Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Pháp luật và thực tiễn quốc tế về phòng chống tham nhũng – kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.1 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

--------------PHÙNG THỊ THU HẰNG

PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN QUỐC TẾ VỀ
PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG – KINH NGHIỆM
CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số

: 8380108

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Thuận

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn
đúng theo quy định.,
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực và chính xác của luận văn này.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phùng Thị Thu Hằng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
CCDI
CPIB

: Bộ luật hình sự
: Ủy ban kiểm tra kỉ luật Đảng cộng sản Trung Quốc
: Cơ quan điều tra tham nhũng Singapore

KTXH
LHQ

: Kinh tế xã hội
: Liên hợp quốc

PCTN
: Phòng, chống tham nhũng
UNCAC : Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 2
3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ........................................ 3

4. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................... 3
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn .......................................................................... 4
6. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 4
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THAM NHŨNG VÀ PHÒNG
CHỐNG THAM NHŨNG ................................................................................. 5
1.1. Khái niệm tham nhũng .................................................................................. 5
1.1.1. Quan điểm quốc tế ..................................................................................... 5
1.1.2. Quan điểm của Việt Nam ........................................................................... 7
1.2. Đặc điểm của tham nhũng ............................................................................. 8
1.2.1. Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn ................................... 8
1.2.2. Chủ thể tham nhũng có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao ....... 8
1.2.3. Mục đích của hành vi tham nhũng là vì lợi ích riêng .................................... 9
1.3. Nguyên nhân, bản chất và hậu quả của tham nhũng ........................................ 9
1.3.1. Nguyên nhân của tham nhũng ..................................................................... 9
1.3.2. Bản chất của tham nhũng .......................................................................... 11
1.3.3. Hậu quả của tham nhũng .......................................................................... 12
1.4. Phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng ................................................ 13
1.4.1. Khái niệm ................................................................................................ 13
1.4.2. Quan điểm về đấu tranh phòng chống tham nhũng ..................................... 15
1.4.3. Hợp tác quốc tế về đấu tranh phòng chống tham nhũng .............................. 16
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................. 19
Chương 2: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ
PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG ................................................................. 20


2.1. Pháp luật quốc tế về phòng chống tham nhũng ............................................. 20
2.1.1. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 ................... 20
2.1.2. Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
năm 2000 (Công ước Palermo) ........................................................................... 26
2.1.3. Công ước của OECD về đấu tranh chống hối lộ công chức nước ngoài trong

giao dịch thương mại quốc tế năm 1997 ............................................................. 29
2.2. Pháp luật và thực tiễn phòng chống tham nhũng của một số quốc gia trên thế
giới ................................................................................................................... 32
2.2.1. Pháp luật và thực tiễn phòng chống tham nhũng của Trung Quốc ............... 32
2.2.2. Pháp luật và thực tiễn phòng chống tham nhũng của Singapore .................. 37
2.2.3. Pháp luật và thực tiễn phòng chống tham nhũng của Thụy Điển ................. 40
2.3. Kinh nghiệm cho Việt Nam ......................................................................... 43
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................. 47
Chương 3: THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG
CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM……………...……………………..…48
3.1. Thực trạng tham nhũng và xử lý tội phạm tham nhũng tại Việt Nam ............. 48
3.2. Thực tiễn pháp luật Việt Nam về phòng chống tham nhũng .......................... 50
3.2.1. Khung pháp lý của Việt Nam về phòng chống tham nhũng ........................ 50
3.2.2. Những thành tựu đã đạt được ................................................................... 55
3.2.3. Những bất cập trong pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật phòng chống tham
nhũng tại Việt Nam ........................................................................................... 61
3.3. Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng
tại Việt Nam………………………………………………………………………..65
3.3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng tại Việt
Nam…………………………………………………………………………...........65
3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng tại Việt Nam

......................................................................................................................... 66
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................. 70
KẾT LUẬN...................................................................................................... 71


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tham nhũng là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, mang tính lịch sử. Sự hình
thành, phát triển của tội phạm về tham nhũng gắn liền với sự hình thành giai cấp và
sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước.
Tội phạm về tham nhũng diễn ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân
biệt chế độ chính trị, điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì thế,
tham nhũng ngày nay không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia mà đã trở thành
vấn đề toàn cầu. Không chỉ Việt Nam mà toàn thế giới đang tập trung đấu tranh phòng
và chống tệ nạn này. Các công ước, hiệp định, văn bản pháp lý quốc tế được kí kết
và ban hành như Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng; các quốc gia
cũng bổ sung, thay đổi pháp luật của mình để phù hợp với xu thế hợp tác quốc tế về
phòng chống tham nhũng hiện nay.
Tại Việt Nam, trong thời gian qua đã xảy ra rất nhiều vụ việc tham nhũng
nghiêm trọng, làm thất thoát hàng nghìn tỷ đồng của Nhà nước, làm thoái hóa, biến
chất một số lượng không nhỏ các cán bộ nhà nước và gây ra những bất ổn trong xã
hội. Điển hình là các vụ án liên quan đến Vinashin, Vinaline, PMU 18,… và gần đây
nhất là vụ án nghiêm trọng liên quan đến Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt
Nam, Tập đoàn dầu khí Việt Nam và ông Đinh La Thăng. Chủ trương của Đảng và
Nhà nước ta về vấn đề này rất rõ ràng. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng chỉ rõ: “Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn
tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh
tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta.” Chúng ta đã có Luật phòng
chống tham nhũng 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2012) cùng nhiều văn bản dưới luật
giải thích, hướng dẫn thi hành. Trong quan hệ quốc tế, ngày 30/6/2009, Việt Nam đã
cùng 95 quốc gia khác phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
Đến nay, hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng đã cơ bản phù hợp với nội dung của
Công ước. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, để nâng cao hiệu quả công tác phòng
chống tham nhũng ở Việt Nam, yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện
pháp luật, thể chế về phòng, chống tham nhũng. Muốn làm được điều đó, Việt Nam

