Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát trong kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THU THẢO

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN
VỀ TỘI PHẠM VÀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THU THẢO

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT NGUỒN
TIN VỀ TỘI PHẠM VÀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)


Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đỗ Thu Thảo


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực tiễn, được sự
hướng dẫn, giảng dạy của Quý thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của cơ quan cùng
với sự đóng góp của bạn bè, tôi đã hoàn thành Luận văn Thạc sỹ Luật học. Qua đây tôi xin
gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Quý thầy cô Trường Đại học Luật Hà Nội, các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sỹ đã tận
tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian học
tập tại trường.
Cảm ơn Khoa Sau đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện quản lý đào tạo,
cung cấp thông tin cần thiết về quy chế đào tạo cũng như chương trình đào tạo một cách

kịp thời, tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này đúng tiến độ.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS Nguyễn Văn Tuân đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT

: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên

KTV

: Kiểm tra viên

KTVA

: Khởi tố vụ án

VKS


: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2. 1. Số tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố VKS kiểm sát
việc giải quyết ..........................................................................................................53
Bảng 2. 2. Số lần VKS tiến hành trực tiếp kiểm sát tại CQĐT, Cơ quan đƣợc
giao tiến hành một số hoạt động điều tra và số kiến nghị tổng hợp VKS ban
hành ..........................................................................................................................54
Bảng 2. 3. Số liệu VKS hủy quyết định KTVA, quyết định không KTVA của
CQĐT, cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra .......56
Bảng 2. 4. Số vụ án và số bị can do cơ quan điều tra và viện kiểm sát đình chỉ
...................................................................................................................................59
Bảng 3. 1. Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong
ngành Kiểm sát nhân dân .......................................................................................65


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI
QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM VÀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ .........7

1.1. Khái quát về việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án
hình sự ....................................................................................................................7
1.2. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và
khởi tố vụ án.........................................................................................................16
1.3. Quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra, cơ quan đƣợc giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc giải quyết nguồn tin
về tội phạm và khởi tố vụ án ..............................................................................26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................30
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG THỰC
HÀNH KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM VÀ
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT ........................................31
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quy định về kiểm sát giải quyết
nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án hình sự ...............................................31
2.2. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
việc kiểm sát giải quyết nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án ....................35
2.3. Thực trạng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc kiểm sát giải quyết
nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án hình sự ...............................................52
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................62
CHƢƠNG 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT
VIỆC GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM VÀ KHỞI TỐ VỤ ÁN
HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT ........................................................................63
3.1. Yêu cầu đối với hoạt động kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm
và khởi tố vụ án hình sự của viện kiểm sát .......................................................63
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội
phạm và khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát............................................66
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................77
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, Viện kiểm sát đã đóng góp tích cực vào công cuộc đấu
tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa, giữ
vững an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày
02/01/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt
chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp.
Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá
trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố
tụng làm nhiệm vụ... 1
Trong tố tụng hình sự, giải quyết nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án có ý
nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Việc giải quyết
nguồn tin về tội phạm nhiệm vụ xác định có sự việc xảy ra hay không, nếu xảy ra
thì có hay không dấu hiệu của tội phạm để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án. Còn
việc khởi tố vụ án mở ra giai đoạn điều tra vụ án nhằm xử lý kịp thời nghiêm minh
các hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội, góp
phần bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân được pháp luật bảo hộ. Khi đã
khởi tố vụ án, cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra được tiến hành các biện pháp điều tra, kể cả các biện pháp cưỡng chế
tố tụng để nhanh chóng phát hiện tội phạm và người phạm tội. Vì vậy, nếu các hoạt
động tố tụng không thực hiện đúng trình tự thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định ở giai đoạn này, rất có thể tội phạm sẽ bị bỏ lọt hoặc lợi ích hợp pháp của công
dân bị xâm phạm, làm oan sai người vô tội. Vì vậy, hoạt động kiểm sát việc giải
quyết nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án của Viện kiểm sát là hết sức quan
trọng để đảm bảo cho mọi nguồn tin về tội phạm được tiếp nhận đều được xử lý kịp
thời, đúng pháp luật, việc khởi tố vụ án có căn cứ, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ
1


Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội


2

tục theo quy định của pháp luật. Làm tốt khâu công tác nghiệp vụ này có ý nghĩa
quyết định, then chốt đảm bảo việc đấu tranh, phòng chống tội phạm đạt hiệu quả
cao. Trong những năm vừa qua, trên cơ sở quy định của pháp luật về chức năng,
nhiệm vụ của VKSND, công tác này của Viện kiểm sát đã đạt được những kết quả
nhất định.
Ngày 01/01/2017, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bắt đầu có hiệu lực thi
hành. Đây là một bộ luật có nhiều điểm mới trong việc quy định Nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và khởi
tố vụ án. Với những quy định cụ thể, rõ ràng hơn về vấn đề này, Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 được coi là một công cụ pháp lý hữu hiệu để VKS thực hiện
nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, thực tế đã chỉ ra, việc thực hiện nhiệm vụ này của
VKS vẫn còn một số tồn tại, hạn chế.
Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” thì việc tiếp tục nghiên
cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về Nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS trong kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và KTVA
để làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp
dụng những quy định vào thực tiễn có ý nghĩa quan trọng
Với những lý do trên, tác giả luận văn xin được chọn đề tài: “Nhiệm vụ, quyền

hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và khởi
tố vụ án hình sự” để nghiên cứu và triển khai luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài;
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động kiểm sát việc giải quyết
nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án hình sự dưới các góc độ khác nhau. Có thể


3

đơn cử một số công trình tiêu biểu như: Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu
sau:
Nguyễn Khắc Quang (2014), Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án
hình sự, Luận văn thạc sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Đặng Văn Thực
(2014), “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Bế Thị Thảo (2018), “Kiểm
sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo
pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang”, Luận
văn Thạc sĩ Hà Nội; Nguyễn Việt Hà (2017), "Kiểm sát việc giải quyết tin báo tố
giác về tội phạm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên c sở thực tiễn địa
bàn tỉnh h Thọ ", Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
Một số bài nghiên cứu gần đây trên tạp chí như:
Bùi Mạnh Cường 2017 , Những vấn đề cơ bản về thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố,Tạp chí
kiểm sát số 19 ; Nguyễn Tiến Long 2017 , Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố,Tạp chí kiểm sát số 19 ; Lương Thị Thúy Dung (2017), Nâng cao chất lượng,
hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Tạp chí kiểm sát số 19 , Mai Văn Dũng
(2017), Kết quả và kinh nghiệm trong công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình
Dương,Tạp chí kiểm sát số 19); Nguyễn Đình Đức 2017 , Kinh nghiệm trong kiểm
sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tốcủa cơ quan
Kiểm lâm, Bộ đội biên phòng,Tạp chí kiểm sát số 19 ; Nguyễn Thị Thu Quỳ
(2017), Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả việc tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Tạp chí kiểm sát số 19 .
Như vậy, việc nghiên cứu về công tác kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về
tội phạm và khởi tố vụ án không phải mới. Các công trình trên đây đã tập trung


4

nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói chung, nhưng
chủ yếu là về vấn đề “Vai trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự”, hoặc “Hoạt động kiểm sát tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố”
chứ chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu vấn đề Nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS trong kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và trong kiểm sát
việc khởi tố vụ án dưới góc độ các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 mới có hiệu lực để tìm ra những điểm còn vướng mắc trong hệ thống các
quy định mới của Bộ luật này, qua đó đưa ra được những kiến nghị, giải pháp
hoàn thiện pháp luật hiện hành ở giai đoạn này.
Mặc dù vậy, các công trình khoa học, các bài viết trên đây là những tài liệu
tham khảo rất có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Mục đ ch và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về các quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội
phạm và khởi tố vụ án. Qua đó, tìm ra được nguyên nhân của những tồn tại, hạn
chế và đưa ra được giải pháp nâng cao chất lượng của công tác thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội

phạm và khởi tố vụ án.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra và tập trung vào
những vấn đề sau:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc giải
quyết nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án;
- Đánh giá thực trạng thực hiện nhiệm vụ này của Viện kiểm sát;
- Chỉ ra được những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó;


5

- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động
này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung, những
quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát
việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án; thực trạng áp dụng trong
thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và pháp luật có liên
quan về việc thực hiện chức năng kiểm sát của VKS đối với hoạt động tuân theo
pháp luật trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án, tập trung
nghiên cứu về công tác kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm tức là sau khi
tiếp nhận nguồn tin về tội phạm cho đến khi ra quyết định giải quyết nguồn tin về
tội phạm và việc khởi tố vụ án. Bên cạnh đó là nghiên cứu thực tiễn công tác kiểm
sát hoạt động này của Viện kiểm sát các cấp từ năm 2013 đến hết 06 tháng đầu năm

