Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên trong việc giải quyết vụ án dân sự trên địa bàn tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.26 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HÀ BÍCH DIỆP

“NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA”

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HÀ BÍCH DIỆP

“NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA”

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380103



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.PHAN HỮU THƯ

HÀ NỘI, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa được ai công bố
trong bất kỳ công trình khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hà Bích Diệp


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

KSV


: Kiểm sát viên

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các từ viết tắt
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ,

QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG GIẢI

8

QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1

Khái niệm, đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên

8

trong giải quyết các vụ án dân sự.
1.1.1

Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải

8

quyết các vụ án dân sự
1.1.2

Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải

10

quyết các vụ án dân sự
1.2
1.3

Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án dân sự


11

Quy định của pháp luật hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của

12

Kiểm sát viên
1.3.1

Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trước khi thụ lý vụ án

12

dân sự
1.3.2

Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong việc thụ lý và

15

chuẩn bị giải quyết vụ án dân sự
Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa
1.3.3

sơ thẩm, phúc thẩm và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án

21



1.3.4
1.3.5

Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên khi kiểm sát bản án,

24

quyết định của Tòa án.
Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị

33

Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN

37

TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH SƠN LA, MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP
Thực tiễn áp dụng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm
2.1

sát viên trong giải quyết các vụ án dân sự trên địa bàn tỉnh Sơn

37

La
2.1.1

Thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm sát việc thụ lý vụ án


37

2.1.2

Thực tiễn áp dụng pháp luật về nghiên cứu hồ sơ vụ án

39

Thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm sát công tác xét xử của

42

2.1.3

Tòa án
2.1.4

Thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm sát bản án của Tòa án

47

2.1.5

Thực tiễn áp dụng pháp luật về kháng nghị phúc thẩm

50

2.1.6


Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền yêu cầu, quyền kiến nghị

57

Một số vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật
2.2

về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các

58

vụ án dân sự.
2.3

Một số kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng nhiệm vụ của

66

Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án dân sự
2.3.1

Kiến nghị

66

2.3.2

Giải pháp

72


PHẦN KẾT LUẬN

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 01/7/2016, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chính thức có
hiệu lực thi hành, Bộ luật xác định rõ vị trí, vai trò của Viện kiểm sát
trong tố tụng dân sự là cơ quan tiến hành tố tụng; Viện trưởng, Phó viện
trưởng, Kiểm sát viên và Kiểm tra viên là người tiến hành tố tụng. Theo
đó, Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc thụ lý vụ án, kiểm sát việc trả
lại đơn khởi kiện, kiểm sát thu thập chứng cứ của Tòa án, kiểm sát quyết
định, bản án của Tòa án, thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị.
Và đặc biệt, khi tham gia phiên tòa Kiểm sát viên có quyền phát biểu
quan điểm về giải quyết vụ án dân sự. Hoạt động của Kiểm sát viên
trong tố tụng dân sự là nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ, việc dân sự
đúng pháp luật. Do đó, Kiểm sát viên có vai trò vô cùng quan trọng trong
quá trình giải quyết các vụ án dân sự.
Chỉ tính riêng trên địa bàn tỉnh Sơn La, trong những năm gần đây
tình hình án dân sự diễn ra ngày càng đa dạng, phức tạp và có chiều
hướng gia tăng. Theo số liệu thống kê trong 3 năm (2015, 2016, 2017)1
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện kiểm sát thụ lý và giải quyết: 1298 vụ
án dân sự. Viện kiểm sát cấp tỉnh kiểm sát thụ lý và giải quyết theo trình
tự phúc thẩm (án có kháng cáo, kháng nghị) là 166 vụ. Thực tiễn kiểm

sát việc giải quyết các vụ án dân sự cho thấy đây là một loại án khó giải
quyết từ việc áp dụng pháp luật, thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ,
cũng như tính chất tranh chấp giữa các đương sự trong vụ án, dẫn đến
việc giải quyết còn kéo dài và không thống nhất. Mặc dù vậy, khi được
Viện trưởng Viện kiểm sát phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự, Kiểm sát viên đã thực hiện tốt nhiệm vụ,
quyền hạn trong việc giải quyết các vụ án dân sự như: kiểm sát việc thụ
1

Theo số liệu thống kê công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự của Phòng Thống kê tội
phạm – Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La.