không thể chỉ tự mình hoàn thiện và cần có sự tham khảo, đúc rút kinh nghiệm từ


2

thực tiễn hợp tác quốc tế cũng như thực tiễn pháp luật phòng, chống tham nhũng của
các quốc gia khác.
Từ những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Pháp luật và thực tiễn quốc
tế về phòng chống tham nhũng – Kinh nghiệm cho Việt Nam” làm đề tài luận văn
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài chống tham nhũng
trong pháp luật quốc tế. Trong đó có các cuốn sách như: “Công ước của Liên hợp
quốc về chống tham nhũng và sự tham gia của các quốc gia” của tác giả Nguyễn Thị
Quế Thu, xuất bản năm 2011; “Thực thi Công ước Liên hợp quốc về chống tham
nhũng tại Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” và “Một số kinh nghiệm
quốc tế về công tác phòng chống tham nhũng” do các tác giả thuộc Viện khoa học
thanh tra – Thanh tra Chính phủ biên soạn; “Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng
của một số nước trên thế giới” của Ban Nội chính Trung ương Đảng Cộng sản Việt
nam do Nguyễn Văn Quyền biên soạn năm 2005;…… Ngoài ra, một số tác giả cũng
đã công bố những bài báo khoa học có đề cập đến tội tham nhũng như: “Một số ý kiến
hoàn thiện quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng”, Nguyễn Đình Bính,
Tạp chí Kiểm sát, VKSNDTC, số 09/2008; “Các giải pháp nâng cao hiệu quả phát
hiện và xử lý hành vi tham nhũng”, Phạm Mạnh Khải, Tạp chí Thanh tra chính phủ,
Số 11/2009 và hai bài báo của tác giả Nguyễn Bá Diến là: “Công ước Liên hợp quốc
về chống tham nhũng và pháp luật Việt Nam về chống tham nhũng trong tiến trình
cải cách tư pháp” đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2005 và “Quy định
của Công ước Liên hợp quốc và pháp luật Việt Nam về chống tham nhũng” đăng trên
tạp chí Dân chủ và pháp luật số 8 (161)/2005. Về phần luận án tiến sĩ và luận văn
thạc sĩ, có các đề tài của các tác giả như: Trần Đăng Vinh, “Hoàn thiện pháp luật về

phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” do TS. Lê Văn Long và PGS.TS.
Nguyễn Thị Hồi hướng dẫn năm 2012; Vũ Hoài Giang, “Thực hiện pháp luật phòng
chống tham nhũng ở một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam” do PGS.TS. Lê Văn
Long hướng dẫn 2017 và Trần Thái Hà, “Pháp luật quốc tế về chống tham nhũng”
do PGS. TS. Nguyễn Bá Diến hướng dẫn năm 2010. Bên cạnh đó, rất nhiều nhà
nghiên cứu khoa học pháp lý đã có nhiều bài viết về tham nhũng và công tác phòng,
chống tham nhũng của Việt Nam cũng như kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng
của một số quốc gia trên thế giới trên các tạp chí.


3

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, tuy rằng cũng đã
có các công trình nghiên cứu về các quy định pháp luật quốc tế và Việt Nam cũng
như kinh nghiệm của một số nước trên thế giới liên quan đến vấn đề phòng chống
tham nhũng nhưng hầu hết đều chỉ nghiên cứu sâu về một phạm vi nhỏ nhất định, vẫn
còn ít công trình nghiên cứu một cách tổng hợp các vấn đề hoặc dù có thì đã từ giai
đoạn trước đây, chưa cập nhật những vấn đề mới nhất hiện nay. Chính vì vậy, trong
luận văn của mình, ngoài việc nghiên cứu vấn đề chống tham nhũng được quy định
Công ước của Liên hợp quốc và pháp luật của Việt Nam, tác giả còn đề cập đến các
công ước quốc tế khác và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới cũng như thực
trạng tham nhũng và đấu tranh phòng chống tham nhũng hiện nay. Trên cơ sở tiếp
thu có chọn lọc những ưu điểm trong quy định của pháp luật quốc tế về chống tham
nhũng, tác giả đưa ra những đề xuất để hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt
Nam về vấn đề này.
3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử
và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền,
về chính sách đấu tranh phòng chống tham nhũng, hoàn thiện thể chế và pháp luật.

Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng phương pháp luận của khoa học pháp lý nói chung
và khoa học luật quốc tế nói riêng.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể
và đặc thù của khoa học luật như: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so
sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp; phương pháp thống
kê để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên
cứu trong luận văn,…
4. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những quy định pháp luật trong các văn
bản pháp luật quốc tế cũng như quy định trong pháp luật của một số quốc gia trên thế
giới, từ đó rút ra được những kinh nghiệm nhằm đưa ra một số phương hướng, giải
pháp bổ sung, hoàn thiện pháp luật, thể chế về phòng, chống tham nhũng tại Việt
Nam.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định pháp luật trong các văn
bản pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia trên thế giới; thực tiễn, kinh


4

nghiệm đấu tranh phòng, chống tham nhũng quốc tế và tại một số quốc gia cũng như
tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các điều ước quốc tế liên quan đến chống
tham nhũng gồm: Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng; Công ước của
Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Công ước Palermo),
Công ước chống hối lộ công chức nước ngoài trong giao dịch thương mại quốc tế.
Bên cạnh đó, còn có một số văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng
hiện hành của một số nước trên thế giới (Singapore, Trung Quốc, Thụy Điển) và các
văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Việt Nam như: Luật
phòng, chống tham nhũng, Bộ luật hình sự,…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Luận văn có những kết quả nghiên cứu với ý nghĩa cả về phương diện lý luận
và thực tiễn. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp những quan điểm khoa học về tham nhũng và đấu tranh phòng chống
tham nhũng tại Việt Nam và trên thế giới; hệ thống các quy phạm pháp luật quốc tế
và quốc gia về vấn đề chống tham nhũng, từ đó rút ra được những điểm tương đồng
và khác biệt.
- Nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tiễn của công tác đấu tranh phòng chống tham
nhũng tại Việt Nam và trên thế giới trong những năm vừa qua; những tồn tại, hạn chế
của những quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như những
nguyên nhân, tồn tại, hạn chế đó.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng
trên thực tế nước ta hiện nay.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tham nhũng và phòng chống tham nhũng
Chương 2: Pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia về phòng chống tham
nhũng
Chương 3: Thực tiễn và giải pháp hoàn thiện pháp luật phòng chống tham nhũng tại
Việt Nam


5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THAM NHŨNG VÀ
PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
1.1. Khái niệm tham nhũng

