Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Bình luận về các điều kiện chi ngân sách nhà nước (qui định pháp luật và thực tiễn áp dụng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.57 KB, 16 trang )

Đề số 6
Bình luận về các điều kiện chi ngân sách nhà nước
(qui định pháp luật và thực tiễn áp dụng).

Mục lục
I. Mở bài
II.Nội dung
1. Khái quát chung về chi ngân sách nhà nước
1.1. Khái niệm
1.2 Đặc điểm chi ngân sách nhà nước
1.3 Phân loại chi ngân sách nhà nước
1.4 Các phương thức chi ngân sách nhà nước
2. Điều kiện chi ngân sách nhà nước theo qui định của pháp luật hiện hành
2.1. Đã có trong dự tốn ngân sách được giao
2.2. Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quyết định
2.3. Đã được Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy
quyền quyết định chi
2.4. Các điều kiện khác
3.Thực tiễn áp dụng
3.1. Những điểm bất cập còn tồn tại
3.2. Nguyên nhân và những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các
điều kiện chi ngân sách nhà nước
IV – KẾT LUẬN

1


I.Mở bài
Ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng được nhà nước sử dụng
để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường , huy động nguồn
tài chính ,điều tiết vĩ mơ nền kinh tế , cũng như điều tiết thu nhập nhằm đảm


bảo công bằng xã hội.Những việc đó được thực hiện thơng qua hoạt động
thu, chi ngân sách nhà nước. Thu để định hướng đầu tư , kích thích hoặc hạn
chế sản xuất,kinh doanh…chi để nâng cao chất lượng y tế,giáo dục, nâng
cao đời sống nhân dân…Tuy nhiên trong điều kiện ngân sách nhà nước cịn
eo hẹp ,thì việc chi ngân sách thế nào cho hiệu quả và tiết kiệm , tránh được
tình trạng thất thốt,thâm hụt ln là vấn đề được đặt ra. Chính vì thế, các
điều kiện chi ngân sách nhà nước đã được pháp luật qui định

II.Nội dung
1.Khái quát chung về ngân sách nhà nước
1.1 Khái niệm
Chi ngân sách nhà nước là một bộ phận trong cơ cấu NSNN. Luật ngân
sách nhà nước 2002 đã đưa ra khái niệm chi ngân sách nhà nước, tại Khoản
2 Điều 2. Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế

2


- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà
nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy
định của pháp luật. Khái niệm trên đã chỉ ra một cách khá đầy đủ những nội
dung chi cơ bản, mang tính then chốt cho việc đảm bảo các hoạt động của bộ
máy nhà nước, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong các
lĩnh vực khác nhau.
Ngồi ra, theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học còn định nghĩa chi
NSNN là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phân phối và sử
dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của
nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước có vai trị quan trọng trong sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội của quốc gia.Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay ở nước ta, nhiều

vấn đề kinh tế xã hội của đát nước đang đặt ra thách thức đối với các khoản
chi ngân sách một cách tùy tiện ,ngẫu hứng ,thiếu sự phân tích hồn cảnh cụ
thể sẽ có ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.2 Đặc điểm chi ngân sách nhà nước
- Chi ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối và sử dụng quỹ ngân
sách nhà nước, hoạt động này chỉ có thể thực hiện trên cơ sở quy định pháp
luật và dự toán ngân sách do cơ quan quyền lực nhà nước quyết định. Đây là
một nội dung quan trọng quyết định đến hiệu quả quản lý Nhà nước của bộ
máy nhà nước vì thế, nó phải được thông qua theo nguyên tắc tập thể
bằngqua một quy trình luật định nghiêm ngặt. Mọi hoạt động chi ngân sách
phải được thực hiện trên cơ sở dự toán do Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp quyết định.
- Chi ngân sách nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi các chủ thể
quyền lực gồm hai nhóm:
3


