Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Thực tiễn hòa giải vụ án dân sự tại các tòa án nhân dân ở tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
---------------------

LÊ THU PHƢƠNG

THỰC TIỄN HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI
CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
---------------------

LÊ THU PHƢƠNG

THỰC TIỄN HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI
CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự


Mã số: 8380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phan Hữu Thƣ

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Lê Thu Phƣơng


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng

Trang

Bảng 2.1. Kết quả giải quyết các vụ án dân sự của hai cấp Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Sơn La (từ năm 2013 đến năm 2017).

38



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. BLDS

: Bộ luật dân sự

2. BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

3. TAND

: Tòa án nhân dân

4. TTDS

: Tố tụng dân sự

5. UBND

: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
Chƣơng 1.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM .............................. 7
I. Những vấn đề chung về hòa giải vụ án dân sự ......................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của vụ án dân sự ............................... 7

1.1.1. Khái niệm hòa giải vụ án dân sự ........................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của hòa giải vụ án dân sự....................................................... 9
1.1.3. Ý nghĩa của hòa giải vụ án dân sự ........................................................ 10
1.2 . Cơ sở của hòa giải vụ án dân sự .......................................................... 12
1.2.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................... 12
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 13
II. Hòa giải vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự việt nam hiện
hành ................................................................................................................ 14
1.1. Nguyên tắc hòa giải vụ án dân sự ......................................................... 14
1.1.1. Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án ....................................... 14
11.2. Nguyên tắc tiến hành hòa giải ............................................................... 16
1.2. Phạm vi các vụ án mà Tòa án tiến hành hòa giải ................................. 18
1.2.1. Những vụ án dân sự không được hòa giải ............................................ 18
1.2.2. Những vụ án không tiến hành hòa giải được ...................................... 20
1.2.3. Vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn........................................... 23
1.3. Thành phần phiên hòa giải vụ án dân sự .............................................. 23
1.3.1. Các chủ thể tiến hành hòa giải ............................................................. 23
1.3.2. Chủ thể tham gia hòa giải ..................................................................... 24
1.4. Thủ tục hòa giải vụ án dân sự ................................................................ 31
1.4.1.Thủ tục hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm .................... 31


Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 37
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG HÒA GIẢI CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI CÁC
TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH SƠN LA VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI VỤ ÁN
DÂN SỰ .......................................................................................................... 38
2.1. Thực trạng hòa giải vụ án dân sự tại các Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La
......................................................................................................................... 38
2.1.1. Kết quả đạt được ................................................................................... 38

2.1.2. Những hạn chế, vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn hòa giải tại Tòa
án nhân dân tỉnh Sơn La ................................................................................. 40
2.2 Một số kiến nghị hoàn thiện và thực hiện pháp luật về hòa giải vụ án
dân sự .............................................................................................................. 57
2.2.1 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật để hòa giải vụ án dân sự ..................... 57
2.2.2 Kiến nghị về phần thực hiện pháp luật hòa giải vụ án dân sự .............. 62
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế chung của hội nhập toàn cầu, Việt Nam có chủ trương xây
dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện công cuộc cải cách, đổi mới một cách
toàn diện và sâu sắc theo quy luật cạnh tranh của kinh tế thị trường. Sự thay
đổi đã tạo nên một “bộ mặt” mới cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, thì các tranh chấp dân sự, kinh doanh
thương mại, lao động cũng ngày càng gia tăng nhưng hầu hết các đương sự
đều tỏ ra e ngại khi phải đưa vụ kiện lên Tòa án. Đa số họ thích hòa giải hơn
là khởi kiện, đặc biệt đối với các tranh chấp dân sự bởi hòa giải là một truyền
thống tốt đẹp trong việc giải quyết những mâu thuẫn và hòa giải được xem là
một giải pháp để giải quyết tranh chấp được ưa chuộng hơn cả từ trước tới
nay. Biện pháp này góp phần hạn chế những tranh chấp phát triển phức tạp,
gìn giữ sự hòa thuận cho từng gia đình, bình yên cho xóm làng, trật tự, kỷ
cương an toàn xã hội, củng cố khối đoàn kết cộng đồng. Nếu như tranh chấp
được xem như là những biểu hiện tiêu cực phá vỡ sự hòa thuận và bình yên
của cộng đồng thì hòa giải được xem như là mặt tích cực, là sự gìn giữ, củng

cố trật tự công cộng. Hiện nay, nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế
giới đang có xu hướng sử dụng hòa giải nhiều hơn, đặc biệt là hòa giải trong
tố tụng tư pháp như một biện pháp giải quyết tranh chấp bởi nó có nhiều ưu
điểm hơn so với các biện pháp giải quyết tranh chấp khác.
Vấn đề hòa giải vụ án dân sự đã được quy định trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật do Nhà nước ta ban hành từ trước tới nay như Sắc lệnh số
85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng; Thông tư
số 25/TATC ngày 30/11/1974 của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) hướng
dẫn về công tác hòa giải trong TTDS, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994,
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động năm 1996,… Các quy định về
hòa giải được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) Việt Nam
năm 2004 được sửa đổi bổ sung năm 2011 ( BLTTDS năm 2011) và tiếp tục
được hoàn thiện trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015)