Trong khoa học và thực tiễn đã có nhiều quan niệm khác nhau về tham nhũng.
Mặc dù “tham nhũng” là thuật ngữ được sử dụng rất nhiều và tham nhũng là vấn đề
gây bức xúc của mọi quốc gia, ở mọi thời đại, nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa
có một định nghĩa thống nhất cho nó. Lý do là tham nhũng được tiếp cận từ nhiều
quan điểm khác nhau, từ kinh tế, đạo đức, tôn giáo đến chính trị, xã hội và giai cấp,
và các quan điểm này lại mang nặng dấu ấn lịch sử và cá nhân. Bên cạnh đó, tùy từng
mục đích và cách tiếp cận mà ngay mỗi quốc gia, mỗi tổ chức lại có những quan điểm
khác nhau về khái niệm này.
1.1.1. Quan điểm quốc tế
1.1.1.1. Quan điểm của các tổ chức quốc tế
Theo định nghĩa của Liên hợp quốc: “Tham nhũng là sự lạm dụng quyền lực
nhà nước để trục lợi cho mục đích cá nhân”. 1 Tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc
về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng (năm 1969) định nghĩa tham nhũng
trong một phạm vi hẹp, đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng.
Mặt khác, Liên minh châu Âu đưa ra định nghĩa: “Tham nhũng là hành vi lạm
dụng quyền lực, không tôn trọng các chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực hành vi, trách
nhiệm công chức và pháp luật mà tư lợi cho cá nhân.” 2 Hội đồng châu Âu (The
Council of Europe), trong Công ước 1999, tại Điều 2, cũng đưa ra định nghĩa: "Tham
nhũng là hành vi đòi hỏi, đề nghị, đưa hoặc nhận hối lộ hoặc một lợi ích khác hoặc
hứa hẹn hối lộ hoặc lợi ích khác, trực tiếp hoặc gián tiếp, làm sai lệch sự thực hiện
đúng đắn của bất kỳ chức trách hoặc hành vi theo nghĩa vụ nào của người nhận hối
lộ, lợi ích khác hoặc hứa hẹn hối lộ và lợi ích khác đó".3

1

Trần Đức Châm (2007), Phòng, chống tệ nạn xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 101
“Đề cương tuyên truyền phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí”,
www.langson.gov.vn/, 06/03/2017.
3
Article 2 – Definition of corruption. For the purpose of this Convention, "corruption" means requesting,

offering, giving or accepting, directly or indirectly, a bribe or any other undue advantage or prospect thereof,
which distorts the proper performance of any duty or behaviour required of the recipient of the bribe, the undue
advantage or the prospect thereof.” />2


6

Tổ chức Minh bạch quốc tế có quan điểm: tham nhũng là hành vi của người
lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá
nhân. Trong đó đưa hối lộ, nhận hối lộ là một trong những hành vi tham nhũng. Tham
nhũng là một hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế - xã hội
lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, hiện tượng tham nhũng
và các tệ nạn có điều kiện phát triển và tại đó một phần quyền lực chính trị được biến
thành quyền lực kinh tế.
1.1.1.2. Quan điểm của các quốc gia trên thế giới
Nhật Bản
Nhật Bản không có luật riêng về phòng, chống tham nhũng và cũng không có
cơ quan, bộ phận chuyên trách phòng, chống tham nhũng. Khái niệm về tội phạm
tham nhũng tương đối hẹp, Nhật Bản chỉ coi tội đưa và nhận hối lộ là tội tham nhũng.4
Tuy nhiên, Luật Hình sự của Nhật Bản quy định chi tiết, cụ thể các trường hợp (hành
vi đòi hỏi, hứa hẹn nhận hối lộ sau khi công chức đã nghỉ hưu cũng bị xử lý), mức án
xử cao nhất đối với Tội hối lộ không quá 7 năm tù. Trường hợp, công chức sử dụng
tiền Nhà nước sai quy định hoặc không có quyền mà sử dụng được coi là phạm tội
Lừa đảo.5 Nhật Bản chú trọng xử lý vi phạm theo Luật công chức, nếu vi phạm nặng
hoặc tham nhũng sẽ bị đuổi việc, không có lương và các khoản trợ cấp, rất khó tìm
việc làm, như vậy bị mất nhiều hơn so với tham nhũng.
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ có đạo luật của Liên bang về phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực
rất cụ thể liên quan đến các hành vi lừa đảo và gian lận trong công tác bầu cử. Một
trong những đạo luật toàn diện nhất trong lĩnh vực này hiện nay quy định về hành vi

tham nhũng xảy ra ở ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, trong một số lĩnh vực cũng
có những quy định cụ thể về tham nhũng như quy định nghiêm cấm hối lộ các quan
chức làm công tác kiểm soát nhập cư hay quy định về những hành vi lừa đảo trong
lĩnh vực tài chính- ngân hàng, kế toán.

Nguyễn Khắc Hợp (2012), Nghiên cứu kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng tại Nhật Bản,
01/05/2012.
5
Như Ý (2016), Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng ở một số quốc gia trên thế giới,
/>7eUvn43x3YGKvmBy0ZZeALY2885twWu-V-eyLqrTZ7z!1872728799!2031187964?dID=87709&dDocName=MOFUCM090190&_adf.ctrlstate=6hwqtmxni_4&_afrLoop=42664942303629232#!%40%40%3FdID%3D87709%26_afrLoop%3D4266
4942303629232%26dDocName%3DMOFUCM090190%26_adf.ctrl-state%3Dv4124hmps_4, 12/10/2016.
4


7

BLHS Hoa Kỳ không có khái niệm cụ thể về tham nhũng. Bộ luật cũng không
định nghĩa một cách cụ thể đối tượng (lợi ích) của tội phạm. Điều luật chỉ quy định
đối tượng của tội phạm là bất kì vật có giá trị nào (anything of value). Mặc dù vậy,
BLHS của các tiểu bang lại đề cập cụ thể và chi tiết những đối tượng của tội phạm.
Malaysia
Ở Malaysia, quan niệm về tham nhũng được quy định tại Bộ luật hình sự, Luật
chống tham nhũng, hối lộ (ban hành năm 1961, sửa đổi năm 1971), sắc luật về tình
trạng khẩn cấp số 22 năm 1970. Cụ thể, theo quy định của Sắc lệnh về tình trạng khẩn
cấp số 22 thì hành vi tham nhũng là bất kỳ hành vi nào được thực hiện bởi thành viên
cơ quan nhà nước lợi dụng chức vụ để nhận tiền, quà biếu có giá trị dù việc đó có hại
cho cơ quan hay không; các thành viên cơ quan lập pháp có hành vi trái quy định của
Hiến pháp liên bang hay quy định của Hiến pháp bang. Những người phạm tội tham
nhũng, hối lộ đều bị tịch biên các ngân khoản. Tài sản, đất đai, nhà cửa hoặc bất kỳ
động sản nào là kết quả hoặc có liên quan đến tham nhũng, hối lộ của công chức nhà

nước sẽ bị tịch thu.
1.1.2. Quan điểm của Việt Nam
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, tham nhũng là hành vi của những người
có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sách nhiễu, tham ô, nhận
hối lộ hoặc cố ý làm trái chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế - tài chính vì động cơ
vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động
đúng đắn của các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị, xã hội.6 Trên thực tế, theo
cách hiểu thông thường tại Việt Nam, tham nhũng là hành vi của bất kỳ người nào có
chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền
hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi.
Mặt khác, theo pháp luật Việt Nam quy định (tại Luật phòng, chống tham
nhũng năm 2005), tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.7 Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở
những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói
cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của
Nhà nước. Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi
tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích
Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Từ điển Bách khoa Việt Nam,
Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
7
Khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005; sửa đổi, bổ sung năm 2007.
6