2

lý, nghiên cứu hồ sơ vụ việc, yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng
cứ trong quá trình giải quyết vụ án, tham gia phiên tòa và phát biểu ý
kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án, kiểm sát các bản án,
quyết định của Tòa án, kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố
tụng, yêu cầu, kiến nghị cơ quan tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm
minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự có thể nhận thấy rằng những quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của
Kiểm sát viên trong việc giải quyết vụ án dân sự còn bộc lộ nhiều bất
cập. Điều đó thể hiện ở một số quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của
Kiểm sát viên chưa cụ thể; một số quy định được xây dựng chưa phù
hợp. Mặc dù, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có nhiều quy định được
mở rộng hơn so với Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung
năm 2011 nhưng lại chưa có văn bản hướng dẫn thi hành các quy định

này dẫn đến việc áp dụng không đồng bộ, thiếu thống nhất. Sự thiếu sót,
mâu thuẫn từ bản thân các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên đã phát sinh những khó khăn
vướng mắc khi áp dụng vào thực tiễn.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu đề tài nhiệm vụ, quyền hạn
của Kiểm sát viên trong việc giải quyết vụ án dân sự là hết sức cần thiết
về mặt lý luận và thực tiễn. Hơn nữa, thực tiễn áp dụng nhiệm vụ, quyền
hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án dân sự trên địa bàn tỉnh
Sơn La cũng còn gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó công tác tổng kết rút
kinh nghiệm còn nhiều hạn chế. Vì vậy, học viên lựa chọn nghiên cứu đề
tài “Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong việc giải quyết vụ
án dân sự trên địa bàn tỉnh Sơn La”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm sát viên trong việc giải quyết vụ


3

án dân sự là vấn đề không chỉ được ngành Kiểm sát quan tâm mà còn
được cả xã hội quan tâm. Do yêu cầu khách quan nêu trên, đã có rất
nhiều bài viết trên các sách chuyên khảo; đề tài khoa học; luận văn thạc
sĩ; tạp chí chuyên ngành; chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm của ngành
Kiểm sát liên quan đến nội dung nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên
trong tố tụng dân sự như: Sách chuyên khảo “Đổi mới vị trí, vai trò của
Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” của
tác giả Nguyễn Minh Hằng - Nhà xuất bản tư pháp, năm 2008; Luận án
tiến sỹ“Quá trình hình thành, phát triển và đổi mới Viện kiểm sát nhân
dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Trần Văn
Nam năm 2010; Luận văn thạc sỹ luật học “Cơ sở lý luận và thực tiễn
đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2006; Luận văn thạc
sỹ luật học “Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Võ Thị Phượng, năm 2010; Luận văn
thạc sỹ luật học: “Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự” của tác giả Lê Thị Thanh Loan, năm 2007; Bài viết “Vị trí,
vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành”;
“Nhận thức đúng thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân
dân trong Bộ luật tố tụng dân sự” của tác giả Khuất Văn Nga đăng trên
tạp chí kiểm sát số 09/2004, “Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Ngọc
Khánh đăng trên tạp chí kiểm sát số 14-16 tháng 7,8 năm 2008……Qua
nghiên cứu những công trình nghiên cứu; đề tài khoa học; bài viết nêu
trên cho thấy có nhiều quan điểm, lý luận tác giả có thể kế thừa được khi
nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Tuy nhiên những công trình nghiên cứu; đề tài khoa học; bài viết
trên chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu các lĩnh vực chung nhất về nguyên
tắc và tổ chức quyền lực nhà nước, các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ


4

và quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự dưới góc độ của
Luật Hiến pháp mà không đề cập trực tiếp và cụ thể đến đề tài “Nhiệm
vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong việc giải quyết vụ án dân sự”.
Hoặc có công trình nghiên cứu; đề tài khoa học; bài viết trực tiếp đề cập
đến vấn đề này nhưng do thời điểm nghiên cứu đã lâu, Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 đã hết hiệu lực nên không
cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện
nay, nhất là trong điều kiện Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực
từ ngày 01/7/2016 với nhiều quy định mới bổ sung về nhiệm vụ, quyền

hạn của Kiểm sát viên trong việc giải quyết các vụ án dân sự nên vấn đề
này cần tiếp tục được nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hơn trong giai đoạn
hiện nay.
Như vậy, có thể nhận thấy chưa có một đề tài khoa học, bài viết
nào nghiên cứu trực tiếp và cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát
viên trong việc giải quyết các vụ án dân sự có liên hệ đến thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Sơn La. Luận văn là đề tài khoa học đầu tiên nghiên cứu
chuyên sâu và có hệ thống về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên
trong việc giải quyết các vụ án dân sự trên địa bàn tỉnh Sơn La.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền
hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án dân sự và thực tiễn thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án
dân sự trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Sơn La.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ đề tài luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu về nội dung nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong
việc giải quyết các vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
mới nhất hiện nay để tập trung làm rõ các quy định của Bộ luật tố tụng


