Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.1 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HÀ THƢ

CĂN CỨ LY HÔN
TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng nghiên cứu

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HÀ THƢ

CĂN CỨ LY HÔN
TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 60380103



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng nghiên cứu

Người hướng dẫn khoa học: TS Bùi Thị Mừng

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, đƣợc trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Hà Thƣ


DANH MỤC VIẾT TẮT
HN&GĐ

Hôn nhân và Gia đình

DLGY

Dân luật giản yếu Nam kỳ


DLBK

Dân luật Bắc kỳ

DLTK

Dân luật Trung kỳ

BLDS

Bộ luật dân sự


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN VÀ
CĂN CỨ LY HÔN................................................................................................. 7
1.1. Khái niệm ly hôn và căn cứ ly hôn .............................................................. 7
1.1.1. Khái niệm ly hôn ....................................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn ......................................................................... 10
1.2. Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn trong pháp luật ...................................... 13
1.3. Ý nghĩa của việc quy định căn cứ ly hôn .................................................. 18
1.4. Căn cứ ly hôn theo pháp luật một số nƣớc trên thế giới ........................... 19
1.4.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật Thái Lan .................................................. 19
1.4.2. Căn cứ ly hôn theo pháp luật Pháp ........................................................ 20
1.4.3. Căn cứ ly hôn theo pháp luật Lào .......................................................... 22
1.4.4. Căn cứ ly hôn theo pháp luật Nhật Bản ................................................. 25
1.4.5. Căn cứ ly hôn theo pháp luật Đài Loan ................................................. 26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..................................................................................... 28
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH VỀ CĂN CỨ LY HÔN TRONG PHÁP LUẬT

VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ ...................................................................... 29
2.1. Căn cứ ly hôn trong pháp luật thời kỳ phong kiến .................................... 29
2.2. Căn cứ ly hôn trong pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc ................... 34
2.3. Căn cứ ly hôn trong pháp luật ở miền Nam dƣới chế độ Việt Nam
Cộng hòa ........................................................................................................... 37
2.4. Căn cứ ly hôn trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay ................ 41
2.4.1. Căn cứ ly hôn theo Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 ...................... 41
2.4.2. Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 1959 ......................................... 43
2.4.3. Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 1986 ......................................... 45
2.4.4. Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000 ......................................... 47
2.4.5. Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 ......................................... 48
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..................................................................................... 58


CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ LY HÔN .......................... 59
3.1. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết vụ việc ly hôn ................. 59
3.1.1. Nhận xét chung ....................................................................................... 59
3.1.2. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm
2014 .................................................................................................................. 62
3.2. Đánh giá việc áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết vụ việc ly hôn........... 70
3.2.1. Thành tựu đạt được ................................................................................ 70
3.2.2. Mặt hạn chế ............................................................................................ 72
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng căn cứ ly hôn ........... 79
3.3.1. Hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn................................................... 79
3.3.2. Nâng cao trình độ, kỹ năng và đạo đức người xét xử ............................ 80
3.3.3. Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật về ly hôn và căn cứ ly hôn cho
người dân .......................................................................................................... 82
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3..................................................................................... 84

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 85


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào, là thiết chế cơ bản nhất của xã hội. Gia đình là môi
trƣờng quan trọng trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống, giáo dục nếp
sống, hình thành nhân cách con ngƣời, đồng thời giúp mỗi cá nhân ngày càng
hoàn thiện về thể chất, trí tuệ và tinh thần chuẩn bị hành trang hòa nhập vào
cộng đồng xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: “Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”.
Hôn nhân và gia đình là các hiện tƣợng xã hội phát sinh và phát triển cùng với
sự phát triển của xã hội loài ngƣời. Trong đó, kết hôn là tiền đề, điều kiện xác
lập quan hệ vợ chồng, quan hệ gia đình theo quy định của pháp luật. Ngƣợc
lại, ly hôn là căn cứ chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng, làm tan vỡ
quan hệ gia đình và gây ra những hậu quả xấu cho mỗi gia đình và xã hội
nhƣ: vợ, chồng đau khổ về tinh thần, gặp khó khăn về kinh tế do giảm thu
nhập; con cái bị ảnh hƣởng tới sự hình thành nhân cách do chứng kiến sự vãi
vã, xích mích trƣớc kia của bố mẹ, sau là sự thiếu trách nhiệm trong việc
chăm sóc, giáo dục con cái sau ly hôn, dẫn đến trẻ thiếu tự tin, mặc cảm, dễ bị
lôi kéo vào những tệ nạn xấu....
Ly hôn không chỉ ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ
chồng mà còn ảnh hƣởng đến các thành viên khác trong gia đình và xã hội.
Do vậy dù quá trình giải quyết ly hôn cũng diễn ra hết sức phức tạp, nhƣng
đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết ly hôn cần phải hết sức
sáng suốt và tìm hiểu cặn kẽ để phán quyết một cách chính xác, hợp lý, khách
quan. Để làm đƣợc điều đó, đòi hỏi hệ thống phát luật phải có những quy định
cụ thể, chặt chẽ về căn cứ ly hôn để cơ quan có thẩm quyền dựa vào đó mà ra