8

hợp với việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng như: kê khai tài sản,
công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý trách nhiệm
của người đứng đầu.
Như vậy, mặc dù trên thế giới hiện nay còn có những quan điểm khác nhau về

định nghĩa tham nhũng, nhưng UNCAC – một điều ước quốc tế đa phương toàn cầu
đã đưa ra cách hiểu về tham nhũng khá toàn diện như sau: tham nhũng là hành vi của
một công chức hoặc một người khác, cố ý thực hiện một trong những hành vi: hối lộ,
nhận hối lộ, biển thủ tài sản, lợi dụng ảnh hưởng, lạm dụng chức năng và làm giàu
bất hợp pháp nhằm đạt được một lợi ích không chính đáng trong quá trình thi hành
công vụ hoặc công việc mà mình được giao.8
1.2. Đặc điểm của tham nhũng
Theo như định nghĩa rút ra được ở phần trên, tham nhũng có những đặc trưng
cơ bản như sau:
1.2.1. Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn
Đặc điểm của tham nhũng là chủ thể thực hiện hành vi phải là người có chức
vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn có thể là cán bộ, công chức, viên chức,
sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp,
người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm
vụ, công vụ nào đó. Người này có thể là người có chức vụ, quyền hạn ở cả khu vực
công và tư.
Về cơ bản, nhóm đối tượng này có đặc điểm đặc thù so với các nhóm đối tượng
khác như: họ thường là những người có một quá trình công tác và có một địa vị nhất
định trong lĩnh vực cụ thể, là những người có quan hệ rộng và có uy tín xã hội nhất
định và thậm chí có thế mạnh về kinh tế. Những đặc điểm này của chủ thể khiến cho
việc thực hiện hành vi tham nhũng của họ trở nên dễ dàng và thậm chí có thể coi đây
là một yếu tố gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xét xử hành vi tham nhũng.
1.2.2. Chủ thể tham nhũng có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao
Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham nhũng. Một người có chức vụ,
quyền hạn nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó thì không có hành vi tham
nhũng. Khi thực hiện hành vi tham nhũng, kẻ tham nhũng phải sử dụng chức vụ,

Cách hiểu này được tổng kết từ những hành vi được UNCAC liệt kê và yêu cầu các quốc gia thành viên hình
sự hóa trong pháp luật quốc gia, còn bản thân UNCAC không có điều khoản nào đưa ra định nghĩa về tham
nhũng.

8


9

quyền hạn của mình như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình
mình hoặc cho người khác.
Hành vi của chủ thể tham nhũng phải là hành vi được thực hiện một cách cố
ý. Pháp luật quốc tế như Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng cũng
như pháp luật quốc như ngay như trong pháp luật Việt Nam quy định, hành vi tham
nhũng được xác định khi đó là hành vi cố ý. Điều này xác định rõ ràng ý chí của chủ
thể tham nhũng, biết rõ việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đạt được lợi ích riêng là
trái pháp luật nhưng vẫn làm.
1.2.3. Mục đích của hành vi tham nhũng là vì lợi ích riêng
Mục đích của hành vi tham nhũng là vì lợi ích. Lợi ích ở đây được hiểu là lợi
ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc
có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng. Như vậy, khi xử lý về hành vi tham
nhũng, việc xác định chủ thể tham nhũng đã đạt được lợi ích trên thực tế hay chưa là
không bắt buộc mà phải dựa vào động cơ khi chủ thể thực hiện hành vi đó.
1.3. Nguyên nhân, bản chất và hậu quả của tham nhũng
1.3.1. Nguyên nhân của tham nhũng
Tham nhũng có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân như: bất ổn về mặt chính trị,
kinh tế, luật pháp chưa có sự nhất quán hoặc chưa đủ sức răn đe, sự phân hóa giàu
nghèo sâu sắc trong xã hội,…
Tuy nhiên, kể cả những quốc gia có sự ổn định về mặt chính trị, có nền kinh
tế phát triển và quy định của pháp luật cũng rất chặt chẽ nhưng dù ít thì tỉ lệ tham
nhũng vẫn có. Theo tác giả, nguyên nhân lớn nhất vẫn nằm ở con người. Lòng tham
không có điểm dừng chính là nguyên nhân chủ quan và trực tiếp nhất. Tham lợi ích
không phải lúc nào cũng xấu, nhưng để lòng tham dẫn dắt, che mờ lý trí, điều khiển,
kiểm soát hành động và vì lợi ích của bản thân mà chà đạp lên lợi ích của tập thể, và

cộng đồng là không thể chấp nhận được. Vì lợi ích cá nhân, người ta có thể làm tất
cả, bất chấp mọi thủ đoạn, mọi hậu quả để đạt được dù hành vi đó là vi phạm đạo đức
và pháp luật. Lòng tham có được những lợi ích cá nhân này không chỉ bao gồm lợi
ích về vật chất mà còn cả quyền lực. Lợi ích về vật chết có thể hiểu là tiền bạc, của
cải. Không nói đến những người thu nhập thấp cần tiền và của cải để nâng cao chất
lượng cuộc sống, có những người dù đã được hưởng chế độ đãi ngộ tốt nhưng vẫn
luôn muốn nhiều hơn nữa. Về phần quyền lực, lòng tham quyền lực khiến cho những
người chưa có vị trí, chức vụ hoặc đã có nhưng chưa thỏa mãn sẽ chủ động đi hối lộ,
đi cửa sau để có được vị trí mà mình mong muốn.


10

Riêng đối với Việt Nam, có một số nguyên nhân cụ thể như sau:
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, hệ thống chính trị chậm được đổi mới, trình độ quản lý còn lạc hậu
tạo ra các kẽ hở cho tệ nạn tham nhũng nảy sinh và phát triển. Hệ thống chính trị phức
tạp, cồng kềnh dẫn đến công tác quản lý kém hiệu quả. Không chỉ là quản lý các hoạt
động của các cơ quan nhà nước mà còn cả hoạt động của các cán bộ, công chức. Việc
lơi lỏng quản lý đã tạo điều kiện cho một bộ phận cán bộ, công chức phẩm chất đạo
đức kém thực hiện các hành vi tham nhũng, quan liêu, sách nhiễu nhân dân.
Thứ hai, do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường, sự cạnh tranh và việc đề
cao quá mức giá trị đồng tiền làm cho người sản xuất, kinh doanh có xu hướng tối đa
hoá lợi nhuận bằng mọi giá, tìm cách hối lộ công chức nhà nước để tạo lợi thế trong
kinh doanh. Trong kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, có
những giá trị xã hội bị đảo lộn, mọi người đều phải chịu sức ép của việc kiếm tiền,
làm xuất hiện tâm lý mọi việc đều có thể mua bán. Chính những điều này đã góp phần
làm gia tăng tệ nạn tham nhũng thông qua việc thúc đẩy các hành vi vi phạm pháp
luật của cán bộ, công chức, làm giàu phi pháp, chiếm đoạt tiền của Nhà nước và nhân
dân.