2018.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về kiểm
sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp,
lịch sử, so sánh, hệ thống, thống kê. Luận văn cũng khai thác thông tin tư liệu của
các công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho các luận điểm trong luận
văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài


6

Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần làm phong phú thêm một số vấn
đề lý luận và thực tiễn liên quan chức năng kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội
phạm và khởi tố vụ án. Làm rõ được những hạn chế tồn tại khi thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn kiểm sát để từ đó có những đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện trong thực tiễn.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ nghiên cứu,
giảng dạy, cho sinh viên các cơ sở đào tạo pháp luật liên quan đến vấn đề này.
7. Bố cục của luận văn
Với mục đích nghiên cứu như trên, ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về kiểm sát giải quyết nguồn tin về tội
phạm và khởi tố vụ án hình sự
Chương 2. Quy định của pháp luật và thực trạng thực hành việc kiểm sát giải
quyết nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát giải quyết nguồn

tin về tội phạm và khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát


7

CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC
GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM VÀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái quát về việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và khởi tố vụ án
hình sự
Khoa học tư pháp hình sự Việt Nam phân định các giai đoạn tố tụng hình sự,
bao gồm các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. việc
phân chia các giai đoạn nhằm xác định nhiệm vụ tố tụng của từng giai đoạn và
quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các giai đoạn tố tụng của
vụ án hình sự kể từ khi ắt đầu đến khi kết thúc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, giai
đoạn tố tụng trước làm cơ sở cho giai đoạn tố tụng sau, giai đoạn tố tụng sau kiểm
nghiệm lại kết quả đạt được của giai đoạn tố tụng trước, hợp thành tổng thể quá
trình tố tụng thống nhất và có quan hệ khăng khít với nhau.2 KTVA là giai đoạn mở
đầu của tố tụng hình sự trong đó các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của Bộ
luật TTHS quy định kiểm tra thông tin, tài liệu thu được, xác định có hay không có
dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không KTVA.3 Việc
giải quyết nguồn tin về tội phạm và việc KTVA hình sự đều là các hoạt động tố
tụng trong giai đoạn KTVA. Đây là giai đoạn xác định có hay không có tội phạm
xảy ra và quyết định việc có mở ra giai đoạn điều tra vụ án hay không.
1.1.1. Giải quyết nguồn tin về tội phạm
Giải quyết nguồn tin về tội phạm là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Có giải
quyết nguồn tin về tội phạm, thì mới xác định được có tội phạm hay không có tội
phạm xảy ra, để quyết định khởi tố hay quyết định không KTVA hình sự4. Để hiểu

2


Nguyễn Đình Đức (2017), “Kinh nghiệm trong kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo
tội phạm và kiến nghị khởi tố của cơ quan Kiểm lâm, Bộ đội biên phòng”, Tạp chí kiểm
sát, (19), tr.30-37.
3
Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư
pháp, Hà Nội
4
Bùi Mạnh Cường (2017), “Những vấn đề cơ bản về thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí kiểm sát, (19),
tr.4-10


8

về việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, trước hết cần làm rõ thế nào là “Nguồn tin
về tội phạm”.
Nguồn tin về tội phạm có thể hiểu là phương tiện chứa đựng, cung cấp thông
tin về tội phạm. Các thông tin về tội phạm này được pháp luật quy định là những cơ
sở để xác định có dấu hiệu tội phạm hay không. Điều đó cũng khẳng định rằng, cơ
quan có thẩm quyền muốn KTVA hình sự, muốn xác lập các quan hệ tố tụng hình
sự phải bắt đầu từ những tin tức về tội phạm được tiếp nhận, giải quyết theo quy
định pháp luật chứ không phải là những lời đồn đại không có căn cứ. Đó cũng cũng
là các căn cứ để KTVA hình sự quy định pháp luật hình sự.
Trong BLTTHS năm 2015, một thuật ngữ mới, lần đầu tiên được đưa vào sử
dụng đó là “Nguồn tin về tội phạm”. Theo điểm d khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm
2015: “Nguồn tin về tội phạm gồm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
của c quan, t chức, cá nhân, lời khai của người phạm tội tự th và thông tin về tội
phạm do c quan c th m quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện”.
Như vậy, BLTTHS năm 2015 quy định nguồn tin về tội phạm gồm 5 loại
nguồn sau:

- Tố giác về tội phạm;
- Tin báo về tội phạm;
- Kiến nghị khởi tố;
- Lời khai của người phạm tội tự thú;
- Thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp
phát hiện.
Điều đó có nghĩa là việc giải quyết nguồn tin về tội phạm bao gồm: Giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; giải quyết lời khai của người
phạm tội tự thú; giải quyết thông tin về tội phạm di cơ quan có thẩm quyền trực tiếp
phát hiện (trong đó chủ yếu là CQĐT). Giai đoạn này bắt đầu bằng quyết định phân
công cấp phó, phân công ĐTV, Cán bộ điều tra giải quyết nguồn tin về tội phạm
hoặc việc bắt, tạm giữ, tiến hành một số hoạt động điều tra trước khi khởi tố (trong


9

trường hợp hành vi phạm tội đã rõ không ra quyết định phân công giải quyết nguồn
tin về tội phạm) kết thúc giai đoạn này bằng quyết định khởi tố hoặc không KTVA5.
Trong năm loại nguồn tin về tội phạm thì tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố là ba nguồn tin phức tạp, gây khó khăn trong việc giải quyết hơn hai
nguồn tin còn lại.
Việc giải quyết nguồn tin về tội phạm cũng giống như hoạt động điều tra, bởi
nó đều hướng đến việc xác minh làm rõ các sự thật khách quan có ý nghĩa đối với
việc ra quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, hoạt động điều tra
được tiến hành sau khi có quyết định KTVA, nó có mục địch làm rõ hành vi phạm
tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các tình tiết khác liên
quan đến việc giải quyết vụ án. Còn hoạt động giải quyết nguồn tin về tội phạm thì
chỉ có nhiệm vụ xác định sự việc có dấu hiệu tội phạm hay không. Nó được tiến
hành trước khi có vụ án. Việc giải quyết nguồn tin về tội phạm vô cùng quan trọng,
bởi ngay trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, các cơ quan có thẩm

quyền giải quyết, kiểm sát việc giải quyết đã phải có những đánh giá sơ bộ về sự
việc không phạm tội hoặc phạm tội, hành vi phạm tội là tội phạm gì và đặc biệt
quan trọng khi kết quả của quá trình này là việc quyết định có mở ra giai đoạn tố
tụng tiếp sau hay không.
Việc giải quyết nguồn tin về tội phạm phải do cơ quan có thẩm quyền thực hiện.
Chỉ những cơ quan được Nhà nước giao quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm mới
được tiến hành giải quyết đối với loại nguồn tin về tội phạm đó.
Theo quy định pháp luật tố tụng hình sự, các cơ quan sau có thẩm quyền giải
quyết nguồn tin về tội phạm gồm:
- CQĐT, gồm: CQĐT của Công an nhân dân, CQĐT trong Quân đội nhân
dân, CQĐT của VKS tối cao. Đây là các cơ quan điều tra chính quy, chuyên nghiệp,

5

Nguyễn Văn Lợi & Nguyễn Ngọc Phòng, Một số nội dung cần lưu ý khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, Tạp chí kiểm sát, (06), 2018, tr.
16.


10

vì việc việc kiểm tra, xác minh giải quyết nguồn tin về tội phạm phần lớn được giao
cho CQĐT.
- Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm theo thẩm quyền điều tra của mình. Các cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm:
+ Các cơ quan của Bộ đội biên phòng được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động Điều tra gồm có Cục trinh sát biên phòng; Cục phòng, chống ma túy và
tội phạm; Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm; Bộ chỉ huy Bộ đội
biên phòng cấp tỉnh; Ban chỉ huy Biên phòng Cửa khẩu cảng; Đồn biên phòng.