5

dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án dân sự.
Từ đó, luận văn nghiên cứu những điểm tích cực và hạn chế của pháp
luật tố tụng dân sự hiện hành. Đồng thời đi sâu vào khảo sát, phân tích
và giải quyết những vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Kiểm sát viên trong việc giải quyết các vụ án dân sự trên địa bàn

tỉnh Sơn La.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong
giải quyết các vụ án dân sự trên địa bàn tỉnh Sơn La. Trên cơ sở đó, luận
văn đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật. Để đạt được mục đích này,
luận văn đề ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm chung về nhiệm vụ, quyền hạn từ đó
xây dựng khái niệm cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên
trong việc giải quyết vụ án dân sự.
Thứ hai, làm rõ thực tiễn quy định của pháp luật về nhiệm vụ,
quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án dân sự.
Thứ ba, khảo sát thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật
về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án dân sự.
Thứ tư, phát hiện những vướng mắc, bất cập trong các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nhiệm vụ, quyền hạn của
Kiểm sát viên trong việc giải quyết các vụ án dân sự và đưa ra kiến nghị
cụ thể để giải quyết những vấn đề còn bất cập, vướng mắc. Đồng thời đề
xuất những giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ,
quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án dân sự.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và


6

phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,

về đổi mới tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát trong điều kiện cải cách
tư pháp theo Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị
và những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để đạt được mục đích nghiên
cứu đã đặt ra, luận văn đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa
học. Cụ thể, phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu về sự hình
thành và phát triển của khái niệm nhiệm vụ; phương pháp phân tích và
bình luận được sử dụng để làm rõ các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
của Kiểm sát viên trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành; phương
pháp khảo sát thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về nhiệm
vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án dân sự; phương
pháp diễn dịch, quy nạp và tổng hợp được tác giả sử dụng để khái quát
các ý chính trong từng vấn đề cụ thể, giúp cho các ý tưởng trong luận
văn được sáng rõ.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu Luận văn: “Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm
sát viên trong việc giải quyết vụ án dân sự trên địa bàn tỉnh Sơn La”
đem lại ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau:
Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách toàn diện các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nhiệm vụ, quyền hạn của
Kiểm sát viên và thực tiễn áp dụng trong những năm gần đây khi giải
quyết vụ án dân sự trên địa bàn tỉnh Sơn La. Từ những nghiên cứu này,
luận văn đã làm sáng rõ những hạn chế, bất cập của các quy định pháp
luật hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên và những
vướng mắc khi áp dụng trong thực tiễn giải quyết vụ án dân sự. Đồng
thời, luận văn đưa ra nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập đó để


7


từ đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung cụ thể đối với một số nhiệm vụ, quyền
hạn của Kiểm sát viên được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015. Những kiến nghị này không chỉ có giá trị để hoàn thiện các quy
định của pháp luật mà còn có thể dùng như tài liệu tham khảo để nghiên
cứu hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên
trong tố tụng dân sự.
Đề tài đưa ra các giải pháp giúp nâng cao chất lượng công tác
kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, đảm bảo cho việc giải quyết
vụ án của Tòa án khách quan, có căn cứ, đúng pháp luật.
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho
những người làm công tác thực tiễn đồng thời là tư liệu phản ánh một số
vấn đề từ thực tiễn giúp cho liên ngành Viện kiểm sát - Tòa án nghiên
cứu khi ban hành các Thông tư, hướng dẫn các vấn đề còn bất cập trong
việc áp dụng, thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục
lục, nội dung cụ thể của luận văn được kết cấu thành 2 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn của
Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án dân sự.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn
của Kiểm sát viên trong việc giải quyết vụ án dân sự trên địa bàn tỉnh
Sơn La và kiến nghị, giải pháp.