Thứ ba, cơ chế và chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất
quán, chồng chéo về mặt thẩm quyền của các cơ quan có nhiệm vụ điều tra, phát hiện,
xử lý tham nhũng. Pháp luật chưa nhất quán và thiếu tính răn đe gây khó khăn trong
việc phòng ngừa và xử lý tham nhũng. Bên cạnh đó, sự chồng chéo, không rõ ràng
về chức năng của các cơ quan có thẩm quyền dẫn đến việc không cơ quan nào chủ
động tiến hành các hoạt động phát hiện, xử lý tham nhũng một cách triệt để.
Thứ tư, truyền thống văn hóa ở nhiều nơi trong các hoạt động liên quan đến
cơ quan nhà nước tạo điều kiện cho tham nhũng phát sinh. Chẳng hạn, một số nét văn
hoá như biếu và nhận quà tặng cũng bị lợi dụng để thực hiện hành vi tham nhũng.
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, nguyên nhân lớn nhất nằm ở con người. Phẩm chất đạo đức của một
bộ phận cán bộ bị suy thoái, công tác quản lý, giáo dục cán bộ, công chức còn yếu
kém. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo
cao cấp, còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu
trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm. Về phần
người dân, tâm lý hối lộ, chạy tiền để nhanh chóng “được việc” hay có được lợi thế


11

hơn những đối thủ cạnh tranh khác nên đã chủ động thực hiện các hành vi trực tiếp
dẫn đến tham nhũng.
Thứ hai, chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ, công chức còn bất hợp lý,
chậm được cải cách. Đồng lương không đủ đảm bảo nhu cầu của cuộc sống là một
động cơ đẩy cán bộ, công chức thực hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực khi có điều
kiện, cơ hội.
Thứ ba, sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng ngừa và đấu tranh chống
tham nhũng ở một số nơi chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; việc xử lý tham nhũng
chưa nghiêm.
Thứ tư, việc huy động lực lượng đông đảo của nhân dân cũng như sự tham gia

của lực lượng báo chí vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng chưa được quan tâm
đúng mức. Việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật cho người dân chưa được
chú trọng khiến cho ý thức phòng, chống tham nhũng của người dân chưa cao, chưa
chủ động đấu tranh với tệ nạn này. Mặt khác, có những trường hợp là họ không dám
tố cáo tham nhũng vì một số lí do như: sợ bị trả thù, sợ bị gây khó dễ,… khiến cho tệ
nạn vẫn tiếp diễn.
1.3.2. Bản chất của tham nhũng
Trong tham nhũng, yếu tố quyền lực là quyết định, phải có quyền lực thì mới
có thể sử dụng nó để thu lợi, vậy bản chất của tham nhũng chính là sự lạm dụng quyền
lực để thực hiện lợi ích cá nhân hoặc của một nhóm người làm phương hại đến lợi
ích của cá nhân khác, của tập thể và xã hội.
Quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước nhằm để điều hòa các lợi ích khác
nhau, thậm chí đối nghịch nhau của các giai cấp, giai tầng trong xã hội và duy trì sự
ổn định của một chế độ xã hội nhất định. Quyền lực đó bao giờ cũng được thực thi
thông qua những con người cụ thể mà lợi ích được quy định bởi chức vụ, địa vị xã
hội của họ. Những người đó luôn có xu hướng sử dụng quyền lực, địa vị xã hội để
thực hiện một cách tốt nhất lợi ích của xã hội và của mình, song như vậy không phải
là tham nhũng. Tham nhũng xảy ra khi việc thực hiện lợi ích cá nhân phương hại đến
lợi ích cá nhân khác, phương hại đến lợi ích tập thể, lợi ích xã hội. Khi tham nhũng
trở thành phổ biến, quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước bị biến dạng không
còn giữ được vai trò điều hòa các lợi ích xã hội, từ đó mất đi sự ổn định, đe dọa sự
tồn vong của chế độ mà quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước đang duy trì nó.


12

Do vậy, ở bất cứ chế độ xã hội nào cũng phải phòng, chống tham nhũng và hành vi
tham nhũng cũng luôn bị lên án, bị trừng trị.9
1.3.3. Hậu quả của tham nhũng
Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội. Có thể khái quát những tác hại chủ yếu của tham nhũng ở
những điểm chính sau:
Về chính trị, tham nhũng là trở lực lớn đối với sự phát triển của quốc gia và
làm xói mòn lòng tin của người dân vào những người lãnh đạo của đất nước. Khi
nguời dân không còn lòng tin và chính quyền, các cơ quan nhà nước và những người
lãnh đạo quốc gia thì những chính sách, pháp luật của quốc gia đó sẽ không được
thực thi một cách đúng đắn; gây ảnh hưởng đến sự bền vững của bộ máy chính trị,
tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, thậm chí tạo khoảng trống cho
các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, lật đổ chính quyền.
Về kinh tế, tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của quốc gia, của tập thể
và của công dân. Giá trị tài sản bị thiệt hại, bị thất thoát liên quan tới tham nhũng hầu
như đều là những con số lớn và đáng lo ngại cho ngân sách của quốc gia. Hậu quả
của hành vi tham nhũng không chỉ là việc tài sản, lợi ích chung của quốc gia bị biến
thành tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham nhũng. Ở mức độ thấp hơn, việc
một số cán bộ, công chức quan liêu, sách nhiễu đối với nhân dân trong khi thực thi
công vụ, lạm dụng quyền hạn trong khi thi hành công vụ khiến cho nhân dân phải
mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc để có thể thực hiện được công việc của
mình như: xin cấp các loại giấy phép, giấy chứng nhận, hoặc các loại giấy tờ khác...
gây cản trở cho công việc của họ. Bên cạnh đó, tham nhũng còn tạo ra một môi trường
cạnh tranh không lành mạnh khiến cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp không thể
phát huy được hết khả năng nhằm đóng góp vào sự phát triển kinh tế đất nước. Một
môi trường cạnh tranh không lành mạnh, không minh bạch với chỉ số tham nhũng cao
cũng khiến cho các hoạt động đầu tư nước ngoài giảm sút do nhà đầu tư không có
lòng tin với nước tiếp nhận đầu tư. Thêm vào đó, tham nhũng làm thâm hụt ngân sách
có khả năng kéo theo lạm phát tăng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế của một
quốc gia.