+ Nhóm chủ thể đại diện cho Nhà nước thực hiện việc quản lý, cấp
phát, thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước, gồm Bộ tài chính, Sở tài
chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Phịng tài chính quận, huyện,
thị xã thuộc tỉnh, thành phố, Sở kế hoạch và đầu tư và Kho bạc nhà nước.
+ Nhóm chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước. Nhóm chủ thể này rất
đa dạng, có thể phân thành ba loại chủ yếu gồm:
 Các cơ quan nhà nước, kể cả các cơ quan hành chính thực hiện
khốn biên chế và kinh phí quản lý hành chính.
 Các đơn vị, kể cả đơn vị sự nghiệp có thu.
 Các chủ dự án sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
- Mục tiêu cơ bản của chi ngân sách nhà nước là đáp ứng nhu cầu về
tài chính cho sự hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho nhà nước
thực hiện được chức năng và nhiệm vụ của mình. Ngồi ra, thơng qua việc

thể chế hóa bằng pháp luật đối với hoạt động chi ngân sách, Nhà nước còn
hướng đến những mục tiêu khác, trong đó bao gồm mục tiêu quản lý hiệu
quả việc sử dụng công quỹ và tăng cường kỷ luật ngân sách, tạo cơ sở pháp
lý cho việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ngân sách, góp phần hạn
chế tình trạng tham hang, lãng phí tài sản nhà nước.
1.3 Phân loại chi ngân sách nhà nước
Căn cứ vào tiêu chí mục đích kinh tế - xã hội của các khoản chi ngân
sách nhà nước thì ta có thể phân chia các khoản chi NSNN thành hai loại:
- Chi đầu tư phát triển. Theo Khoản 1 Điều 3 NĐ 60/2003/NĐ-CP thì
các khoản chi được xếp vào loại chi đầu tư phát triển gồm: chi đầu tư xây
dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khơng có khả năng thu
hồi vốn; chi đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức
tài chính Nhà nước; chi bổ sung dự trữ nhà nước; chi đầu tư phát triển thuộc
4


các mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước…Chi đầu tư phát triển phải đảm bảo
cấp đủ và đúng tiến độ thực hiện trong phạm vi dự toán được giao.
- Chi thường xuyên: Đây là những khoản chi mang tính ổn định, định
kỳ, lặp đi lặp lại và là khoản chi mang tính tiêu dùng, gồm có: chi cho các
hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa thơng tin, văn
học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ; chi cho hoạt động
của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; chi cho các hoạt động sự
nghiệp kinh tế; chi cho quốc phòng an ninh, trật tự an tồn xã hội…
Ngồi ra, cịn có các loại chi ngân sách khác như chi trả nợ gốc và lãi
các khoản tiền do Chính phủ vay, chi viện trợ của Ngân sách trung ương cho
các Chính phủ và tổ chức ngồi nước, chi cho vay của ngân sách trung ương,
chi bổ sung ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới…
1.4 Các phương thức chi ngân sách nhà nước
Phương thức chi ngân sách nhà nước là cách thức Nhà nước sử dụng

để chuyển giao nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các chủ thể
hưởng ngân sách nhà nước. Trong pháp luật hiện hành, có hai phương thức
chi ngân sách nhà nước, đó là chi theo hạn mức (theo dự tốn kinh phí) và
chi theo lệnh chi tiền.
- Phương thức chi theo hạn mức (theo dự tốn kinh phí): áp dụng đối
với khoản chi mà cơ quan tài chính khơng cấp phát trực tiếp. Đối tượng áp là
các đối tượng thường xuyên sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước để thực
hiện nhiệm vụ được giao. Phương thức này được áp dụng rộng rãi, tuy nhiên
các đơn vị sử dụng ngân sách thường khơng chủ động trong q trình sử
dụng kinh phí, làm hiệu quả sử dụng NSNN khơng cao.
- Phương thức chi theo lệnh chi tiền: áp dụng đối với những khoản chi
do cơ quan tài chính cấp phát trực tiếp cho đơn vị sử dụng ngân sách. phạm
5


vi áp dụng của phương thức này hẹp hơn phương thức chi theo hạn mức.
Tuy nhiên, phương thức này lại tạo được sự chủ động tối đa cho các đơn vị
sử dụng ngân sách, thêm vào đó nâng cao trách nhiệm của cơ quan tài chính
trong q trình cấp phát kinh phí.