8

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA
KIỂM SÁT VIÊN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát

viên trong giải quyết các vụ án dân sự
1.1.1 Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong
giải quyết các vụ án dân sự
Hiến pháp năm 2013, BLTTDS năm 2015 đã khẳng định vị trí của
VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng và KSV là người tiến hành tố tụng
có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Mục
đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
là nhằm bảo đảm cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến hành, tham
gia tố tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ án dân sự được
thực hiện theo quy định của pháp luật. Nội dung hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là việc VKSND sử dụng
các quyền năng pháp lý do BLTTDS quy định để kịp thời phát hiện và
khắc phục vi phạm của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người
tham gia tố tụng, nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự. Để có thể sử dụng được các quyền
năng pháp lý quy định trong BLTTDS, Nhà nước trao cho KSV là người
tiến hành tố tụng những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định.
Thuật ngữ "nhiệm vụ", theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ
học - Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2003 được hiểu là “công việc phải làm
vì một mục đích và trong một thời gian nhất định” (tr.718). Theo cách
giải thích này thì nhiệm vụ nói chung là công việc mang tính chất bắt
buộc đối với chủ thể phải thực hiện. Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát
từ tư cách chủ thể trong quan hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và được
pháp luật quy định. Cùng một chủ thể, nhưng mỗi quan hệ xã hội khác


9

nhau thì quy định pháp luật xác định nhiệm vụ khác nhau. Do đó, có thể

hiểu nhiệm vụ của KSV là những hoạt động cụ thể của KSV trong
một thời gian nhất định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành
trên cơ sở quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nhiệm vụ của KSV
trong tố tụng dân sự là những yêu cầu cụ thể do Nhà nước đặt ra và được
quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, BLTTDS và các văn
bản pháp luật khác mà KSV phải thực hiện bằng những hình thức, biện
pháp nhất định trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Như vậy, khái
niệm “Nhiệm vụ của KSV trong giải quyết các vụ án dân sự” là những
công việc cụ thể do pháp luật quy định đối với KSV trong các giai đoạn
tố tụng khác nhau của quá trình giải quyết các vụ án dân sự.
Còn về khái niệm "quyền hạn", theo Từ điển tiếng Việt của Viện
ngôn ngữ học - Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2003 được hiểu là “quyền
được xác định về nội dung, phạm vi, mức độ (quyết định trong phạm vi,
quyền hạn của mình)” (Tr.815). Dưới góc độ pháp lý quyền hạn của một
cơ quan, tổ chức, cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực
hoạt động, cấp và chức vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian,
thời gian nhất định theo quy định của pháp luật. Quyền hạn thường gắn
chủ thể với một cương vị, tư cách cụ thể. Trong khoa học pháp lý, quyền
hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ máy Nhà nước hoặc của
người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn của cơ quan,
tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm
quyền của cơ quan, tổ chức. Quyền hạn của người có thẩm quyền của cơ
quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi
thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Đối với quyền của chủ thể khi tham
gia vào quan hệ pháp luật dân sự xuất phát từ thỏa thuận hoặc do quy
định của pháp luật. Quyền hạn của Kiểm sát viên khi giải quyết vụ án
dân sự được pháp luật quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ và
quy định của pháp luật, khái niệm “Quyền hạn của Kiểm sát viên trong



10

giải quyết vụ án dân sự” được định nghĩa là Kiểm sát viên thực hiện các
quyền năng pháp lý mà pháp luật quy định để giải quyết vụ án dân sự
bao gồm các quyền sau: quyền yêu cầu, quyền kiến nghị, quyền đề nghị
với Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết
định của Tòa án có vi phạm pháp luật. Những quyền năng trên được thực
hiện trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết các
vụ án dân sự.
1.1.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong
giải quyết các vụ án dân sự.
- Tính độc lập: Khi được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự, KSV được quyền thực
hiện tất cả những công việc thuộc thẩm quyền được quy định tại Điều 58
BLTTDS năm 2015 mà không cần phải xin ý kiến chỉ đạo của Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp. Điều này thể hiện rõ
tính độc lập của KSV khi tham gia việc giải quyết vụ án dân sự.
Tuy nhiên, tính độc lập của KSV chỉ là sự độc lập tương đối bởi lẽ
nó luôn nằm trong mối quan hệ quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện
trưởng, Phó Viện trưởng VKS cùng cấp. Trong quá trình giải quyết vụ
án, KSV phải thường xuyên báo cáo tình hình, tiến độ giải quyết vụ án
với lãnh đạo Viện và tham mưu cho Viện trưởng, Phó Viện trưởng ban
hành các Quyết định kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi
phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của họ. Hay nói cách khác, KSV sử
dụng những thẩm quyền mà BLTTDS giao cho mình để thực hiện những
nhiệm vụ được Lãnh đạo VKS phân công.
- Tính trách nhiệm: khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự KSV không những phải chịu trách nhiệm trước pháp luật mà
còn phải chịu trách nhiệm trước Viện trưởng, Phó Viện trưởng về hành
vi, quyết định của mình. Trên cơ sở khoa học pháp lý và phù hợp với các

quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND năm 2014, khi tiến


11

hành tố tụng dân sự KSV hoạt động dưới danh nghĩa của người tiến hành
tố tụng nên về nguyên tắc KSV phải chịu trách nhiệm về hành vi của
mình, đồng thời phát huy được tính chủ động và tăng cường chịu trách
nhiệm của KSV khi thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu thực hiện cải
cách tư pháp hiện nay.
1.2. Vị trí, vai trò của KSV trong giải quyết vụ án dân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013, thì
“VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Pháp
luật tố tụng dân sự quy định về sự tham gia của VKS trong các vụ án dân
sự tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Sự tham
gia của VKS đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực thi đúng
pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Điều 21 BLTTDS năm 2015 quy định về vị trí, vai trò của VKS
trong tố tụng dân sự. Để cụ thể hóa quy định trên, vị trí và vai trò của
KSV được quy định trong BLTTDS năm 2015 được quy định như sau:
- KSV là người tiến hành tố tụng: trong tố tụng dân sự VKSND
không thực hiện quyền công tố mà chỉ thực hiện chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp, nên VKSND là cơ quan là cơ quan tiến hành tố tụng và
KSV là người tiến hành tố tụng (khoản 2 Điều 46 BLTTDS năm 2015).
Từ đó KSV có vai trò quan trọng trong việc: Tham gia phiên tòa; Phát
biểu ý kiến của VKSND tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm; Xác minh, thu
thập tài liệu, chứng cứ của VKS; Trong quá trình giải quyết đơn đề nghị
xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ
tục giám đốc thẩm, người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, KSV có quyền yêu cầu người có đơn bổ sung tài liệu, chứng

cứ hoặc tự mình kiểm tra, xác minh tài liệu, chứng cứ cần thiết; Phát
hiện vi phạm để thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện trưởng VKSND.
Như vậy, KSV có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng trong bảo vệ


12

pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.3. Quy định của pháp luật hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn
của Kiểm sát viên
1.3.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trước khi thụ lý
vụ án dân sự
1.3.1.1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện
Trả lại đơn khởi kiện là hoạt động của TAND được thực hiện bởi
Thẩm phán, trả lại đơn khởi kiện khi thuộc một trong các căn cứ quy
định tại Điều 192 BLTTDS năm 2015. Khi thực hiện hoạt động kiểm sát
trả lại đơn khởi kiện, KSV thực hiện các nội dung cụ thể bao gồm: Kiểm
sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện, thực hiện quyền kiến nghị và kiểm sát
giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện.
Sau khi nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Tòa án cùng
cấp, Viện trưởng VKS phân công KSV thụ lý, nghiên cứu, lập phiếu
kiểm sát, hồ sơ kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện. Khi cần thiết thì thực
hiện quyền yêu cầu (yêu cầu Tòa án cho sao chụp bản sao đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ) quy định tại điểm c khoản 2 Điều 20
và Điều 21 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC
ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong

việc thi hành một số quy định của BLTTDS năm 2015. Trường hợp xét
thấy việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện không có căn cứ thì báo cáo, đề
xuất Viện trưởng để thực hiện quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn
khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLTTDS năm 2015.
Trước khi ban hành BLTTDS năm 2015 thì thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự được tiến hành dựa trên các quy định tại 03 Pháp lệnh gồm:
Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án (PLTTGQVA) dân sự năm 1989,