TS. Lê Hồng Liêm (2011), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng, chống tham nhũng ở nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia.
9



13

Về xã hội, tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn
mực đạo đức xã hội. Trước những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện
hành vi tham nhũng, nhiều cán bộ, công chức không còn làm đúng chức trách của
mình mà hướng tới các lợi ích bất chính, bất chấp việc vi phạm pháp luật, làm trái
công vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Nghiêm trọng hơn, tham nhũng không
chỉ phát sinh ở trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ
bản, quản lý đất đai mà còn có xu hướng lan sang các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến
đời sống cuả từng cá nhân trong xã hội như văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao...
Điều đáng báo động là việc tham nhũng dường như đã trở thành bình thường trong
quan niệm của một số cán bộ, công chức. Đó chính là biểu hiện của sự đảo lộn về
nhận thức xã hội và đạo đức con người.
1.4. Phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng
1.4.1. Khái niệm
Phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng là các hoạt động mà nhà nước áp
dụng để phòng ngừa, ngăn chặn sự phát sinh các hành vi tham nhũng, phát hiện được
và xử lý các hành vi tham nhũng. Đây là nhiệm vụ được các quốc gia trên thế giới
quan tâm thực hiện. PCTN được hiểu là các hoạt động “phòng ngừa tham nhũng” và
“phát hiện, xử lý tham nhũng” nhằm thực hiện mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
tham nhũng.
Phòng ngừa tham nhũng là việc áp dụng các biện pháp để đề phòng, ngăn ngừa
sự phát sinh các hành vi tham nhũng (không để tham nhũng xảy ra). Tuỳ theo điều
kiện hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội mà mỗi nước có những cách thức, biện pháp
phòng ngừa khác nhau. Trong đó đáng kể nhất là các biện pháp được hầu hết các quốc
gia trên thế giới áp dụng, đó là: tăng cường tính công khai, minh bạch đối với các
hoạt động của nhà nước; minh bạch tài sản, thu nhập của công chức; kiểm soát chặt
chẽ tài sản, thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn; cải cách thủ tục hành

chính, đưa ứng dụng công nghệ vào quản lý; thực hiện tốt thanh toán không dùng tiền
mặt, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, thực hiện tốt quy tắc ứng xử, quy tắc
đạo đức nghề nghiệp; tăng cường công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội
trên các lĩnh vực. Việc thực hiện các biện pháp này là điều kiện cần thiết để đề phòng,
ngăn ngừa các hành vi tham nhũng nảy sinh trên thực tế.
Đi đôi với phòng ngừa tham nhũng, các quốc gia trên thế giới đều sử dụng các
công cụ để phát hiện và xử lý những người có hành vi tham nhũng. Phát hiện và xử
lý hành vi tham nhũng là biện pháp quan trọng nhất trong công tác đấu tranh PCTN,


14

thể hiện thái độ phản ứng của nhà nước đối với tham nhũng. Trước hết, phát hiện
tham nhũng là quá trình tìm ra các hành vi tham nhũng được thực hiện bởi các chủ
thể cụ thể. Do chủ thể tham nhũng thường là những người có chức vụ, quyền hạn và
một số trường hợp được che đậy bằng các thủ đoạn hết sức tinh vi, thậm chí còn được
các công cụ quyền lực bảo vệ, che chắn, do đó việc phát hiện tham nhũng là một trong
những công việc hết sức khó khăn. Để phát hiện tham nhũng, các quốc gia trên thế
giới áp dụng nhiều cách thức, nhưng chủ yếu là thông qua các nhánh quyền lực, trong
đó, có những công cụ phát hiện của nhà nước nhưng cũng có những công cụ từ xã
hội. Công cụ chính để phát hiện tham nhũng mà nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng
đó là thông qua hoạt động của các cơ quan chức năng, chuyên trách về PCTN như:
thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát. Ngoài ra, trên thực tế hiện nay, có
nhiều hành vi tham nhũng được phát hiện xuất phát từ nguồn cung cấp thông tin từ
phía tổ chức, cá nhân, trong đó không thể không nói đến vai trò của các cơ quan thông
tấn báo chí và việc tố cáo hành vi tham nhũng của công dân. Để phát huy vai trò của
các tổ chức, cá nhân trong xã hội, nhà nước cũng xây dựng cơ chế để họ có điều kiện
tham gia vào việc phát hiện tham nhũng thông qua nhiều hình thức, nhất là cung cấp
thông tin về tham nhũng cho các cơ quan chức năng của nhà nước. Tiếp đó, xử lý
tham nhũng là áp dụng các biện pháp trừng phạt của nhà nước đối với người có hành

vi tham nhũng. Việc xử lý tham nhũng không chỉ nhằm mục đích trừng trị người có
hành vi tham nhũng mà còn có mục đích răn đe, giáo dục những người khác để họ
không dám thực hiện hành vi tham nhũng. Cho dù phát hiện thông qua con đường
nào đi chăng nữa thì việc kết luận và xử lý người có hành vi tham nhũng vẫn thuộc
về các cơ quan chức năng của nhà nước và theo một trình tự, thủ tục nhất định. Việc
kết luận một người có hành vi tham nhũng hay không và trách nhiệm pháp lý như thế
nào, chế tài xử lý ra sao căn cứ vào tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi tham
nhũng. Tuỳ theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tham nhũng mà các quốc
gia quy định hình thức, biện pháp xử lý người thực hiện hành vi tham nhũng khác
nhau. Thông thường nhà nước áp dụng các biện pháp xử lý kỷ luật, hành chính, trừng
phạt về kinh tế hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, trong đó việc truy cứu trách nhiệm
hình sự được áp dụng đối với những hành vi tham nhũng ở mức độ nghiệm trọng, gây
nguy hiểm cho xã hội. Đối với các hành vi tham nhũng gây nguy hiểm cho xã hội
không lớn thì pháp luật quy định các biện pháp xử lý hành chính. Trong trường hợp
hành vi tham nhũng gây thiệt hại về tài sản, quyền tài sản thì buộc khắc phục hậu quả