+ Các cơ quan của Hải quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
Điều tra gồm có Cục Điều tra chống buôn lậu; Cục Kiểm tra sau thông quan; Cục
Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chi cục Hải quan cửa
khẩu.
+ Các cơ quan của Kiểm lâm được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
Điều tra gồm có Cục Kiểm lâm; Chi cục Kiểm lâm vùng; Chi cục Kiểm lâm cấp
tỉnh; Hạt Kiểm lâm.
+ Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động Điều tra gồm có Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển; Bộ Tư lệnh vùng
Cảnh sát biển; Cục Nghiệp vụ và pháp luật; Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm
ma túy; Hải đoàn; Hải đội; Đội nghiệp vụ.
+ Các cơ quan của Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra gồm có Cục Kiểm ngư, Chi cục Kiểm ngư vùng.
+ Các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động Điều tra gồm có Cục Quản lý xuất nhập cảnh; các cục nghiệp vụ an ninh ở
Bộ Công an; Phòng Quản lý xuất nhập cảnh; các phòng nghiệp vụ an ninh thuộc
Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Công an cấp
tỉnh) và Đội An ninh ở Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố
thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Công an cấp huyện);
Cục Cảnh sát giao thông; Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ;
Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường; Cục Cảnh sát phòng, chống tội


11

phạm sử dụng công nghệ cao; Phòng Cảnh sát giao thông; Phòng Cảnh sát phòng
cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; Phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi
trường; Phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao; Cảnh sát
phòng cháy và chữa cháy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Trại giam.
+ Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động Điều tra gồm có Trại giam, đơn vị độc lập cấp trung đoàn và
tương đương.6
- Các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động Điều tra khi
thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm hoặc phát hiện hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình
sự thì tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh và Điều tra theo quy định của
pháp luật.
- VKS giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường
hợp phát hiện CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã
yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục. Vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố là việc cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố khi tiến hành kiểm tra, xác minh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS năm 2015 quy định và
đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng
trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc làm ảnh hưởng
đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của nguồn tin về tội phạm. Dấu hiệu
bỏ lọt tội phạm trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là
việc cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố khi tiến hành kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ KTVA hình sự nhưng không

6

Theo Điều 9 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015


12


ra quyết định KTVA hình sự hoặc ra quyết định không KTVA hình sự hoặc tạm
đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.7
Ngoài ra BLTTHS năm 2015 còn bổ sung thêm một số chủ thể có thẩm
quyền trong việc xác minh sơ bộ đối với tố giác, tin báo về tội phạm sau khi tiếp
nhận. Cụ thể, Công an phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm tiến hành
kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài
liệu, đồ vật có liên quan cho CQĐT có thẩm quyền. Sau khi tiếp nhận, Công an xã
có trách nhiệm lấy lời khai ban đầu và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm
theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra, xác minh giải
quyết theo quy định.
Mục đích của việc giải quyết nguồn tin về tội phạm là để làm rõ tính xác thực
của nội dung nguồn tin về tội phạm tiếp nhận được, sự việc được đề cập trong nội
dung nguồn tin đó có dấu hiệu tội phạm hay không. Cơ quan có thẩm quyền giải
quyết nguồn tin về tội phạm phải sử dụng mọi biện pháp luật định tiến hành các
hoạt động kiểm tra, xác minh nhằm nhanh chóng xác định các dấu hiệu của tội
phạm. Hoạt động kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm được tiến hành bằng
nhiều biện pháp khác nhau trong một khoảng thời gian theo luật định, tùy thuộc vào
tính chất đơn giản, hay phức tạp của vụ án để xác định dấu hiệu tội phạm
một cách nhanh chóng và chính xác. Dấu hiệu tội phạm chính là căn cứ cần và đủ
được pháp luật quy định để cơ quan có thẩm quyền có thể dựa vào đó để ra quyết
định KTVA hình sự.8 Việc giải quyết nguồn tin về tội phạm có ý nghĩa hết sức quan
trọng, bởi chỉ có thông qua những hoạt động kiểm tra, xác minh các nguồn tin về tội
phạm mới có điều kiện làm rõ sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm không. Hơn nữa,
việc giải quyết nguồn tin về tội phạm phải được tiến hành khách quan, toàn diện,

7

Điểm b khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTCBNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài
chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, VKSND tối cao hướng dẫn thi hành quy
định của BLTTHS

8
Nguyễn Khắc Quang (2014), Vai trò của VKS trong KTVA hình sự, Luận văn thạc sĩ, Đại
học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.11,12