13

PLTTGQVA kinh tế năm 1994 và PLTTGQ các tranh chấp lao động
năm 1996. Tại 03 văn bản pháp luật này cũng như Luật tổ chức VKSND
năm 2002, quy định về việc kiểm sát trả lại đơn khởi kiện vẫn còn là một
khoảng trống. Việc không quy định cho VKS được quyền kiểm sát việc
trả lại đơn khởi kiện đã dẫn đến tình trạng tùy nghi khi áp dụng, xâm
phạm trực tiếp đến quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đó là quyền
khởi kiện vụ án dân sự.
BLTTDS năm 2004 ra đời cũng chỉ quy định “VKSND tham gia
phiên tòa đối với những vụ án mà Tòa án thu thập chứng cứ và đương sự
có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án,
các vụ, việc dân sự mà VKSND kháng nghị bản án, quyết định của Tòa
án” (khoản 2 Điều 21 BLTTDS năm 2004). Các quy định này đã làm
giảm đáng kể vai trò của VKSND trong quá trình kiểm sát việc giải
quyết vụ, việc dân sự mà các Pháp lệnh trước đây đã quy định cho VKS
như: Quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Quyền
thu thập chứng cứ hay quyền được khởi tố vụ án. Bên cạnh đó, việc
không quy định VKS được quyền “hiện diện” trong quá trình nhận đơn,
xử lý đơn khởi kiện trước khi thụ lý vụ án cũng chưa khắc phục được
những hạn chế mà 03 Pháp lệnh trước kia quy định.

BLTTDS năm 2011 đã quy định cụ thể khi trả lại đơn khởi kiện
Tòa án không chỉ gửi văn bản này cho người khởi kiện mà còn phải gửi
cho VKSND cùng cấp (khoản 2 Điều 168). Sự ghi nhận này là hợp lý,
nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ, việc dân sự của Tòa án được chặt
chẽ ngay từ khâu đầu tiên, tránh những sai sót, vi phạm của Tòa án có
thể xâm phạm đến lợi ích của các cá nhân, tổ chức. Theo quy định tại
Điều 170 BLTTDS năm 2011 thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo do Tòa án trả lại,
người khởi kiện có quyền khiếu nại, VKS cùng cấp có quyền kiến nghị
với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.


14

BLTTDS năm 2015 đã quy định cụ thể về nội dung kiểm sát việc
trả lại đơn khởi kiện của Tòa án tại Điều 192. Bên cạnh việc kiểm sát
việc giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án khi giải quyết khiếu nại
của đương sự về việc trả lại đơn khởi kiện, VKS còn được quyền kiến
nghị với Chánh án và không chỉ được quyền kiến nghị 1 lần mà còn
được quyền kiến nghị lần 2 với Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp xem
xét, giải quyết. Đây có thể nói là một bước phát triển, mở rộng được
thẩm quyền của VKS trong quá trình kiểm sát việc nhận đơn, xử lý đơn
của Tòa án, đảm bảo một trong những quyền lợi chính đáng của công
dân.
1.3.1.2. Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại
đơn khởi kiện.
Với quan điểm phải “mở rộng tối đa, tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân tiếp cận công lý, người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án
có trách nhiệm tiếp nhận và thụ lý đơn” (Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020); cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 “Ở nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14); do đó, thủ tục
xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Tòa án đối với khiếu nại của
đương sự, kiến nghị của VKS đã được hoàn chỉnh và hoàn thiện.
BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định mới về việc trả lời khiếu
nại, kiến nghị tại Điều 194 như sau: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện thì đương sự có quyền khiếu
nại, VKS có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện”. Trong
thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải
mở phiên họp xem xét giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn.
Phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại có sự tham gia của đại diện VKS


15

và đương sự có khiếu nại, trường hợp đương sự vắng mặt thì Thẩm phán
vẫn tiến hành phiên họp. Trường hợp đại diện VKS vắng mặt mà không
có kiến nghị của VKS về việc trả lại đơn khởi kiện thì không hoãn phiên
họp, nếu có kiến nghị của VKS về việc trả lại đơn khởi kiện thì phải
hoãn phiên họp.
Khoản 7 Điều 194 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định mới
theo hướng nếu vẫn không đồng ý với kết quả giải quyết của Chánh án
Tòa án cấp trên trực tiếp thì đương sự có quyền khiếu nại, VKS có quyền
tiếp tục kiến nghị lên Chánh án TAND cấp cao đối với quyết định bị
khiếu nại, kiến nghị của Chánh án TAND cấp tỉnh, Chánh án TANDTC
nếu quyết định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh án TAND cấp cao.
Quyết định của Chánh án ở giai đoạn này là kết quả giải quyết cuối cùng.
Quy định này đã tạo ra một cơ chế thực sự dân chủ, đảm bảo một trong