2. Các điều kiện chi ngân sách nhà nước
Các điều kiện chi ngân sách nhà nước được quy định tại Khoản 2
Điều 5 Luật ngân sách nhà nước 2002 và Điều 51 Nghị định 60/2003/NĐCP.
2.1 Đã có trong dự toán ngân sách được giao
Như đã biết, các khoản chi NSNN được chia chủ yếu thành hai loại là
chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, nhưng trong mỗi loại chi đó, các
nội dung chi cụ thể là hết sức đa dạng. Khoản kinh phí đã được ghi trong dự
toán chi ngân sách thể hiện cam kết thanh toán của Nhà nước đối với các
đơn vị sử dụng ngân sách. Dựa trên cam kết này, các đơn vị sử dụng ngân
sách có quyền địi hỏi Nhà nước phải cấp đủ cho mình số kinh phí mà Nhà

nước đã cam kết với điều kiện đơn vị sử dụng ngân sách chứng minh được
rằng họ có đầy đủ những điều kiện được cấp phát theo quy định của pháp
luật.
Đây là điều kiện thứ nhất mà khoản chi phải thỏa mãn để có thể được
thanh tốn. Quy định này đưa ra để đảm bảo các khoản dự định chi sẽ phù
hợp với tổng thể các khoản chi khác, phù hợp với định hướng phát triển kinh
tế - xã hội mà Nhà nước đề ra trong năm ngân sách. Tuy nhiên, điều kiện
này cũng có những trường hợp ngoại lệ:
Trường hợp thứ nhất, là trường hợp đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách
và phương án phân bổ ngân sách chưa được cơ quan nhà nước có thẩm
6


quyền quyết định thì cơ quan tài chính các cấp được phép tạm cấp kinh phí
cho các nhu cầu khơng thể trì hỗn được cho tới khi dự tốn ngân sách và
phương án phân bổ ngân sách được quyết định (Điều 45 Nghị định 60/2003/
NĐ-CP) . Đây là phương án bổ sung mà luật đưa ra cho các chủ thể sử dụng
ngân sách áp dụng, tạo sự linh hoạt trong hoạt động của các chủ thể đó khi
chưa có dự tốn ngân sách, đảm bảo ứng phó kịp thời với các trường hợp
xảy ra ngoài dự kiến, đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên các chủ thể được tạm cấp kinh phí phải đảm bảo hồn trả ngay
khi dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách được quyết định, nguồn vốn đã
được chuyển về. Quy định thể hiện sự linh hoạt của các nhà làm luật, tạo
điều kiện để việc thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng thụ hưởng ngân sách
không bị gián đoạn.
Trường hợp thứ hai, Chi từ nguồn tăng thu so dự tốn được giao và từ
nguồn dự phịng ngân sách theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Nguồn
tăng thu là nguồn thu phát sinh tăng thêm, nằm ngồi dự tốn ngân sách vì
vậy chi từ khoản này cũng khơng thể nằm trong dự toán ngân sách. Chi từ
nguồn tăng thu ở cấp ngân sách nào sẽ do cơ quan có thẩm quyền của cấp

ngân sách đó quyết định. Số tăng thu này sẽ được sử dụng để giảm bội chi,
tăng chi trả nợ, tăng chi đầu tư phát triển, bổ sung quỹ dự trữ tài chính, tăng
dự phịng ngân sách. Còn các khoản chi từ nguồn dự phòng ngân sách được
sử dụng trong trường hợp có nhu cầu chi đột xuất ngồi dự tốn ngân sách.
Khoản chi ngồi dự tốn này sẽ giúp giải quyết kịp thời vấn đề phát sinh đột
xuất ngoài dự kiến.
2.2 Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quyết định
Điều kiện này được đặt ra vì mỗi lĩnh vực chi mang một điểm đặc thù
lĩnh vực khác nhau vì vậy khơng thể có một tỷ lệ chi dự tốn chi chung cho
7