2

đã đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình hoàn thiện hệ thống các quy
định về hòa giải vụ án dân sự.
Mặc dù, một số những hạn chế trong các quy định về hòa giải trong
BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã được khắc phục trong
BLTTDS năm 2015 nhưng việc nghiên cứu, tìm hiểu rõ về những điểm mới
của các quy định này để triển khai trên thực tế, tiếp tục phát hiện những hạn
chế, thiếu sót của pháp luật gây khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn công tác
hòa giải, làm cơ sở cho việc đề xuất hoàn thiện pháp luật có ý nghĩa cả về lí
luận và thực tiễn. Ngoài ra, việc nghiên cứu chuyên sâu cả về lý luận, pháp
luật và thực tiễn để từ đó đề xuất những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho công
tác hòa giải vụ án dân sự tại những tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa như tỉnh
Sơn La là một việc làm đặc biệt có ý nghĩa. Với nhận thức như vậy, tác giả đã

lựa chọn đề tài : “Thực tiễn hòa giải vụ án dân sự tại các Tòa án nhân dân ở
tỉnh Sơn La” làm đề tài cho luận văn thạcsỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hòa giải là một vấn đề quan trọng trong việc giải quyết các vụ án dân sự
tại Tòa án. Vì vậy, ngoài việc được Nhà nước quan tâm quy định trong các
văn bản về pháp luậtTTDS thì cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa
học pháp lý nghiên cứu về vấn đề này. Có thể thống kê một số luận văn, luận
án tiêu biểu sau đây:
Luận văn thạc sỹ luật học: “Hòa giải trong tố tụng dân sự - thực tiễn và
hướng hoàn thiện” , của Bùi Đăng Huy, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1996.
Luận văn thạc sỹ luật học: “Hòa giải trong tố tụng dân sự” của Trương
Kim Oanh, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Trung tâm khoa học Xã
hội và Nhân văn, 1996.
Luận án tiến sỹ luật học: “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại
Tòa án ở Việt Nam”, của Đào Thị Xuân Lan, Viện nghiên cứu Nhà nước và
Pháp luật, Hà Nội, 2004.
Luận án tiến sỹ luật học: “Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân
sự, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, của Trần Văn Quảng, Trường Đại học
Luật Hà Nội, 2004.


3

Bên cạnh các công trình nghiên cứu dưới hình thức luận văn, luận án, thì
vấn đề lý luận về hòa giải cũng được khái quát trong giáo trình luật Tố tụng
dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh v.v… Ngoài ra, còn một số bài viết về thực tiễn hòa giải các vụ án
dân sự của các tác giả được đăng lên Tạp chí TAND, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật; Tạp chí Kiểm sát, Báo Công lý; như: “Hoàn thiện chế định hòa
giải trong tố tụng dân sự”, của Đào Thị Mai Hường, Tạp chí TAND, số 01,

1998; “Hòa giải và tự thỏa thuận trong tố tụng dân sự, kinh tế và lao động”,
của Phan Hữu Thư, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 02, 1999; “Vai trò và
thủ tục hòa giải trong xét xử các tranh chấp lao động”, của Lê Văn Luật, Tạp
chí TAND, số 16, 2004; “Việc áp dụng các quy định về hòa giải trong tố tụng
dân sự”, của Nguyễn Thị Thanh Hương, Tạp chí Kiểm sát, số 05, 2006; “Tòa
án ra quyết định phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các đương sự”, của
Nguyễn Quốc Phong, Báo Công lý, số 72, ngày 06/09/2008; “Hòa giải trong
tố tụng dân sự của Việt Nam và Nhật Bản nhìn từ góc độ so sánh” của Dương
Quỳnh Hoa, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 02, 2008.
Mỗi công trình và mỗi bài viết trên nghiên cứu về hòa giải trong TTDS ở
một khía cạnh riêng, nhưng phần lớn các công trình trên đều được tiếp cận
nghiên cứu trước khi BLTTDS được ban hành năm 2015. Hòa giải vụ án dân
sự được hoàn thành trên cơ sở kinh tế - xã hội, phản ảnh sâu sắc các yếu tố
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đương thời. Vì vậy, chế định hòa giải luôn
vận động và phát triển một cách khách quan trước yêu cầu của đời sống xã
hội. Việc ban hành BLTTDS năm 2015 là một bước phát triển vượt bậc của
hệ thống pháp luật TTDS, trong đó có hòa giải vụ án dân sự. Có thể nói, từ
khi BLTTDS năm 2015 ra đời đến nay, chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách đầy đủ, toàn diện và chuyên sâu về hòa giải vụ án dân sự dưới
góc độ là một hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành để giải quyết tranh chấp
giữa các bên. Vì vậy, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: “Thực tiễn hòa giải vụ án
dân sự tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La” làm đề tài luận văn thạc sỹ
của mình, với mong muốn nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện cũng như
khảo sát thực tế thực hiện các quy định của pháp luật TTDS về vấn đề hòa
giải tại các TAND của tỉnh Sơn La, để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm


4

hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện có hiệu quả hoạt động hòa giải vụ

án dân sự trên thực tế.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về hòa giải như
khái niệm, bản chất, ý nghĩa, cơ sở của hòa giải vụ án dân sự, các quy định
của pháp luật Việt Nam về hòa giải vụ án dân sự và việc áp dụng chúng trên
thực tiễn nhằm tìm kiếm những giải pháp giải quyết những bất cập của các
quy định này để nâng cao hiệu quả của công tác hòa giải vụ việc cơ sở trong
TTDS.
Trong khuôn khổ của một luận văn cao học, đề tài chủ yếu giới hạn việc
nghiên cứu hòa giải trong pháp luật Việt Nam hiện hành (BLTTDS năm
2015) và có so sánh với các quy định trước đây. Việc nghiên cứu thực tiễn
chủ yếu tiến hành đối với công tác hòa giải tại các Tòa án trên địa bàn tỉnh
Sơn La từ năm 2013 đến nay.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý Nhà nước, quản lý xã hội cũng như
chủ trương, quan điểm về việc xây dựng BLTTDS.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, lịch sử,
quy nạp, khảo sát thăm dò lấy ý kiến trong phạm vi những người làm công tác
thực tiễn, nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung luận văn.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện các mục đích :
Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, nội dung các quy định của pháp
luật TTDS Việt Nam hiện hành về hòa giải vụ án dân sự .