15

hoặc bồi thường thiệt hại, những tài sản do tham nhũng mà có thì được thu hồi nộp
vào ngân sách nhà nước hoặc trả lại cho chủ sở hữu.
1.4.2. Quan điểm về đấu tranh phòng, chống tham nhũng
1.4.2.1. Quan điểm quốc tế về đấu tranh phòng, chống tham nhũng
Quan điểm chung về đấu tranh chống tham nhũng của các nước trên thế giới
hiện nay được thể hiện qua một số khía cạnh, đó là:
Hầu hết các nước trên thế giới đều cho rằng tham nhũng là trở ngại lớn đối với
quá trình phát triển, do đó luôn đặt quyết tâm cao trong công tác phòng, chống tham
nhũng. Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia, dù có các mô hình, phương pháp, tổ chức
chống tham nhũng khác nhau, song hiệu quả chống tham nhũng luôn phụ thuộc chủ
yếu vào quyết tâm, lập trường, thái độ đấu tranh chống tham nhũng của những người

lãnh đạo, nhất là những người đứng đầu hệ thống chính trị. Bởi vậy, để chống tham
nhũng có hiệu quả thì quyết tâm chống tham nhũng mạnh mẽ là điều cần thiết và
không thể thiếu đối với mỗi quốc gia.
Tham nhũng là loại tội phạm hết sức nguy hiểm bởi tính chất, hậu quả mà nó
gây ra, do vậy, chống tham nhũng luôn là nhiệm vụ trọng tâm của các quốc gia trên
thế giới. Cuộc đấu tranh này chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi nó được tiến hành thường
xuyên, liên tục, kiên trì, không được lơ là, mất cảnh giác trên cơ sở huy động sức
mạnh tổng hợp của các lực lượng, phương tiện, biện pháp để chống tham nhũng.
Phòng, chống tham nhũng phải phục vụ nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh
tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị, xã hội.
Trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng phải kết hợp chặt chẽ giữa phòng
ngừa với trừng trị tham nhũng, trong đó phòng ngừa là giải pháp cơ bản, có tính chiến
lược và mang lại hiệu quả cao. Hầu hết các quốc gia đều cho rằng, để đấu tranh chống
tham nhũng có hiệu quả, các nước phải áp dụng tổng hợp các biện pháp phòng ngừa,
ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng, trong đó phòng ngừa là
biện pháp cơ bản, có tính chất quyết định.
Các nước đều xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ chung
các của chính Đảng, cơ quan nhà nước trong hệ thống chính trị và của toàn dân trên
cơ sở đề cao vai trò nòng cốt của các cơ quan được giao nhiệm vụ đấu tranh chống
tham nhũng.
1.4.2.2. Quan điểm của Việt Nam về đấu tranh phòng, chống tham nhũng
Hoạt động phòng ngừa và đấu tranh phòng, chống tham nhũng nói chung, các
tội phạm về tham nhũng nói riêng không phải chỉ là trách nhiệm của riêng cá nhân,


16

cơ quan, tổ chức hay đơn vị chức năng nào, mà nó phải được coi là trách nhiệm chung
của toàn xã hội; đòi hỏi sự tham gia của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền từ
Trung ương đến địa phương, các tổ chức, cơ quan, đơn vị, đoàn thể xã hội, đội ngũ

cán bộ, công chức các cấp, các ngành và sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân
dân. Đây là những chủ thể chính tham gia hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống
tham nhũng. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng ở đây
phải tuân thủ nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể tham gia hoạt động phòng
ngừa và đấu tranh chống tham nhũng. Công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham
nhũng phải đảm bảo tính hệ thống, có sự điều hành thống nhất, hợp tác chặt chẽ giữa
Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng và
từng cá nhân tham gia. Giữa các chủ thể tham gia công tác phòng ngừa và đấu tranh
chống tham nhũng phải có sự thống nhất về hình thức, nội dụng, phạm vi, đối tượng
phòng chống; thống nhất về các giải pháp phòng chống cơ bản cũng như các giải pháp
bổ trợ. Sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các chủ thể là tác nhân hết sức quan trọng bảo
đảm cho sự vận hành có hiệu quả các giải pháp phòng ngừa và đấu tranh chống tham
nhũng trong hoạt động công vụ ở Việt Nam hiện nay.
1.4.3. Hợp tác quốc tế về đấu tranh phòng chống tham nhũng
Hiện nay xu thế quốc tế hóa của hoạt động tội phạm nói chung và tội phạm
tham nhũng nói riêng đang xảy ra phổ biến. Sự nỗ lực của các cơ quan chức năng của
từng quốc gia riêng biệt mới chỉ giải quyết được một phần tình trạng tội phạm trong
từng quốc gia đơn lẻ và mang tính cục bộ, trong khi tính chất của tội phạm tham
nhũng là không chỉ diễn ra trong phạm vi quốc gia mà còn mang tính liên kết khu
vực, xuyên quốc gia. Do đó, vấn đề hợp tác quốc tế giữa các cơ quan chức năng trong
hoạt động đấu tranh phòng, chống tham nhũng của các quốc gia với nhau có vai trò
hết sức quan trọng, là điều kiện không thể thiếu trong tình hình hiện nay nhằm đảm
bảo cho sự thành công của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của từng quốc
gia cũng như toàn cầu. Xử lý tội phạm tham nhũng thông qua hợp tác quốc tế có hiệu
quả hơn nhiều do đặc điểm của loại tội phạm này có thể liên quan đến nhiều quốc gia.
Chẳng hạn, hành vi phạm tội diễn ra ở một quốc gia nhưng tài sản có thể bị dịch
chuyển, tẩu tán sang một quốc gia khác. Vì vậy, để thu hồi tài sản rất cần có sự trợ
giúp từ các quốc gia khác bởi hành động đơn phương của một quốc gia sẽ không có
hiệu quả triệt để.
Trong hợp tác quốc tế, trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách đối ngoại

của quốc gia, tùy từng nội dung hợp tác như dẫn độ, xử lý tài sản do tham nhũng mà


17

có,… mà hoạt động hợp tác có thể được thay đổi linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp. Tuy
nhiên, dù thay đổi nhiều hay ít thì hoạt động hợp tác vẫn cần phải tuân thủ các nguyên
tắc của pháp luật quốc tế: tôn trọng và bình đẳng về chủ quyền, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, giải quyết các vấn đề và tranh chấp bằng các biện pháp
hòa bình, tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế. Đặc biệt, cần nhất quán tuân thủ hai
nguyên tắc là bình đẳng về chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của
quốc gia khác. Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền được thể hiện qua sự tương xứng
về quyền và nghĩa vụ. Các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện các hoạt động như tương
trợ tư pháp, dẫn độ,… trên cơ sở có đi có lại. Không quốc gia nào có quyền ép quốc
gia khác phải trợ giúp mình khi bản thân họ không có thiện chí giúp đỡ. Bên cạnh đó,
các quốc gia không được nhân danh hợp tác quốc tế để can thiệp vào công việc nội
bộ của quốc gia khác. Trên thế giới hiện nay, sự chênh lệch về trình độ phát triển,
quy mô kinh tế, quân sự,… giữa các nước là một sự thật hiển nhiên. Tuy nhiên, điều
đó không có nghĩa là nước lớn, nước phát triển hơn có thể lợi dụng vấn đề tham nhũng
để ép buộc 1 quốc gia yếu thế hơn phải thực hiện hoặc thay đổi các chính sách, pháp
luật,…
Đối với Việt Nam, công tác hợp tác quốc tế đấu tranh phòng, chống tham
nhũng phải được thực hiện dựa trên một số nguyên tắc như sau:
Thứ nhất, tuân thủ pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia và các điều ước quốc
tế đã kí kết giữa các bên trong quan hệ hợp tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Trước hết, trong hợp tác quốc tế đấu tranh phòng, chống tham nhũng, các cơ quan
chuyên trách phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình được
quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Các cơ quan này cũng phải tuân thủ
các nguyên tắc, yêu cầu đề ra trong các văn bản quy phạm pháp luật về tương trợ, trợ
giúp tư pháp trong hợp tác quốc tế. Việc phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách của