tất cả các lĩnh vực. Mỗi lĩnh vực được quy định một chế độ, định mức, tiêu
chuẩn chi khác nhau. Ví dụ, từ năm 2001 đến nay, hàng năm, Nhà nước
dành 2% tổng chi ngân sách để đầu tư cho khoa học – công nghệ. Đối với
lĩnh vực giáo dục, Nhà nước dành 20% tổng ngân sách nhà nước. Các định
mức, tiêu chuẩn, chế độ này do Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng
Bộ tài chính, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Cụ thể như sau: Chính
phủ quy định chế độ chi quan trọng, phạm vi ảnh hưởng rộng như chế độ
tiền lương, trợ cấp xã hội, chế độ đối với người có cơng với cách mạng…
Thủ tướng chính phủ quy định chế độ, định mức thực hiện thống nhất trong
phạm vi cả nước. Bộ trưởng bộ tài chính quy định chế độ, định mức áp dụng
đối với các ngành, lĩnh vực. Ủy ban nhân dân tỉnh quy định một số khoản
chi mang tính đặc thù ở địa phương. Quy định này đặt ra một giới hạn cho
các khoản chi dự định thực hiện, phải nằm trong định mức đã được quy định
trong dự toán. Tuy vậy việc quy định định mức cho các khoản chi ngân sách
có thể làm giảm tính chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách, hơn nữa có
thể làm xuất hiện tình trạng các đơn vị sử dụng ngân sách cố chi cho hết số
ngân sách đã được phân bổ, khơng quan tâm đến hiệu quả của khoản chi đó.
Hơn nữa, việc dự toán ngân sách cần bám sát điều kiện kinh tế - xã hội tại

từng thời điểm để đưa ra những tiêu chuẩn, định mức, chế độ phù hợp.
2.3 Đã được Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy
quyền quyết định chi
Đây là điều kiện đủ để một khoản chi có thể được thực hiện. Một
khoản chi đã nằm trong dự toán ngân sách nhà nước, đã đúng với chế độ,
tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quyết định nhưng nếu khơng
được Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết
định chi thì khoản chi đó cũng không thể được thực hiện. Quy định này đảm
8


bảo quyền quản lý của những người đứng đầu đơn vị sử dụng ngân sách
trong việc chi ngân sách, đồng thời đảm bảo chi đúng,chi đủ. Bởi Thủ
trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền là những người
trực tiếp quản lý, điều hành đơn vị đó. Vì vậy, họ sẽ nắm rõ nhu cầu chi của
đơn vị mình quản lý, từ đó ra quyết định có chi hay khơng một khoản nào
đó.
Với những khoản chi do cơ quan tài chính cấp phát trực tiếp thì quyết
định chi là “lệnh chi tiền” của cơ quan tài chính. Lệnh chi tiền là quyết định
chi do cơ quan tài chính phát hành, gửi Kho bạc nhà nước, yêu cầu kho bạc
chi trả, thanh toán một số tiền cho đơn vị sử dụng ngân sách theo đúng nội
dung của lệnh chi. Cơ quan tài chính chịu trách nhiệm kiểm tra, kiểm sốt
nội dung, tính chất của từng khoản chi, bảo đảm các điều kiện chi đúng theo
quy định của pháp luật. Kho bạc nhà nước thực hiện chi trả, thanh toán cho
đơn vị sử dụng ngân sách theo nội dung ghi trong lệnh chi tiền của cơ quan
tài chính.
Các khoản chi cơ quan tài chính khơng cấp phát trực tiếp thì khi có
nhu cầu chi, đơn vị sử dụng ngân sách lập và gửi Kho bạc nhà nước giấy rút
dự toán ngân sách nhà nước cùng với quyết định chi do thủ trưởng đơn vị
ký.