13

nhanh chóng, kịp thời nếu không nguy cơ không phát hiện ra dấu hiệu của tội phạm
rất cao, dẫn đến việc ra quyết định không KTVA, bỏ lọt tội phạm hoặc dẫn đến việc
khởi tố không có căn cứ, làm hạn chế quyền con người trái pháp luật, làm oan người
vô tội.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa:
Giải quyết nguồn tin về tội phạm là việc c quan c th m quyền tiến hành
kiểm tra, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để ra một trong các quyết định theo
quy định của pháp luật: quyết định KTVA hình sự; quyết định không KTVA hình sự;
quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của
BLTTHS nhằm xác định sự việc trong nguồn tin c dấu hiệu tội phạm không.
1.1.2. Việc khởi tố vụ án
KTVA hình sự là quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhằm duy trì trật tự và công lý, không phụ thuộc vào ý muốn cá nhân và không ai
có thể can thiệp. Từ điển Bách khoa Việt Nam giải thích, “KTVA hình sự là hoạt
động của CQĐT, kiểm sát hoặc xét xử, ra quyết định KTVA khi xác định c dấu
hiệu tội phạm và đ là giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng hình sự” 9. Theo sách
Thuật ngữ pháp lý dùng trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân,
“KTVA hình sự là hoạt động tố tụng hình sự do c quan c th m quyền tiến hành
sau khi đã xác minh một sự việc xảy ra c dấu hiệu tội phạm... KTVA hình sự là
giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng hình sự” 10. Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam của Trường Đại Học Luật Hà Nội thì đưa ra khái niệm “KTVA hình sự là giai
đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đ c quan c th m quyền xác định c hay
không dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không

KTVA.11

9

Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Bách Khoa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
tr. 352.
10
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển
Bách khoa Việt Nam, tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 167.
11
Trường Đại học Luật Hà Nội (2009),Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, tr.31


14

Như vậy, trong giai đoạn KTVA, nhiệm vụ của cơ quan có thẩm quyền đó là
xác minh và đánh giá có sự việc phạm tội xảy ra hay không, nếu có thì sẽ ra quyết
định KTVA. Việc KTVA là hoạt động pháp lý đánh dấu sự kết thúc giai đoạn giải
quyết nguồn tin về tội phạm và mở ra giai đoạn tố tụng điều tra vụ án hình sự.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự có vị trí đặc biệt, được coi như “bản lề” của
2 giai đoạn tố tụng khác nhau vì nó đóng lại giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm và mở ra quá trình điều tra.12
KTVA và khởi tố bị can có điểm giống nhau đều là quyết định bắt đầu điều
tra công khai theo trình tự thủ tục tố tụng hình sự, nhưng khác nhau về thời điểm,
yêu cầu và căn cứ khởi tố. Quyết định KTVA không yêu cầu xác định ngay người
phạm tội là ai, pháp nhân nào, hành vi thực hiện tội phạm diễn ra như thế nào? Còn
quyết định khởi tố bị can phải xác định chính xác một người hoặc pháp nhân cụ thể
đã thực hiện hành vi phạm tội.13
Về chủ thể có thẩm quyền KTVA, pháp luật trao quyền KTVA hình sự cho

ba nhóm chủ thể đó là là: CQĐT và Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra; VKS; Hội đồng xét xử. (Theo Điều 153 BLTTHS 2015)
Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm KTVA, áp
dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người
phạm tội, pháp nhân phạm tội. Không được KTVA ngoài những căn cứ và trình tự,
thủ tục do BLTTHS quy định. (Theo Điều 18 BLTTHS 2015)
Như vậy, để ra quyết định KTVA hình sự phải xác định:
- Có sự việc xảy ra
- Sự việc đó có dấu hiệu của tội phạm

12

Đồng Thị Lan Anh (2018), “Về kiểm sát việc ra quyết định không khởi tố vụ án hình
sự”, Kiểm sát online, tại địa chỉ: ngày truy cập 25/7/2018
13
Lưu Thanh Hùng (2018), “Bàn về căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí dân chủ pháp luật, tại địa chỉ:
ngày truy
cập 01/6/2018