5


Hai là, tìm hiểu về thực tiễn thực hiện các quy định này trong hoạt động
hòa giải các vụ án dân sự tại các TANDở tỉnh Sơn La. Mặt khác, tìm ra những
hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật về hòa giải vụ án dân sự khi áp
dụng trên thực tiễn,để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục và nâng
cao hiệu quả của việc hòa giải các vụ án dân sự tại các Tòa án.
Để thực hiện những mục tiêu ở trên, luận văn phải hoàn thành một số
nhiệm vụ sau:
Một là, nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật TTDS về hòa giải vụ
án dân sự, so sánh những quy định của BLTTDShiện hành và BLTTDS trước
đây, đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về hòa
giải vụ án dân sự nếu có.
Hai là, khảo sát thực tiễn thực hiện hoạt động hoà giải vụ án dân sự và chỉ
ra những hạn chế khó khăn vướng mắc trong thực tiễn thực hiện hoạt động
này trong thực tiễn.
Ba là, trên cơ sở những hạn chế, bất cập của pháp luật và những hạn chế,
khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện hòa giải vụ án dân sự, đề xuất
những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật và
thực hiện có hiệu quả hoạt động hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Có thể nói đề tài luận văn là công trình khoa học khá toàn diện, có hệ
thống và mới nhất ở cấp độ luận văn thạc sỹ về hòa giải vụ án dân sự trong
TTDS. Đề tài luận văn có những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn sau
đây:
Một là, làm rõ khái niệm hòa giải vụ án dân sự theo pháp luật trong TTDS
và cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của hòa giải vụ án dân sự trong TTDS .
Hai là, làm rõ nội dung cơ bản của hoạt động hòa giải vụ án dân sự của
Tòa án theo pháp luật thông qua các quy định có liên quan trong BLTTDS
năm 2015.



6

Ba là, chỉ ra được những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật hòa
giải vụ án dân sự trong TTDS qua thực trạng hòa giải các vụ án dân sự tại các
Tòa án ở tỉnh Sơn La. Những kết quả đạt được và hạn chế, vướng mắc, khó
khăn trong thực tiễn thực hiện hoạt động hòa giải vụ án dân sự.
Bốn là, đề xuất được những kiến nghị xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ
chức thực hiện có hiệu quả hoạt động hòa giải vụ án dân sự trong TTDS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội
dung cụ thể của luận văn được kết cấu thành 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về hòa giải vụ án dân sự theo pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn hòa giải vụ án dân sự tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh
Sơn La và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động hòa giải
vụ án dân sự.


7

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
I.
Những vấn đề chung về hòa giải vụ án dân sự
1.1 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của vụ án dân sự
1.1.1 Khái niệm hòa giải vụ án dân sự
Hòa giải vụ án dân sự là một phương thức giải quyết tranh chấp và
những diễn biến trong đời sống xã hội. Trong khoa học pháp lý, hòa giải được

hiểu ở nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ là một thủ tục giải quyết tranh chấp thì thủ tục hòa giải là
vụ án dân sự mà các bên tham gia, bao gồm các bên tranh chấp và bên trung
gian hòa giải cần tuân theo để đạt được tự nguyện thỏa thuận giải quyết mâu
thuẫn, tranh chấp đang tồn tại giữa các bên.
Dưới góc độ pháp lý, hòa giải là một chế định pháp luật. Theo giáo
trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội thì:
“Chế định pháp luật là một tập hợp các cấu trúc từ nhóm các quy phạm pháp
luật địnhhình nhóm quan hệ xã hội có liên quan mật thiết với nhau”1. Theo
định nghĩa này, chế định hòa giải là một tập hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hòa giải để giải quyết tranh
chấp.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, người viết chỉ chú trọng
nghiên cứu hòa giải dưới góc độ là một hoạt động giải quyết tranh chấp. Tuy
nhiên,ngay cả ở góc độ là một hoạt động giải quyết tranh chấp thì trước đây
cũng như hiện nay cũng vẫn có nhiều quan điểm về hòa giải, cụ thể như:Theo
Từ điển tiếng Việt thì “Hòa giải là việc thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt
xung đột, xích mích một cách ổn thỏa”2.Theo quan điểm của các tố tụng gia
Nhật Bản đã được ghi nhận trong pháp luật thì: “Hòa giải là một bước củng
cố thỏa thuận giải quyết tranh chấp thông qua sự nhượng bộ giữa các
1
2

Giáo trình lý luận Nhà nước và Pháp luật, Đại học Luật Hà Nội, tr. 220.
Viện Ngôn ngữ học (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 340.