Luật đã quy định rất rõ vài trò, cũng như trách nhiệm của thủ trưởng
đơn vị sử dụng ngân sách, đó là phải ra quyết định chi đúng chế độ, tiêu
chuẩn, định mức và trong phạm vi dự tốn được cấp có thẩm quyền giao; có
trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản nhà nước theo
đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức, đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả..
2.4 Các điều kiện khác

9


Ngoài ba điều kiện cơ bản trên, trong Nghị định 60/2003/NĐ-CP và
Thơng tư 79/2003/TT-BTC cịn quy định một số điều kiện cụ thể khác về chi
ngân sách nhà nước.
a.Khoản chi dự định thực hiện phải có đủ hồ sơ, chứng từ thanh toán đầy
đủ
Đây là một điều kiện cụ thể được đưa ra tại Thơng tư 79/2003/TTBTC. Theo đó các khoản chi dự định thực hiện phải có đủ hồ sơ, chứng từ
thanh tốn hợp lệ. Tùy theo tính chất của từng khoản chi mà hồ sơ, chứng từ
thanh toán được yêu cầu khác nhau. Ví dụ: đối với khoản chi thanh tốn cá
nhân (như chi tiền lương) thì hồ sơ, chứng từ bao gồm: bảng đăng ký biên
chế, quỹ lương đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, danh
sách những người hưởng lương, phụ cấp lương, bảng tăng giảm biên chế và
quỹ tiền lương được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Qui định
này tạo cơ sở chắc chắn, cụ thể, chính xác cho các khoản chi khi thực hiện vì
có chứng từ, hóa đơn kèm theo, tạo thói quen sử dụng chứng từ cho các đối
tượng sử dụng ngân sách khi có các nhu cầu chi phát sinh.
b. Khoản 4 Điều 51 NĐ 60/2003/NĐ-CP
“Ngoài các điều kiện quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều này;
trường hợp sử dụng vốn, kinh phí ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ
bản, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc và các công việc khác
phải qua đấu thầu hoặc thẩm định giá thì cịn phải tổ chức đấu thầu hoặc

thẩm định giá theo quy định của pháp luật;”
Đây chính là khoản chi hành chính đảm bảo cho hoạt động thường xuyên
của bộ máy nhà nước. Quy định này đảm bảo chi hoạt động chi trong lĩnh
vực này là chi đúng, chi đủ, tổ chức đấu thầu hoặc định giá tài sản với mục
đích xác định giá trị thực sự của tài sản, từ đó thực hiện khoản chi hợp
pháp,đúng đắn.
10


c.Khoản 5 Điều 51 NĐ 60/2003/NĐ-CP
“Các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia đều trong năm để
chi; các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số thời
điểm như đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi
có tính chất khơng thường xun khác phải thực hiện theo dự toán quý được
đơn vị dự toán cấp I giao cùng với giao dự toán năm.”

3.Thực tiễn áp dụng
3.1 Những điểm bất cập
Hiện nay, bội chi NSNN, thất thoát NSNN đang là những vấn đề nổi cộm.
Theo báo cáo thẩm tra về bội chi ngân sách do Ủy ban Kinh tế - Ngân
sách Quốc hội công bố, năm 2008 mức bội chi ước tính là 66.200 tỉ đồng,
tăng 17,1%, trong khi năm 2007 là 56.500 tỉ đồng (tăng 16,2%). Thậm chí,
bội chi dự kiến năm 2009 cịn cao hơn nữa, khoảng 87.300 tỉ đồng, tăng tới
31,7%.
Ủy ban Kinh tế - Ngân sách đã thừa nhận, dự toán chi ngân sách chưa
được thực hiện nghiêm nên hiệu quả thấp. Chẳng hạn như mức chi ngân
sách cho đầu tư phát triển cả năm 2009 ước đạt 118.000 tỉ đồng, tăng 18,3%
so với mức dự toán. Tuy nhiên, tốc độ giải ngân vẫn rất chậm và căn bệnh
đầu tư dàn trải, thất thốt lãng phí vẫn chưa được giải quyết thấu đáo.
Đặc biệt, việc triển khai và giải ngân vốn đầu tư phát triển chậm, nhất là

vốn trái phiếu chính phủ, xử lý nợ xây dựng cơ bản vẫn chậm. Năm 2007,
tổng chi ngân sách nhà nước (NSNN) đã tăng 3,1% so với dự tốn. Tuy
nhiên, chi phí cho quản lý hành chính ở các địa phương đã tăng 47,8% so
với năm 2006, vượt 5,1% so với dự toán. Như vậy, việc bố trí chi ngân sách
cho một số khoản chưa thật sự cấp bách cho thấy kỷ luật tài chính chưa