15

Nếu chỉ dựa vào những nguồn thông tin chưa có sự kiểm tra, xác minh để
xác định có dấu hiệu tội phạm hay không mà ra quyết định KTVA thì việc khởi tố
trong trường hợp này là không có căn cứ pháp luật14. Chính vì vậy, việc KTVA phải
dựa trên kết quả của việc giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Dấu hiệu tội phạm được chứng cứ chứng minh hay nói ngược lại có chứng
cứ xác định dấu hiệu tội phạm, về bản chất được hiểu giống nhau. Trong căn cứ

khởi tố, đối tượng chứng minh của nó chính là dấu hiệu tội phạm vì nếu không có
đối tượng chứng minh thì sẽ không có chứng cứ; ngược lại nói đến dấu hiệu tội
phạm cũng không thể không đề cập đến chứng cứ xác định nó, vì dấu hiệu tội phạm
không tự bộc lộ mà phải được xác định bằng chứng cứ. Khi giải thích về căn cứ
khởi tố nếu tách dấu hiệu tội phạm ra khỏi mối quan hệ với chứng cứ xác định nó sẽ
siêu hình, phiến diện.15
Để có căn cứ khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành các hoạt động
kiểm tra, xác minh thu thập chứng cứ, đánh giá sơ bộ để xác định có hay không có một
tội phạm tương ứng với một tội danh đã được quy định trong BLTTHS xảy ra trên thực
tế. Khi ra quyết định KTVA hình sự thì không bắt buộc phải chứng minh đầy đủ các
yếu tố cấu thành tội phạm. Thông thường, chỉ cần làm rõ khách thể trực tiếp của tội
phạm, các dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan và chủ quan của tội phạm.16
Để xác định căn cứ KTVA được chính xác, khách quan, cơ quan có thẩm
quyền khởi tố cần thận trọng cân nhắc, đối chiếu các dấu hiệu của tội phạm với các
quy định của Bộ luật Hình sự để xác định chính xác tội danh, hành vi phạm tội cần
khởi tố để ra quyết định KTVA hình sự. Việc khởi tố phải đảm bảo có căn cứ theo
luật định, các quyết định khởi tố phải gửi đến VKS để kiểm sát việc khởi tố. Ngoài
ra, việc xác định căn cứ KTVA phải dựa trên các nguồn tin về tội phạm được quy
14

Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, tr.248
15
Lưu Thanh Hùng (2018), “Bàn về căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí dân chủ pháp luật, tại địa chỉ:
ngày truy
cập 01/6/2018
16
Lưu Thanh Hùng (2018), “Bàn về căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí dân chủ pháp luật, tại địa chỉ:

ngày truy
cập 01/6/2018


16

định trong BLTTHS, cụ thể đó là: tố giác của cá nhân; tin báo của cơ quan, tổ chức,
cá nhân; tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; kiến nghị khởi tố của cơ quan
nhà nước; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội
phạm; người phạm tội tự thú.17
Việc KTVA có ý nghĩa pháp lý vô cùng quan trọng bởi nó quyết định có tiến
hành điều tra vụ việc nữa hay không. Không thể ra Quyết định khởi tố bị can hay áp
dụng các biện pháp ngăn chặn (ngoại trừ tạm giữ) khi chưa có quyết định KTVA.
Nó cũng thể hiện kết quả của quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm. Nếu sau
khi KTVA, vụ án bị đình chỉ do không có sự việc phạm tội thì cũng có nghĩa là quá
trình giải quyết nguồn tin về tội phạm trước đó đã sai lầm nghiêm trọng. Vì vậy, cơ
quan có thẩm quyền luôn rất thận trọng trong việc quyết định KTVA.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Việc KTVA hình sự là hoạt động của c
quan tiến hành tố tụng c th m quyền qua quá trình giải quyết nguồn tin về tội
phạm ra quyết định xác định c sự việc phạm tội để tiến hành điều tra vụ án theo
quy định pháp luật.
1.2. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm
và khởi tố vụ án
"Kiểm sát" theo định nghĩa của từ điển tiếng Việt: "Là kiểm tra việc chấp hành
pháp luật của nhà nước". Theo đó, nội dung của khái niệm "kiểm sát" là hoạt động
kiểm tra với đối tượng kiểm tra là việc chấp hành pháp luật.18
Kiểm sát hoạt động giải quyết nguồn tin về tội phạm và việc KTVA là một
trong những quyền năng thuộc chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp mà Hiến pháp
và các văn bản pháp luật khác của Nhà nước trao cho VKS. Cùng với chức năng
thực hành quyền công tố đây là chức năng đặc thù của VKS, tạo ra cơ sở pháp lý


17

Lưu Thanh Hùng (2018), “Bàn về căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí dân chủ pháp luật, tại địa chỉ:
ngày truy
cập 01/6/2018
18
Nguyễn Việt Hà (2017), "Kiểm sát việc giải quyết tin báo tố giác về tội phạm trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam trên c sở thực tiễn địa bàn tỉnh h Thọ ", Luận văn thạc
sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, HàNội, tr. 23.