8

bên”3.Từ điển Luật học của Cộng hòa Pháp giải thích: “Hòa giải là phương

thức giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của người trung lập thứ ba (hòa
giải viên) để giúp đưa ra các đề nghị giải quyết một cách thân mật”4. Ngoài
ra, trong khoa học pháp lý, còn có nhiều quan điểm khác về hòa giải dưới góc
độ là một hoạt động giải quyết tranh chấp.
Từ các quan điểm trên có thể khái quát, hòa giải là quá trình các bên
đàm phán với nhau để giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của bên thứ ba.
Như vậy, khác với phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa
giải coi trọng vai trò của bên trung gian thứ ba giúp các bên tranh chấp đưa ra
phương hướng giải quyết, nhằm dung hòa quyền và lợi ích của cả hai bên để
từ đó đi đến thống nhất phương án giải quyết tranh chấp.
Khi việc giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba làTòa án cơ quan đại diện cho quyền lực Nhà nước thì việc giải quyết tranh chấp đó
phải tuân theo hình thức, trật tự, thủ tục do pháp luật tố tụng quy định, quyết
định, bản án do Tòa án tuyên tại mỗi giai đoạn của quá trình giải quyết tranh
chấp, đều được đảm bảo thi hành bằng quyền lực Nhà nước, phù hợp với quy
định của pháp luật TTDS và pháp luật về thi hành án.
Bên cạnh thủ tục hòa giải tại Tòa án, trên thực tế tồn tại nhiều hình thức
hòa giải khác nhau như hòa giải ở cơ sở, hòa giải ở UBND, …. Các hình thức
hòa giải này đều có đặc điểm chung là phương thức giải quyết tranh chấp phát
sinh trong đời sống dân sự, hình thức hòa giải đều có sự tham gia của chủ thể
thứ ba đóng vai trò trung gian và các bên tranh chấp có quyền quyết định
cũng như định đoạt khi tiến hành giải quyết tranh chấp bằng hòa giải. Tuy
vậy, các phương thức này cũng có những điểm khác biệt nhất định, về tính
chất bắt buộc, về chủ thể, phạm vi hòa giải và hiệu lực pháp luật của kết quả
hòa giải thành.
Như vậy, từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm hòa giải
vụ án dân sự dưới góc độ là một hoạt động giải quyết tranh chấp, theo đó, hòa
giải vụ án dân sự là hoạt động tố tụng dân sự với vai trò của Tòa án là bên
3

Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2002), Điều 695 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản, (Tài liệu tham

khảo), Hà Nội.
4
Presses Univ. De France - 2nd Edition (1990), Vocabulare Juridige (Từ Điển Luật học Pháp).


9

trung gian thứ ba giúp đỡ các đương sự thỏa thuận giải quyết tranh chấp
dân sự.
1.1.2 Đặc điểm của hòa giải vụ án dân sự
Với khái niệm nêu trên, có thể thấy hòa giải vụ án dân sự là một hoạt
động tố tụng đặc thù của tố tụng dân sự với các đặc điểm riêng biệt sau:
1.1.2.1. Hòa giải về bản chất là sự thỏa thuận của các đương sự
Mặc dù hòa giải vụ án dân sự là một hoạt động do Tòa án tiến hành
nhưng về bản chất hòa giải vẫn là sự thỏa thuận của các đương sự. Chỉ có các
đương sự mới có quyền hòa giải với nhau về tất cả những vấn đề đang cần
giải quyết của vụ án, bởi đương sự là những người có quyền lợi đang bị xâm
hại hoặc tranh chấp. Họ là người hiểu rõ hơn ai hết mâu thuẫn của chính họ.
khi tham gia quá trình hòa giải, các đương sự có quyền thương lượng, thỏa
thuận với nhau để giải quyết những bất đồng về quyền lợi của mình trên cơ sở
tự do, tự nguyện, nhất chí, thỏa thuận.
Mọi sự tác động từ bên ngoài trái với ý muốn của các đương sự đều bị
coi là trái pháp luật và không được công nhận. Trong trường hợp đương sự
không tự mình tham gia hòa giải thì có thể ủy quyền cho người khác đại diện
mình tham dự hòa giải. Người đại diện của đương sự có thể thay mặt đương
sự để thương lượng, thỏa thuận nhưng chỉ trong phạm vi đại diện và phải tuân
thủ theo đúng các quy định của pháp luật về đại diện. Tuy nhiên, đối với vụ
án ly hôn thì người đại diện theo pháp luật không có quyền hòa giải, bởi quan
hệ thân nhân phải do các đương sự tự quyết định. Đối với những trường hợp
do cơ quan tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người

khác, cơ quan tổ chức không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật tranh chấp
nên không có quyền hòa giải với bị đơn. Sự thỏa thuận của các đương sự phải
trong khuôn khổ pháp luật và chỉ được Tòa án công nhận khi không trái pháp
luật, không trái đạo đức xã hội.
1.2.2.2. Tòa án là chủ thể trung gian tiến hành hòa giải, có vai trò
quan trọng trong việc giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau


10

Hòa giải về bản chất là sự thỏa thuận của các đương sự nhưng Tòa án là
chủ thể không thể thiếu trong quá trình hòa giải đó. Tòa án tham gia vào quá
trình hòa giải với vai trò là người tổ chức, xác định thời gian, địa điểm, thành
phần, nội dung hòa giải, giải thích pháp luật và nội dung tranh chấp để các
đương sự thỏa thuận với nhau. Tòa án không can thiệp vào nội dung thỏa
thuận các bên đương sự.
Kết quả tự thỏa thuận của đương sự là do các đương sự thực hiện quyền
định đoạt của mình, nhưng kết quả này được xây dựng trên cơ sở các trình tự,
thủ tục chặt chẽ do Tòa án tiến hành. Mặc dù, chỉ là bên thứ ba giữ vai trò
trung gian nhưng Tòa án có một vai trò đặc biệt quan trọng, trong việc chuẩn
bị những điều kiện cần thiết, tạo ra cơ hội và định hướng cho các bên đương
sự thương lượng và thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
1.1.2.3. Hòa giải vụ án dân sự phải được tiến hành theo thủ tục do luật
tố tụng dân sự quy định
Hòa giải vụ án dân sự, cũng như các thủ tục tố tụng khác do Tòa án tiến
hành trên cơ sở quy định của pháp luật. Việc BLTTDS quy định thủ tục hòa
giải vụ án dân sự nhằm bảm đảm tính khách quan, công bằng, bảo đảm sự
bình đẳng của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Quy định của
pháp luật TTDS về thủ tục hòa giải là cơ sở đề tiến hành hòa giải các vụ án
dân sự,đồng thời bắt buộc Tòa án và những người khác tham gia hòa giải vụ

án dân sự phải tuân thủ các quy định về thủ tục triệu tập các đương sự tham
gia hòa giải, thông báo hòa giải, trình tự tiến hành hòa giải và thủ tục ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
1.1.3 Ý nghĩa của hòa giải vụ án dân sự
Thứ nhất, hòa giải vụ án dân sự đảm bảo quyền tự định đoạt của
đương sự trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án
Khi tranh chấp được đưa ra Tòa án thì toàn bộ quy trình, thủ tục giải
quyết vụ án sẽ phải tuân theo các quy định của pháp luật TTDS. Trong đó,
quyền tự định đoạt của đương sự luôn được Tòa án đảm bảo trong suốt quá
trình giải quyết tranh chấp.


11

Hòa giải vụ án dân sự là cơ hội để các đương sự có thể đưa ra quan
điểm giải quyết vụ áncủa cá nhân mình, đồng thời thông qua việc giải thích
pháp luật, phân tích và định hướng của Tòa án, các đương sự tự nhận thức
được quyền và nghĩa vụ của mình trong vụ án. Trên cơ sở đó, họ nhận thức
vàhành động phù hợp với quy định của pháp luật. Trong trường hợp không
hòa giải thành cũng giúp cho các đương sự kiềm chế mâu thuẫn và không làm
cho tranh chấp phát triển phức tạp hơn.
Thứ hai, ý nghĩa đối với Tòa án
Xét xử đúng là tốt nhưng không phải xét xử mà vẫn giải quyết được
tranh chấp còn tốt hơn, vì vậy hòa giải luôn được khuyến khích khi giải quyết
vụ án dân sự. Trong trường hợp hòa giải thành, Tòa án giảm bớt được nhiều
thủ tục tố tụng phức tạp và khó khăn như phiên tòa sơ thẩm, thủ tục phúc
thẩm, thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục tái thẩm và các thủ tục trong giai
đoạn thi hành án. Mặt khác, các quyết định của Tòa án công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự thường được thực hiện dứt điểm. Việc khiếu nại, kiến
nghị quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ít khi xảy ra. Mặt

khác, trong trường hợp hòa giải thành, các đương sự đã thỏa thuận được với
nhau về nội dung tranh chấp nên cũng thường tự nguyện thi hành các nghĩa
vụ của mình. Do đó, việc thi hành án dân sự cũng được thực hiện thuận lợi
hơn, góp phần giảm thiểu những vấn đề thi hành án tồn đọng.
Nếu trong trường hòa giải vụ án dân sự không thành, thì nội dung của
phiên hòa giải cũng giúp Thẩm phánhiểu rõ hơn về nguyên nhân và nội dung
tranh chấp. Đểtừ đó, củng cố hồ sơ vụ án, xác định đường lối xét xử đúng đắn
và hiệu quả xét xử được nâng cao.
Thứ ba, ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội
Tòa án hòa giải thành vụ án dân sự giúp các bên đương sự tự nguyện
thỏa thuận với nhau về cách giải quyết tranh chấp mà không cần phải mở
phiên tòa xét xử vụ án góp phần làm giảm bớt số lượng vụ việc mà Tòa án
phải giải quyết giúp tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức cho cơ quan
Nhà nước, cũng như cho nhân dân, hạn chế được việc phải sử dụng sức mạnh
cưỡng chếNhà nước trong công tác thi hành án.


12

Nhiều trường hợp hòa giải thành đã nhanh chóng khắc phục được bất
đồng, giảm bớt mâu thuẫn và hậu quả khác do tranh chấp gây ra, ngăn ngừa
tội phạm có nguồn gốc từ tranh chấp dân sự phát sinh, đồng thời khôi phục
được lòng tin, củng cố đoàn kết trong nội bộ nhân dân, thúc đẩy giao lưu dân
sự tiếp tục phát triển. Hòa giải góp phần quan trọng vào việc khơi dậy, phát
huy truyền thống đoàn kết của dân tộc ta, nâng cao nhận thức và hiểu biết về
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nâng cao trình độ dân trí, giáo
dục nếp sống và làm theo pháp luật trong nhân dân. Hòa giải thành còn giúp
cho việc thi hành án thuận lợi, mà không cần phải có sự cưỡng chế của cơ
quan Nhà nước và không có những hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Như vậy, hòa giải góp phần vào việc giữ gìn an ninh trật tự, công bằng