đƣợc phán quyết chính xác.
Ly hôn là mặt trái của quan hệ hôn nhân nhƣng lại không thể thiếu khi
quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Ly hôn góp phần giải phóng con ngƣời ra khỏi
xung đột khi hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Đây cũng là biện pháp nhằm loại bỏ


2

những quan hệ hôn nhân đã không còn sức sống, không còn lành mạnh để góp
phần xây dựng, củng cố các quan hệ gia đình khác trên cơ sở vững chắc hơn.
Qua từng giai đoạn phát triển, các nhà lập pháp đã không ngừng nghiên
cứu về chế định ly hôn. Một trong những nội dung đƣợc các nhà làm luật
quan tâm và nghiên cứu nhiều nhất đó là căn cứ ly hôn. Căn cứ ly hôn là
những điều kiện, tình tiết để dựa vào đó cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền giải
quyết ly hôn cho vợ chồng. Vì việc ly hôn không thể đƣợc phán xử một cách
tùy tiện cho nên căn cứ ly hôn cũng đòi hỏi phải mang tính khách quan, khoa
học và chính xác. Việc xác định và quy định chính xác, khoa học căn cứ ly
hôn sẽ là khung pháp lý quan trọng để bức tranh ly hôn hiện ra đúng bản chất
và ý nghĩa của nó, từ đó việc giải quyết ly hôn sẽ đƣợc thực hiện đúng đắn,
hạn chế đƣợc những hậu quả mà ly hôn mang lại. Xác định căn cứ ly hôn là
điều không dễ dàng, đòi hỏi sự dày công nghiên cứu của các nhà lập pháp để
tìm ra cơ sở đúng đắn, khách quan, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội
trong từng thời kỳ.
Qua mỗi thời kỳ căn cứ ly hôn lại có những bƣớc thay đổi và đột phá
mới trên tinh thần kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp cũ, loại bỏ những
tƣ tƣởng cổ hủ, lỗi thời. Tuy nhiên, căn cứ ly hôn hiện nay ở nƣớc ta còn khá
chung chung, khó xác định, ảnh hƣởng đến việc áp dụng pháp luật về căn cứ
ly hôn trong thực tiễn. Các căn cứ ly hôn đƣợc quy định trong Luật HN&GĐ
năm 2014 còn chƣa cụ thể và chƣa có văn bản hƣớng dẫn cụ thể việc áp dụng
các căn cứ ly hôn đó. Do vậy, việc nghiên cứu về lý luận, phân tích và đánh

giá những thay đổi về căn cứ ly hôn qua các thời kỳ lịch sử cũng nhƣ phân
tích để thấy đƣợc mặt tích cực và hạn chế khi áp dụng căn cứ ly hôn trong
thực tế để từ đó đƣa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của pháp luật là một vấn đề mang tính cấp thiết.
Xuất phát từ những ly do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Căn cứ ly hôn
trong hệ thống pháp luật Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ của mình.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến thời điểm này, đã có nhiều các công trình khoa học nghiên
cứu về căn cứ ly hôn. Một số công trình khoa học nghiên cứu về căn cứ ly
hôn trƣớc đây gồm có:
Nguyễn Thị Thu Vân (2015), Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam, tạp
chí Nhà nƣớc và pháp luật - 8/2015 - Số 208. Bài viết đề cập đến những căn
cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam, từ giai đoạn Bộ luật Hồng Đức ra đời đến
trƣớc thời kỳ Pháp thuộc. Đây là thời kỳ mà pháp luật nói chung và pháp luật
về HN&GĐ nói riêng chịu chi phối nặng nề bởi tƣ tƣởng Nho giáo và luật
pháp Trung Hoa.
Nguyễn Thị Thanh Thảo (2012), Căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. Khóa luận
nghiên cứu về căn cứ ly hôn đƣợc quy định trong các văn bản trong hệ thống
pháp luật qua các thời kỳ tính đến Luật HN&GĐ năm 2000, đồng thời nghiên
cứu việc áp dụng các quy định của pháp luật lúc bấy giờ trong công tác xét xử
của tòa án.
Inthavong Souphaphone (2014), Căn cứ ly hôn - So sánh pháp luật
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và pháp luật Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào, luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. Công trình
nghiên cứu căn cứ ly hôn đƣợc quy định trong hệ thống pháp luật của Lào và

