giảm bớt nhu cầu sử dụng lực lƣợng điều tra và giảm tối đa những chi phí
vật chất không cần thiết cho hoạt động tố tụng này. Mặt khác, tạm đình chỉ
điều tra còn là một giải pháp có ý nghĩa chủ động trong việc đề phòng những
oan sai có thể xảy ra trong thực tiễn điều tra. Việc tạm đình chỉ điều tra sẽ
giúp cơ quan điều tra giảm bớt khả năng phải xin gia hạn điều tra, khi không
cần thiết phải kéo dài thời hạn chờ đợi để tiến hành các hoạt động điều tra cần

thiết.
Về đình chỉ điều tra: Quá trình tiến hành tố tụng một vụ án hình sự trải
qua lần lƣợt các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và đều
hƣớng tới mục đích giải quyết các vụ án khách quan, toàn diện đúng pháp luật
theo tinh thần của pháp luật “Mọi hành vi phạm tội phải đƣợc phát hiện kịp
thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật”, “Mọi công dân đều
bình đẳng trƣớc pháp luật…Bất cứ ngƣời nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp
luật”. Chế định đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự cũng không ngoài
những mục đích nêu trên.
Chế định đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự đƣợc đánh giá là một
trong những chế định có ý nghĩa sâu sắc. Bởi lẽ, chế định đình chỉ điều tra
minh chứng cho mỗi ngƣời dân thấy rằng quyền và lợi ích của họ luôn đƣợc
bảo vệ kịp thời, khắc phục đƣợc định kiến của các cơ quan tiến hành tố tụng


16

đối với bị can, cho rằng họ là ngƣời phạm tội nên trong quá trình giải quyết
vụ án chỉ thu thập chứng cứ buộc tội mà bỏ qua chứng cứ gỡ tội. Hơn nữa,
chế định đình chỉ điều tra đã thiết lập sự công bằng giữa lợi ích công và lợi
ích riêng của cá nhân con ngƣời, ngƣời bị hại, ngƣời bị khởi tố. Dƣới góc độ
nhân đạo và bảo vệ quyền con ngƣời trong tƣ pháp hình sự, không phải bất kỳ
trƣờng hợp nào ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự
quy định là tội phạm, bị xã hội lên án và đáng bị xử lý về hình sự đều phải
chịu trách nhiệm hình sự. Vẫn có trƣờng hợp xét thấy không phải áp dụng
trách nhiệm hình sự mà các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền đình chỉ điều
tra miễn trách nhiệm cho ngƣời đó trên cơ sở pháp luật quy định. Làm nhƣ
vậy vẫn có thể đáp ứng đƣợc yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm,
cũng nhƣ công tác giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội và phù hợp với nguyên
tắc nhân đạo của luật hình sự. Hơn nữa, chế định đình chỉ điều tra còn là một

giải pháp có ý nghĩa chủ động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của ngƣời dân, giúp hạn chế những sai sót trong quá trình nhận thức, đánh giá
những tình tiết khách quan về vụ việc xảy ra mang dấu hiệu hình sự. Về mặt
pháp lý, đình chỉ điều tra còn là mốc thời gian xác lập một trong những giới
hạn cần thiết của quá trình điều tra, truy tố. Đến một thời điểm nào đó đối với
một số vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng không thể điều tra, làm rõ đƣợc hành
vi, sự kiện phạm tội thì biện pháp đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra là giải
pháp chấm dứt mọi hoạt động điều tra đối với vụ án đó.
Tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra góp phần đáp ứng những đòi hỏi của
Nhà nƣớc pháp quyền, đồng thời thể hiện vai trò của Nhà nƣớc trong viêc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân, củng cố lòng tin của
nhân dân vào hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung
và hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra nói riêng. Việc quy định về tạm
đình chỉ và đình chỉ điều tra có ý nghĩa nhằm khắc phục những sai lầm có thể


17

xảy ra trong quá trình nhận thức của CQĐT, đảm bảo vụ án đƣợc xử lý khách
quan, chính xác không bỏ lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội. Đồng
thời, thiết lập sự công bằng cần thiết giữa lợi ích công và lợi ích riêng của cá
nhân con ngƣời (ngƣời bị hại, ngƣời bị khởi tố), điều này đƣợc thể hiện rõ
trong trƣờng hợp đình chỉ điều tra do ngƣời bị hại rút yêu cầu khởi tố. Việc
tạm ngừng hoặc chấm dứt các hoạt động điều tra là cần thiết để đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Thông qua đó nâng cao uy tín của cơ quan tiến
hành tố tụng nói chung và cơ quan điều tra nói riêng, củng cố niềm tin của
nhân dân đối với Nhà nƣớc và cơ quan tiến hành tố tụng.
Bên cạnh đó, tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong Tố tụng hình sự, là cơ sở để Cơ quan điều tra tạm ngừng hoặc kết
thúc các hoạt động điều tra đối với những vụ án phức tạp mà ngay trong

khoảng thời gian đó CQĐT chƣa thể làm sáng tỏ đƣợc nội dung vụ án, chƣa
xác định đƣợc ngƣời phạm tội, nếu tiếp tục tiến hành điều tra không những
không thu đƣợc kết quả gì mà còn gây lãng phí, tốn kém cho Nhà nƣớc.
1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tạm đình chỉ
và đình chỉ điều tra vụ án hình sự:
1.3.1. Quy định về tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự:
1.3.1.1. Căn cứ tạm đình chỉ điều tra:
Nhìn chung, so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, các căn cứ tạm
đình chỉ điều tra đƣợc quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không
có nhiều thay đổi. Điều 229 BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể tách

bạch so với Điều 160 BLTTHS năm 2003 về các trƣờng hợp Cơ quan
điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, đồng thời quy định bổ sung
thêm trƣờng hợp: khi yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nƣớc ngoài tƣơng


18

trợ tƣ pháp nhƣng chƣa có kết quả mà đã hết thời hạn điều tra. Quy định
trên để phù hợp với thực tiễn cũng nhƣ đồng bộ với những nội dung đã
đƣợc sửa đổi bổ sung ở những điều luật khác trong Bộ luật. Bên cạnh đó,
Điều luật cũng quy định rõ hơn về thời hạn để tạm đình chỉ điều tra với
từng trƣờng hợp cụ thể cũng nhƣ việc gửi văn bản tạm đình chỉ điều tra
tới Viện kiểm sát các cấp, bị can, ngƣời bào chữa hoặc ngƣời đại diện
của bị can, thông báo cho bị hại, đƣơng sự và ngƣời bảo vệ quyền lợi
của họ.
Khoản 1 Điều 229 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
“1. Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra khi thuộc một
trong các trường hợp:
a) Khi chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu

nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án. Trường hợp không biết rõ bị can đang ở
đâu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều
tra;
b) Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần
hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn
điều tra;
c) Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước
ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra.
Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn
tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.”.
Theo quy định này, Cơ quan điều tra ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra
khi có một trong các căn cứ sau:


×