những quyền, lợi ích chính đáng của con người, của công dân là quyền
khởi kiện.
1.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong việc thụ lý
và chuẩn bị giải quyết vụ án dân sự.
1.3.2.1. Kiểm sát việc thụ lý giải quyết vụ án dân sự
So với BLTTDS năm 2004, BLTTDS năm 2015 đã quy định rõ
nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ
án dân sự tại khoản 2 Điều 58 BLTTDS năm 2015. Trong giai đoạn thụ
lý vụ án dân sự, KSV có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Tòa án, của Thẩm phán, Thư ký Tòa án được phân công giải quyết vụ án
và những người tham gia tố tụng để bảo đảm cho việc thụ lý của Tòa án
được khách quan, đầy đủ, đúng pháp luật.
Ở giai đoạn sơ thẩm: Theo quy định tại Điều 196 BLTTDS năm
2015, sau khi thụ lý vụ án dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi thông báo
bằng văn bản cho VKS cùng cấp. Khi nhận được thông báo thụ lý KSV
được phân công phải vào sổ thụ lý, lập phiếu kiểm sát, kiểm tra nội dung


16

và thời hạn ra thông báo theo Điều 196 BLTTDS năm 2015. Riêng đối
với vụ án do người tiêu dùng khởi kiện, BLTTDS năm 2015 bổ sung quy
định “Tòa án phải niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án thông tin về việc
thụ lý vụ án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án”.
KSV phải kiểm sát theo các nội dung sau:
- Kiểm sát thời hạn ra thông báo thụ lý: Ngoài quy định tại Điều
196 và BLTTDS năm2015, KSV cũng cần chú ý về thời hạn xử lý đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu được quy định tại khoản 3 Điều 191 BLTTDS
năm 2015. Cụ thể, đối với đơn khởi kiện, KSV kiểm tra trong thời hạn
05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét

đơn khởi kiện và tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường
hoặc theo thủ tục rút gọn;
- Kiểm sát nội dung của thông báo thụ lý:
+ Làm rõ quan hệ pháp luật phát sinh tranh chấp: Để thụ lý vụ án,
Tòa án cần xác định được tính hợp pháp của việc khởi kiện, trong đó cần
xác định người khởi kiện có quyền khởi kiện hay không. Theo quy định
tại Điều 186, Điều 187 BLTTDS năm 2015, người khởi kiện có thể là cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Người khởi kiện là cá nhân phải đáp ứng các
điều kiện theo quy định tại Điều 69 BLTTDS năm 2015. Cơ quan, tổ
chức khởi kiện phải thông qua người đại diện theo quy định của pháp
luật. Việc ủy quyền khởi kiện phải làm thành văn bản, trong đó nêu cụ
thể nội dung ủy quyền, phạm vi ủy quyền, thời gian ủy quyền theo quy
định của pháp luật. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ của người khởi kiện thông qua người
đại diện theo pháp luật.
Về quan hệ pháp luật mà phát sinh tranh chấp của đương sự, KSV
cần xem xét những quan hệ pháp luật đó có thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án theo quy định tại các Điều 26 BLTTDS năm 2015 hay không.
+ Xác định thẩm quyền thụ lý của Tòa án: KSV cần xem xét Tòa án


17

đã thụ lý vụ án có thẩm quyền giải quyết vụ án đó theo quy định tại các
Điều 35, 36, 37, 38, 39 và 40 BLTTDS năm 2015 hay không. Trường
hợp Tòa án thụ lý không đúng thẩm quyền, KSV báo cáo Lãnh đạo Viện
để thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị Tòa án ra quyết định chuyển hồ sơ
vụ việc cho Tòa án có thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 41
BLTTDS năm 2015 hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015. Trường

hợp Tòa án vẫn tiếp tục giải quyết vụ việc, VKS thực hiện quyền kháng
nghị cấp phúc thẩm yêu cầu hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết
vụ án đối với đơn khởi kiện.
- Xác định thời hiệu khởi kiện: Điều 184 BLTTDS năm 2015 đã
sửa đổi cơ bản quy định về thời hiệu, không quy định cụ thể như Điều
159 BLTTDS năm 2004 mà dẫn chiếu đến những quy định của Bộ luật
Dân sự năm 2015. Cụ thể, “thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải
quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự”; bổ
sung nguyên tắc áp dụng thời hiệu, đó là: Tòa án chỉ áp dụng quy định
về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên
với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm
ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Tuy nhiên cần lưu ý, “Đối với
các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động phát sinh trước ngày 01 tháng 01 năm 2017 thì áp
dụng quy định về thời hiệu tại Điều 159 và điểm h khoản 1 Điều 192 của
Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung theo
Luật số 65/2011/QH12”(Điều 2 Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày
25/11/2015 về việc thi hành BLTTDS năm 2015), cụ thể: Trường hợp
pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì thực
hiện như sau: Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại
tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng
đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì không áp dụng thời hiệu