các quốc gia phải dựa trên cơ sở nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan này theo tinh thần
hợp tác của các điều ước quốc tế đã kí kết.
Thứ hai, hợp tác quốc tế đấu tranh phòng, chống tham nhũng giữa các quốc
gia phải hướng đến mục đích thực hiện yêu cầu, cam kết của từng bên. Đó là mục
đích hợp tác cùng nhau tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để mỗi bên có thể nhanh
chóng thực hiện các yêu cầu nhiệm vụ đã cam kết trong đấu tranh chống tham nhũng.
Trên cơ sở đó, các quốc gia phối hợp tiếp tục tiếp xúc, trao đổi, học tập kinh nghiệm
lẫn nhau và cùng mở rộng hơn trong quan hệ đối ngoại ở cả các lĩnh vực khác.


18

Việc tham gia và thúc đẩy quan hệ hợp tác về PCTN là nội dung được Nhà
nước ta quan tâm. Việt Nam đã kí kết và phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về
chống tham nhũng. Sau đó, đã nghiên cứu xây dựng, ban hành kế hoạch thực hiện
Công ước với những lộ trình cụ thể, trong đó, chỉ rõ những nội dung cần nghiên cứu
để nội luật hoá Công ước. Ngoài ra, Việt Nam cũng đàm phán kí kết các thoả thuận
hợp tác quốc tế về PCTN và tham gia nhiều diễn đàn, hội nghị quốc tế đa phương về
PCTN.
Hoạt động thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng sẽ tạo điều
kiện để Việt Nam có cơ hội trao đổi kinh nghiệm, phối hợp các nỗ lực chung trong
việc ngăn chặn quốc nạn tham nhũng đang ngày càng làn rộng trên bình diện quốc tế.
Hợp tác quốc tế cũng sẽ tạo cơ hội để chúng ta tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của
các nước và các tổ chức quốc tế, tạo thêm nguồn lực để củng cố và phát triển các thiết
chế, các giải pháp phòng, chống tham nhũng mà chúng ta đang tiến hành.


19

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trên thế giới hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa chung thống nhất về “tham
nhũng” mà việc xác định thế nào là tham nhũng tùy theo quan điểm của từng quốc
gia, tổ chức khác nhau. Nhìn chung, với tư cách là văn kiện pháp lý quốc tế có sự
tham gia của nhiều nước thành viên, Công ước của Liên hợp quốc về chống tham
nhũng đã liệt kê ra các hành vi được coi là tham nhũng bao gồm các hành vi như biển
thủ tài sản, nhận hối lộ, hối lộ,… của các công chức hoặc chủ thể khác nhằm đạt được
lợi ích không chính đáng. Bên cạnh khái niệm tham nhũng, việc tìm hiểu về nguồn
gốc, nguyên nhân, bản chất của tham nhũng cũng rất cần thiết. Phải xác định rõ
nguyên nhân và hệ quả của tệ nạn này thì mới có thể tìm ra phương hướng và giải
pháp để loại bỏ nó.
Muốn loại bỏ được tham nhũng cần phải kết hợp cả phòng ngừa và chống. Dù
có những quan điểm không hoàn toàn tương đồng nhưng các quốc gia đều cho rằng
tham nhũng là một trở lực lớn cho sự phát triển kinh tế và sự ổn định về chính trị, xã
hội. Chính vì thế, các quốc gia đều rất đồng lòng trong công tác hợp tác quốc tế phòng,
chống tham nhũng dựa trên những nguyên tắc nhất định phù hợp với pháp luật quốc
tế và pháp luật quốc gia.
Những năm qua hoạt động hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng của
Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định. Thông qua các hoạt động hợp tác
quốc tế, chúng ta đã giành được thêm nhiều sự ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế,
sự phối hợp chặt chẽ của cộng đồng quốc tế trong nỗ lực chung nhằm ngăn chặn và
đẩy lùi tham nhũng.


20

Chương 2

PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA
VỀ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
Trong thời đại hội nhập và đặc biệt là sự lan rộng của tệ nạn tham nhũng đến

khắp các quốc gia trên thế giới như hiện nay, đòi hỏi phải có sự chung tay hợp tác
giữa các quốc gia phòng chống tệ nạn này. Chính vì lẽ đó, ngay cả trong hoạt động
lập pháp, hành pháp và tư pháp của mỗi quốc gia cũng không thể chỉ dựa vào tiềm
lực của một mình quốc gia đó. Nói cách khác, cần có sự nhìn nhận, tìm hiểu và tiếp
thu đúng đắn những kinh nghiệm của cộng đồng quốc tế, của các quốc gia khác nhau
để có thể xây dựng những quy định pháp luật cập nhật, hợp lí, bảo đảm xử lý đầy đủ,
kịp thời, thích đáng những tội phạm tham nhũng.
2.1. Pháp luật quốc tế về phòng chống tham nhũng
Hiện nay, ngoài Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng điều chỉnh
trực tiếp loại tội phạm này thì còn có một số các Điều ước quốc tế khác có liên quan.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ đề cập đến một vài điều ước quốc
tế tiêu biểu nhằm tìm hiểu về nội dung các quy định trong những văn bản này liên
quan đến tội phạm tham nhũng và phòng chống tham nhũng, từ đó đánh giá về sự
tương thích giữa quy định trong các điều ước quốc tế với các quy định của pháp luật
Việt Nam.
2.1.1. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003
Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng hoàn thành vào ngày
30/9/2003 và được Đại hội đồng thông qua trong Nghị quyết 58/4 ngày 31/10/2003,
là một bước tiến lớn trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng mang tính toàn cầu, đặc
biệt là trong nỗ lực của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc nhằm xây dựng một
cách tiếp cận chung cho cả các nỗ lực trong nước cũng như quốc tế.
2.1.1.1. Khái quát về Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng
Trong quá trình xây dựng, bản dự thảo của Công ước của Liên hợp quốc về
chống tham nhũng đã được đưa ra tranh luận tại Ủy ban của Liên hợp quốc về phòng
chống tội phạm và tư pháp hình sự và Ủy ban lâm thời liên chính phủ vô thời hạn do
Đại hội đồng thành lập để xây dựng Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia của Liên hợp quốc vào tháng 1/1999 và tháng 10/2000. Công ước này có hai điều
khoản chung quy định các tội phạm chống tham nhũng cơ bản và các biện pháp phòng



×