xã hội, làm cho mối quan hệ xã hội phát triển không phải bằng mệnh lệnh, mà
bằng giáo dục, thuyết phục và sự cảm thông của các thành viên trong xã hội.
1.2 Cơ sở của hòa giải vụ án dân sự
1.2.1 Cơ sở lý luận
Xuất phát từ việc giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội là mục đích
lớn nhất trong xã hội văn minh đề cao quyền con người thì phương thức thỏa
thuận giải quyết tranh chấp là phương thức thông minh nhất và được các chủ
thể trong quan hệ xã hội hướng tới. Bản chất của quan hệ dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh thương mại, lao động là sự tự nguyện, bình đẳng, tự thỏa
thuận và tự chịu trách nhiệm giữa các chủ thể khi tham gia vào các giao dịch
dân sự không bên nào được lừa dối, ép buộc, cưỡng ép bên kia xác lập, thực
hiện giao dịch trái với ý chí của họ. Trong quan hệ luật pháp này, các bên có
quyền thương lượng, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết quyền và nghĩa
vụ hợp pháp của mình khi có tranh chấp. Đồng thời, phạm vi ảnh hưởng của
quan hệ này chỉ mang tính riêng biệt đối với những đương sự có quyền và
nghĩa vụ liên quan và vị thế của các chủ thể là bình đẳng với nhau. Đây là một
đặc trưng của luật TTDS, mà không giống với quan hệpháp luật tố tụng hình
sự hayquan hệ pháp luật tố tụng hành chính.
Khi một trong các bên yêu cầu Tòa án - cơ quan đại diện quyền lực
Nhà nước giải quyết tranh chấp, thì Tòa án có nhiệm vụ giúp đỡ các bên


13

đương sự tìm kiếm một giải pháp ít tốn kém mà hiệu quả nhất trong việc thực
hiện các quyền dân sự theo nghĩa rộng. Hòa giải chính là giải pháp hiệu quả
nhất. Tòa án có trách nhiệm tạo mọi điều kiện cần thiết, hướng dẫn, giúp đỡ
các bên có thể thỏa thuận với nhau trên cơ sở đảm bảo quyền lợi cho các bên.
Trong suốt quá trình hòa giải, Tòa án luôn phải tôn trọng quyền quyết định và
quyền tự định đoạt của các bên đương sự. Tòa án chỉ giữ vai trò trung gian để

cho các đương sự tự thương lượng và thỏa thuận với nhau. Trên cơ sở kết quả
thương lượng, Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận cho các đương
sự theo quy định của pháp luật.
Như vậy, xuất phát từ sự bình đẳng giữa các bên trong quan hệ pháp
luật dân sự, đồng thời xuất phát từ vai trò của Nhà nước trong việc đứng ra để
giải quyết các tranh chấp trong đời sống xã hội để đảm bảo trật tự xã hội và
quyền tự định đoạt của các đương sự trong TTDS, mà hòa giải vụ án dân sự
được quy định là hoạt động bắt buộc của Tòa án trong việc giải quyết các vụ
án dân sự.
1.2.2 Cơ sở thực tiễn
Phương thức hòa giải được hình thành một cách khách quan trước yêu
cầu của đời sống kinh tế xã hội và chịu sự tác động sâu sắc của các yếu tố
chính trị, kinh tế, xã hội, phong tục tập quán trong từng giai đoạn phát triển
của lịch sử. Các tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải thường có tình, có
lý, đảm bảo quyền lợi của các bên và đặc biệt hòa giải là phương thức hàn gắn
tình cảm và giữ gìn tình đoàn kết của các bên có tranh chấp. Do vậy mà
phương thức hòa giải đã thể hiện được truyền thống đoàn kết từ lâu đời của
dân tộc ta. Xuất phát từ tồn tại thực tế của hòa giải và tính hiệu quả của
phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, Nhà nước đã thừa nhận và
luật hóa các quy định về hòa giải trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật và
trong đó, phải kể đến hòa giải đã trở thành một nguyên tắc trong pháp luật
TTDS, điều đó vừa phù hợp với mục tiêu chính trị của Nhà nước, vừa phù
hợp với truyền thống đạo đức của nhân dân ta.
Thêm vào đó, việc luật hóa các quy định về hòa giải là phù hợp với xu
thế chung của thời đại. Trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế diễn ra