18

khởi kiện; tranh chấp không thuộc trường hợp trên thì thời hiệu khởi
kiện vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết
được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Trường hợp Toà án không gửi, chậm gửi thông báo thụ lý cho VKS

hoặc nội dung, hình thức thông báo không đúng quy định của pháp luật
thì KSV có quyền yêu cầu hoặc kiến nghị với Toà án khắc phục vi phạm.
KSV được phân công chủ động thực hiện kiểm sát việc thụ lý, xác định
các vụ án thuộc trường hợp VKS phải tham gia phiên tòa để báo cáo
Lãnh đạo Viện cử KSV tham gia theo quy định của pháp luật.
Giai đoạn phúc thẩm: Kiểm sát thông báo thụ lý vụ án tương tự như
đối với kiểm sát thông báo thụ lý vụ án ở giai đoạn sơ thẩm. Sau khi thụ
lý vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi thông báo bằng văn bản cho
VKS cùng cấp. Khi nhận được thông báo thụ lý, KSV được phân công
phải vào sổ thụ lý, lập phiếu kiểm sát, kiểm tra nội dung và thời hạn ra
thông báo theo Điều 285 BLTTDS năm 2015.
Về thời hạn ra thông báo thụ lý, ngoài quy định tại Điều 285
BLTTDS năm 2015, KSV cũng cần chú ý về thời hạn xử lý đơn kháng
cáo được quy định tại Điều 283 BLTTDS năm2015. Đối với đơn kháng
cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, đơn kháng cáo và tài liệu,
chứng cứ bổ sung kèm theo cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, người kháng cáo đã
nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
Về nội dung của thông báo thụ lý, KSV cũng kiểm tra các vấn đề
như đối với thông báo thụ lý vụ án ở giai đoạn sơ thẩm, bao gồm: Các
nội dung và quy định về đơn kháng cáo theo Điều 272 BLTTDS năm
2015, quan hệ pháp luật phát sinh tranh chấp, thẩm quyền thụ lý của Tòa
án.
Trường hợp Tòa án thụ lý vụ án sai mà vẫn tiếp tục giải quyết vụ
án. Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị cấp phúc thẩm hoặc giám


19

đốc thẩm yêu cầu hủy bản án phúc thẩm.

1.3.2.2. Nghiên cứu hồ sơ vụ án, yêu cầu Tòa án xác minh, thu
thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án, thu thập tài liệu chứng
cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Trước khi nghiên cứu nội dung vụ án, KSV cần kiểm tra xem về
trình tự, thủ tục lập hồ sơ, hình thức hồ sơ đã tuân theo đúng quy định
của BLTTDS năm 2015 hay chưa.
Nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án, tham gia phiên tòa sơ thẩm là
để kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán; việc chấp
hành pháp luật của người tham gia tố tụng khác, kể từ khi thụ lý đến khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ, KSV
chuẩn bị các thủ tục, phương án tham gia phiên tòa; chuẩn bị phát biểu
quan điểm giải quyết vụ án. KSV tập trung kiểm sát và rút ra kết luận
một số hoạt động tố tụng cơ bản sau đây:
- Về thẩm quyền thụ lý vụ án theo BLTTDS năm 2015: Gồm thẩm
quyền về nội dung tranh chấp được quy định tại các Điều 26, 30 và 32;
thẩm quyền của Tòa án hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật quy
định tại Điều 34; thẩm quyền theo cấp Tòa án từ Điều 35 đến Điều 38;
thẩm quyền theo lãnh thổ tại Điều 39; thẩm quyền theo lựa chọn của
nguyên đơn theo Điều 40.
- Xác định tư cách của đương sự, người tham gia tố tụng khác:
KSV kiểm sát việc Tòa án xác định có đúng tư cách của nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 68
BLTTDS năm 2015.
- Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự: KSV xem xét
đơn khởi kiện đương sự trình bày “những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án
giải quyết đối với người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan”
(điểm g khoản 4 Điều 189 BLTTDS năm 2015). Trong thực tế giải quyết
tranh chấp dân sự, người khởi kiện có thể nêu đúng quan hệ tranh chấp



×