17

vững chắc để VKS thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, bảo vệ pháp chế
XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.19
Kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và kiểm sát việc KTVA hình
sự mang những đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể tiến hành kiểm sát
VKS là chủ thể duy nhất được Pháp luật thực định trao cho chức năng thực
hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự và kiểm sát việc giải
quyết nguồn tin về tội phạm và kiểm sát việc KTVA hình sự nói riêng. Tham gia
vào “kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nước” nói chung, hay kiểm tra việc
chấp hành pháp luật trong việc kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và
kiểm sát việc KTVA hình sự nói riêng không chỉ có VKS mà còn có các chủ thể
khác như người tham gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cá nhân
công dân và toàn thể xã hội nói chung. Tuy nhiên, quyền "kiểm tra việc chấp hành
pháp luật của Nhà nước" của CQĐT trong hoạt động giải quyết nguồn tin về tội
phạm và KTVA của các chủ thể khác xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp

và pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước và quyền công dân: Điều 28 Hiến pháp
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013: "Công dân có quyền tham gia quản lý
Nhà nước và xã hội…”20. Điều 13 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự quy định:
“Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội,
Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận giám sát hoạt động điều tra của Cơ
quan điều tra…”21 Tuy nhiên đối với các chủ thể này việc kiểm tra, giám sát hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng không phải là chức năng hoạt động giống như
VKS mà nó chỉ là quyền, nghĩa vụ phái sinh từ những chức năng, hoạt động khác
hay các quyền, các hoạt động mang tính tự nguyện. Mặc dù, các hoạt động của các
chủ thể này như theo dõi, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng báo cáo tình hình hoạt
19

Võ Khánh Vinh (2003), "Về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa", Nhà nước và pháp luật, (8), Hà Nội, tr.4-5.
20
Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội
21
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2015), Luật t chức C quan điều tra hình sự, Hà Nội.


18

động, yêu cầu trả lời lý do ra các quyết định, yêu cầu chấm dứt, khắc phục vi
phạm… cũng ảnh hưởng đến việc “phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật” và “loại
trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân” trong Tố tụng hình
sự22. Tuy nhiên, không thể coi đây là hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
mà chỉ là các hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật. Sự khác nhau cơ bản giữa
hoạt động kiểm sát của VKS và hoạt động giám sát của các chủ thể khác chính là
hình thức thực hiện mà cụ thể là phương thức và các quyền năng mà pháp luật

TTHS cho phép khi thực hiện.23 Các quyền và nghĩa vụ của VKS đặt trong mối
quan hệ tổng thể tạo ra một phương thức kiểm sát đặc trưng, cho phép phân biệt dễ
dàng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS với hoạt động giám sát
của cơ quan dân cử hay cá nhân tổ chức nào. Phương thức này sẽ được nói trong
đặc điểm tiếp theo của hoạt động này.
Thứ hai, về hình thức kiểm sát. Hình thức kiểm sát được thể hiện ở hai nội
dung là phương thức và nhóm quyền năng.
- Kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và kiểm sát việc KTVA là
hoạt động kiểm tra, giám sát liên tục, cụ thể, trực tiếp các hoạt động của CQĐT thực
hiện trong suốt quá trình giải quyết tố nguồn tin tội phạm và việc KTVA theo quy
định của pháp luật.24 Tính liên tục thể hiện ở chỗ: trong toàn bộ quá trình, VKS có
quyền và nghĩa vụ kiểm sát tại tất cả các hoạt động. Tính cụ thể của phương thức
kiểm sát chính là việc VKS có quyền kiểm tra, giám sát một cách chi tiết, tỉ mỉ các
hoạt động cụ thể: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai, hỏi
cung bị can, thực nghiệm điều tra, đối chất... VKS kiểm sát một cách trực tiếp đối
22

Dương Tiến Mạnh (2015), “Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm trong luật
tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội,
HàNội, tr. 19-20.
23
Nguyễn Việt Hà (2017), "Kiểm sát việc giải quyết tin báo tố giác về tội phạm trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam trên c sở thực tiễn địa bàn tỉnh h Thọ ", Luận văn thạc
sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, HàNội, tr. 23.
24
Bế Thị Thảo (2018), Luận văn Thạc sĩ “Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Tuyên Quang”, Hà Nội, tr.10-15



×