14

mạnh mẽ, giao lưu dân sự kinh tế ngày càng phát triển đa dạng, đan xen và

phong phú nên giải quyết các tranh chấp nói chung và các vụ án dân sự nói
riêng bằng biện pháp hòa giải đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng để
giải quyết các tranh chấp. Việc tôn trọng các quyền cơ bản của con người
thực tế đã trở thành một nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế hiện đại, đây là
những điều rất quan trong để đảm bảo hòa bình, an ninh cho mỗi quốc gia và
cả cộng đồng quốc tế. Để hòa đồng với pháp luật thế giới, căn cứ vào truyền
thống dân tộc và thực tiễn xét xử các vụ án dân sự, việc quy định hòa giải
trong thủ tục TTDS nay đã trở thành một yêu cầu tất yếu, khách quan và là
một vấn đề cần được quan tâm, hoàn thiện hơn nữa.
II. HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
1.1. Nguyên tắc hòa giải vụ án dân sự
1.1.1. Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án
Hòa giải là một nguyên tắc và cũng là một hoạt động tố tụng mà Tòa án
phải tuân thủ và tiến hành trong suốt quá trình giải quyết vụ án dân sự. Tại
Điều 10 của BLTTDS 2015 đã ghi nhận “Tòa án có trách nhiệm tiến hành
hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về
việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Như vậy, theo
quy định của pháp luật thì tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình giải quyết
vụ án dân sự, Tòa án đều có thể tiến hành hòa giải để giúp đỡ các đương sự
thỏa thuận với nhau. Trách nhiệm hòa giải của Tòa án được thể hiện cụ thể
như sau:
Thứ nhất, đối với hầu hết các vụ án dân sự, Tòa án đều phải tiến hành
hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm.
Khoản 1 Điều 205 của BLTTDS năm 2015 quy định: “Trong thời hạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được
hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều
207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn”. Như
vậy, trừ những vụ án dân sự không được hòa giải, không tiến hành hòa giải



15

được hoặc vụ án dân sự được hòa giải theo thủ tục rút gọn, thì các vụ án còn
lại Tòa án có trách nhiệm phải tiến hành hòa giải mà không phụ thuộc vào khả
năng có hòa giải được hay không. So với BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung
2011, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm trường hợp, vụ án dân sự được
giải quyết theo thủ tục rút gọn thì không cần phải hòa giải cho phù hợp với
thực tiễn giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án. Trách nhiệm tiến hành hòa giải
của Tòa án được coi là một thủ tục tố tụng bắt buộc, nếu Thẩm phán được
giao nhiệm vụ giải quyết án mà không tiến hành hòa giải thì bị coi là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng không thể nào khắc phục được và là căn cứ để
kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm để hủy án xét xử lại theo thủ tục sơ
thẩm. Việc tổ chức phiên hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm xuất phát từ mục
đích của hòa giải, là tạo điều kiện cho các đương sự thỏa thuận việc giải quyết
tranh chấp một cách tự nguyện và ổn thỏa. Chỉ cần một vụ án mà đương sự tự
nguyện thỏa thuận được với nhau thông qua hòa giải mà Tòa án không phải
mở phiên tòa, mang lại một ý nghĩa rất lớn không chỉ cho cá nhân các đương
sự, cho Tòa án nơi giải quyết vụ án đó, mà còn có ý nghĩa to lớn cho địa
phương, cho xã hội. Do vậy, việc quy định Tòa án có trách nhiệm phải tổ
chức và tiến hành phiên hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là
hoàn toàn cần thiết và hợp lý.
Thứ hai, pháp luật khuyến khích các đương sự hòa giải ở các giai đoạn
tố tụng tiếp theo.
Thủ tục hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là thủ tục tố
tụng bắt buộc Tòa án phải tiến hành. Bên cạnh đó, pháp luật luôn khuyến
khích các đương sự hòa giải với nhau ở bất kỳ thời điểm nào, nếu như thỏa
thuận đó là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì đều được
Tòa án ghi nhận và bảo đảm. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm,

Điều 246 và Điều 300 của BLTTDS năm 2015 thể hiện rõ việc khuyến khích
các đương sự thỏa thuận với nhau, thông qua việc Tòa án hỏi các đương sự có
thống nhất được việc giải quyết vụ án hay không. Nếu các đương sự thỏa
thuận được thì Tòa án sẽ ra quyết định hoặc ghi nhận trong bản án về việc
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Việc hòa giải ở các giai đoạn tố
tụng tiếp theo không phải là thủ tục tố tụng bắt buộc của Tòa án, tránh việc


16

hòa giải nhiều lần mà không đạt được thỏa thuận, đồng thời tránh việc kéo dài
tiến trình tố tụng giải quyết vụ án dân sự.
11.2. Nguyên tắc tiến hành hòa giải
1.1.2.1. Nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của đương sự
Điểm a khoản 2 Điều 205 của BLTTDS năm2015 quy định, khi tiến
hành hòa giải, Tòa án phải “Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các
đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các
đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình”. Sự tự nguyện
của đương sự trong quá trình hòa giải là ý chí tự lựa chọn, tự quyết định tham
gia hòa giải và thỏa thuận về vụ án mà không bị lệ thuộc hay ép buộc bởi bất
cứ yếu tố nào. Đây là một nguyên tắc cơ bản khi tiến hành hòa giải vụ án dân
sự, được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, đương sự tự nguyện tham gia hòa giải: Khoản 15 Điều 70
của BLTTDS năm2015 quy định nghĩa vụ nhưng cũng là quyền của đương sự
khi tham dự phiên hòa giải của Tòa án. Tòa án không thể buộc bị đơn bắt
buộc phải tham gia phiên hòa giải khi đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng
vẫn vắng mặt tại phiên hòa giải theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của
BLTTDS năm2015. Trường hợp đương sự không thể tham gia được vì lý do
chính đáng, đương sự có đơn trình bày và có các tài liệu chứng cứ gửi kèm
theo chứng minh thì Tòa án phải tôn trọng quyền của đương sự và lập biên

bản không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 2 Điều 207 của
BLTTDS năm 2015. Một điểm mới trong quy định về hòa giải của BLTTDS
năm 2015 là khi một trong các đương sự đề nghị Tòa án không tiến hành hòa
giải thì Tòa án sẽ không tiến hành hòa giải và đưa vụ án ra xét xử ngay. Như
vậy, quyền tham gia phiên hòa giải của đương sự được pháp luật rất tôn trọng
và đặt ra nhiều trường hợp để đương sự lựa chọn và Tòa án áp dụng sao cho
phù hợp và đảm bảo nhất quyền, cũng như lợi ích chính đáng của đương sự.
Thứ hai, về tự nguyện thỏa thuận nội dung hòa giải: Khi tranh chấp,
xung đột giữa các cá nhân đạt đến một độ nhất định mà không thể tự giảng
hòa và phải ra đến Tòa án, thì việc thỏa thuận và ghi nhận về những nội dung
đang có xung đột là điều hết sức quan trọng. Quyền định đoạt về các nội dung
hòa giải phải do chính đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ quyết