11


nghiêm. Thậm chí, có tới 1.863,7 tỷ đồng "rót" cho 142 dự án chưa đủ thủ
tục đầu tư. 129 dự án quá thời hạn quy định, với tổng số vốn hơn một ngàn
tỷ đồng. Nhiều địa phương bố trí vốn cho giáo dục và khoa học - công nghệ
thấp hơn dự toán TW giao.
Chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước cịn thiếu, chưa
tương xứng với tình hình thực tế, gây khó khăn trong việc cấp phát, kiểm tra,
kiểm sốt trong chi NSNN. Ví dụ: hàng năm Quốc hội chỉ phân bổ một
lương nhỏ (2% tổng chi NSNN) cho lĩnh vực khoa học, công nghệ, tuy nhiên
thủ tục pháp luật quy định quá rườm rà khiến cho ngân sách dành cho khoa
học cũng không dùng hết. Trong khi đó, đối với lĩnh vực giáo dục, được đầu
tư rất lớn qua các năm (20% tổng NSNN) nhưng hiệu quả sử dụng ngân sách
thì lại khơng cao.
3.2 Ngun nhân và giải pháp khắc phục
a.Nguyên nhân
- Thứ nhất: sự tuân thủ pháp luật của các đơn vị sử dụng ngân sách
còn yếu, ảnh hưởng nhiều đến việc đảm bảo các điều kiện chi, từ đó ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động chi NSNN. Các đơn vị sử dụng ngân sách khi
nhận được nguồn kinh phí thường khơng quan tâm đúng mức đến thực tiễn
nhiệm vụ được giao và ln tìm mọi cách để nâng cao dự tốn chỉ để có thể
sử dụng kinh phí một cách thoải mái.
- Thứ hai: ngun tắc lập dự tốn từ dưới lên khơng được đảm bảo.

Để có một bản dự tốn trình lên Quốc hội, q trình lập dự tốn phải đi từ
dưới lên, từ đơn vị lập dự toán nhỏ nhất. Dự toán chi ngân sách trên địa bàn
phải do chính các đơn vị lập và nộp cho Sở tài chính theo quy định nhưng
trên thực tế, công việc này lại chỉ do chính Sở làm. Điều này dẫn đến tình
trạng dự tốn lập ra khơng chính xác, khơng sát với nhu cầu thực tiễn chi
12


trên địa bàn. Đặc biệt, đối với những tỉnh có nguồn thu thấp, không đảm bảo
được nhiệm vụ chi trên địa bàn thì cơng tác lập dự tốn khơng được quan
tâm thỏa đáng. Việc lập dự toán ở một số đơn vị sử dụng NSNN đơi khi cịn
mang tính hình thức, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chi ngân sách.
-Thứ ba: việc phê chuẩn của các cơ quan có thẩm quyền thường mang
tính hình thức và thiếu chi tiết. Giai đoạn cuối của quá trình lập ngân sách là
Quốc hội xem xét, thảo luận, và thông qua đề nghị dự tốn ngân sách của
Chính phủ. Vì vậy, các đại biểu Quốc hội phải có những chương trình, kế
hoạch mà Chính phủ dự định thực hiện, đồng thời cũng cần xem xét để đưa
ra ý kiến. Nhưng trên thực tế, thời gian để các đại biểu Quốc hội xem xét,
thảo luận vấn đề này rất ít vì thế thơng tường, Quốc hội phê chuẩn tồn bộ
dự tốn NSNN.
- Thứ tư: hệ thống chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi cịn lạc hậu và
khơng thống nhất, gây khó khăn cho việc tuân thủ các điều kiện chi NSNN
đã được pháp luật quy định. Theo Khoản 2 Điều 21 Luật NSNN thì Bộ tài
chính có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan trong việc
xây dựng các định mức phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi
nhưng cho đến nay, ngành tài chính vẫn còn lúng túng về vấn đề này. Do
vậy, bản thân các đơn vị thiếu căn cứ để lập dự toán chi, còn các cơ quan
nhà nước thiếu căn cứ để duyệt dự án. Mặt khác, do hệ thống tiêu chuẩn,
định mức chưa đồng bộ nên nhiều khoản chi được quyết định ở mỗi nơi mỗi
khác, kể cả những khoản chi được trung ương quyết định thống nhất trên cả