17

định trên tinh thần tự nguyện. Nếu sự thỏa thuận của các đương sự là kết quả
của việc dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực của người khác tác động lên,
làm cho đương sự buộc phải thỏa thuận trái với ý muốn để bảo vệ sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm và tài sản của mình thì thỏa thuận đó không được coi là
tự nguyện và không được chấp nhận.
Trong quá trình hòa giải, Tòa án chỉ tạo điều kiện về mặt không gian,
thời gian và định hướng để các đương sự tự thỏa thuận với nhau, chứ Tòa án
không can thiệp hay áp đặt các đương sự phải hòa giải trái với ý muốn của
mình.
1.1.2.2. Nguyên tắc về nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội
Điểm b khoản 2 Điều 205 của BLTTDS năm 2015 quy định: “Nội dung
thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội”. Như vậy, Tòa án chỉ ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của

đương sự, khi thỏa thuận đó phải tuân thủ các quy định của pháp luật và
không trái với đạo đức của xã hội. Việc quy định đồng thời hai điều kiện như
trên sẽ giúp Tòa án thuận lợi hơn trong quá trình áp dụng pháp luật, đồng thời
khắc phục được điểm bất hợp lý khi quy định chỉ cần đáp ứng một trong hai
điều kiện tại điểm a khoản 2 Điều 180 của BLTTDS năm 2004.
BLTTDS năm 2015 đã sửa cụm từ “không được trái pháp luật” của
BLTTDS năm 2004 thành “không vi phạm điều cấm của pháp luật”. Điều trái
của pháp luật có thể là việc pháp luật buộc phải thực hiện một nghĩa vụ nhưng
không thực hiện, pháp luật cấm không thực hiện nhưng lại thực hiện, hoặc sử
dụng quyền hạn vượt quá giới hạn cho phép của pháp luật… như vậy, điều
cấm của pháp luật chỉ là một phần của việc trái pháp luật. Việc sửa đổi này đã
mở rộng hơn phạm vi cho phép thỏa thuận của các đương sự và đảm bảo
quyền của đương sự tối đa hơn vì về cơ bản, công dân chỉ không được làm
những điều pháp luật cấm.
Thông qua việc các quy định của pháp luật về hòa giải ngày càng hoàn
thiện cho thấy, Nhà nước luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do, tự nguyện
thỏa thuận của mỗi cá nhân, tổ chức trên một nền tảng pháp lý chặt chẽ và
đồng bộ. Nguyên tắc này sẽ giúp bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các


18

đương sự trong vụ án và đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người
thứ ba và bảo vệ cộng đồng, xã hội tránh được những thiệt hại khi thỏa thuận
vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội của các đương sự mang lại.
1.2. Phạm vi các vụ án mà Tòa án tiến hành hòa giải
Hòa giải là trách nhiệm của Tòa án trong giải quyết các vụ án dân sự.
Tuy nhiên, không phải mọi vụ án dân sự đều được Tòa án tiến hành hòa giải
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. So với BLTTDS năm 2004, phạm vi
hòa giải vụ án dân sự của BLTTDS năm 2015 thu hẹp hơn, do bổ sung thêm

quy định về việc không tiến hành hòa giải đối với vụ án dân sự được giải
quyết theo thủ tục rút gọn.
1.2.1. Những vụ án dân sự không được hòa giải
Theo quy định tại Điều 206 của BLTTDS năm 2015 thì những vụ án
dân sự không được tiến hành hòa giải bao gồm: Yêu cầu đòi bồi thường vì lý
do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước và những vụ án phát sinh từ giao
dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.Việc tiến hành
hòa giải trong những trường hợp này là đồng nghĩa với việc tạo điều kiện cho
các bên vi phạm pháp luật hoặc lợi dụng việc hòa giải để xâm phạm tài sản
của Nhà nước. Do vậy, trong trường hợp này Tòa án sẽ không tiến hành thủ
tục hòa giải mà đưa vụ án ra xét xử.
Thứ nhất, Tòa án không tiến hành hòa giải đối với yêu cầu đòi bồi
thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước vì tài sản của Nhà nước thuộc
sở hữu của nhân dân. Do vậy, bất cứ hành vi gây thiệt hại đến tài sản của Nhà
nước đều trái pháp luật và phải chịu trách nhiệm bồi thường. Người gây thiệt
hại không có quyền điều đình, thương lượng, thỏa thuận với Nhà nước về
trách nhiệm bồi thường của mình. Tuy nhiên, người gây thiệt hại tự nguyện
bồi thường và việc bồi thường phù hợp với quy định của pháp luật thì Tòa án
có thể chấp nhận. Theo Hướng dẫn tại Điều 15 của Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai “Thủ tục
giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được
sửa đổi, bổ sung (sau đây gọi tắt là “Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP”) thì


×