nước.
Ngoài ra, khi quy mô nền kinh tế tăng dần lên, nhu cầu phải tăng chi
để thúc đẩy phát triển kinh tế đang đặt ra rất cấp bách, từ đó gây sức ép căng
thẳng cho ngân sách nhà nước, quy mô ngân sách cũng phải lớn lên và tiểm
ẩn những rủi ro trong các khoản chi NSNN như tình trạng thất thốt, lãng
13


phí, tham nhũng. Chính điều này cũng tác động mạnh đến việc đảm bảo các
điều kiện chi NSNN
b. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các điều kiện chi ngân
sách nhà nước
- Hoàn thiện pháp luật về quy trình lập, chấp hành, quyết tốn ngân sách
nhà nước. Luật NSNN đã có những quy định khá rõ ràng về thời hạn, yêu
cầu, nội dung và các trình tự, thủ tục lập dự toán NSNN, tuy nhiên việc áp
dụng các qui định của pháp luật trên thực tế vẫn bộc lộ nhiều bất cập địi hỏi
việc phải hồn thiện pháp luật. Điều này sẽ đảm bảo yêu cầu có một bản dự
toán ngân sách với những khoản chi hợp lý, phù hợp với điều kiện, định
hướng phát triển kinh tế - xã hội.
- Cơ cấu lại các khoản chi ngân sách nhà nước sao cho phù hợp, theo kịp
với tình hình kinh tế - xã hội, có tỷ trọng hợp lý giữa chi đầu tư phát triển
với chi thường xuyên, chi trả nợ, chi dự phòng…Một thực tế là trong những
năm gần đây, chi đầu tư có xu hướng tăng. Tuy nhiên chi đầu tư phát triển
kinh tế lại chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước, khiến cho các khoản chi
trở nên vừa kém hiệu quả, vùa hạn hẹp. Để nâng cao hiệu quả, chi đầu tư
phát triển kinh tế phải được huy động trong toàn xã hội, khơng thể chỉ lấy từ
ngân sách nhà nước.
- Hồn thiện cơ chế kiểm soát chi chặt chẽ để các chủ thể sử dụng ngân
sách chấp hành nghiêm túc các điều kiện chi trong hoạt động chi ngân sách.
Có chế tài tương xứng đối với những đơn vị sử dụng ngân sách không chấp

hành tốt các điều kiện chi NSNN theo luật định.
- Nâng cao mức độ tham gia, kiểm tra giám sát của nhân dân đối với hoạt
động chi ngân sách để các đơn vị sử dụng ngân sách có ý thức hơn trong
việc sử dụng nguồn vốn được cấp.
14


IV.Kết bài
Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định
hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời
sống xã hội. Việc thực hiện chi ngân sách như thế nào để đúng mục đích,
khơng gây lãng phí mà mang lại hiệu quả thực sự cũng là một vấn đề quan
trọng, vì thế địi hỏi phải đảm bảo việc tuân thủ các điều kiện chi ngân sách
nhà nước. Thực hiện tốt được điều này sẽ thúc góp phần thúc đẩy nền kinh
tế phát triển, tránh thất thoát nguồn ngân sách, thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ kinh tế, chính trị… phát huy được thế mạnh tiềm năng của đất
nước, tránh được tình trạng bội chi ngân sách quá lớn và sẽ dẫn đến khả
năng bùng nổ lạm phát về kinh tế.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật ngân sách nhà nước – Trường Đại học Luật Hà Nội
2. Luật Ngân sách nhà nước 2002
3. Từ điển giải thích thuật ngữ luật học
4. Nghị định 60/2003/NĐ-CP
5. Thông tư 79/2003/TT-BTC
6. Mạng internet.


16



×