Việt Nam từ đó đƣa ra những đánh giá và phân tích tƣơng quan giữa các quy
định đó.
Nông Thị Nhung (2014), Căn cứ ly hôn - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn tại tỉnh Lạng Sơn, luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội. Luận văn nghiên cứu các căn cứ ly hôn theo quy định tại Luật HN&GĐ
năm 2000, đánh giá và phân tích thực tiên áp dụng các căn cứ ly hôn đó để
giải quyết ly hôn tại các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Nguyễn Thị Tuyết Mai (2015), Căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và
gia đình năm 2014, luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
Luận văn nghiên cứu các căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 qua đó
đánh giá và phân tích áp dụng các căn cứ ly hôn để giải quyết ly hôn.


4

Trần Nguyễn Thị Tâm Đan (2017), Áp dụng căn cứ ly hôn tại Tòa án
nhân dân quận Thanh Xuân - Thành phố Hà Nội, luận văn thạc sỹ luật học,
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. Luận văn trình bày những vấn đề lý luận về
căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014, nghiên cứu thực tiễn áp dụng
căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 qua thực tiễn xét xử tại Tòa án
nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị và
hƣớng hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.
Bùi Minh Hồng (2017), Thực hiện quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 về xác định căn cứ ly hôn và giao con cho ai nuôi khi vợ
chồng ly hôn, Hội thảo khoa học cấp khoa, trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội. Bài viết tập trung phân tích các quy định về căn cứ ly hôn và phân tích
việc thực hiện các quy định về giao con cho ai trực tiếp chăm sóc, nuôi
dƣỡng, giáo dục và thay đổi ngƣời trực tiếp nuôi con theo pháp luật hiện
hành.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu về căn

cứ ly hôn. Tuy nhiên, hầu nhƣ những công trình nêu trên mới chỉ nghiên cứu
về căn cứ ly hôn đến thời điểm Luật HN&GĐ năm 2000 đang có hiệu lực,
cũng có đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu về căn cứ ly hôn của luật hiện hành. Với
việc nghiên cứu về căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ pháp
luật cổ đến khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực, luận văn đã tổng hợp,
khái quát và phân tích những điểm tích cực và hạn chế của các căn cứ ly hôn
qua từng thời kỳ, từ đó có những đánh giá trong việc áp dụng căn cứ ly hôn
theo pháp luật hiện hành và đƣa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp
dụng căn cứ ly hôn trên thực tiễn. Có thể nói, hiện chƣa có công trình nào
nghiên cứu toàn diện và đầy đủ về căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp luật Việt
Nam kể từ thời thời điểm Luật HN&GĐ năm 2014 ra đời nhƣ đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là thông qua việc tìm hiểu và
nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn thấy đƣợc tính kế
thừa và sự phát triển của các quy định về căn cứ ly hôn qua từng thời kỳ.
Đồng thời, đánh giá quy định về căn cứ ly hôn trong pháp luật hiện hành, việc


5

áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết vụ việc ly hôn trong thực tế, qua đó đƣa
ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật
trong thực tiễn.
Nhiệm vụ:
- Nhận diện đƣợc các khái niệm ly hôn, căn cứ ly hôn, cơ sở và ý nghĩa
của việc quy định căn cứ ly hôn, tìm hiểu về căn cứ ly hôn của một số quốc
gia trên thế giới để thấy đƣợc điểm giống và khác nhau với pháp luật Việt
Nam.
- Tìm hiểu đầy đủ, có hệ thống về căn cứ ly hôn trong pháp luật Việt
Nam qua các giai đoạn phát triển để thấy đƣợc sự kế thừa và phát triển trong

quy định của pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn.
- Nghiên cứu việc áp dụng căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành trong
thực tiễn để chỉ ra đƣợc những vƣớng mắc, bất cập, từ đó đƣa ra giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về căn cứ ly hôn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài: những vấn đề lý luận về căn cứ ly
hôn; quy định của các Bộ luật, văn bản pháp luật trong hệ thống pháp luật
Việt Nam từ thời kỳ phòng kiến đến nay về căn cứ ly hôn; thực tiễn áp dụng
các quy định của pháp luật hiện hành về căn cứ ly hôn thông qua các bản án,
số liệu đƣợc công bố của các cơ quan có thẩm quyền.
Phạm vi nghiên cứu đề tài:
- Đề tài xác định và phân tích căn cứ ly hôn theo pháp luật Việt Nam tại
một số bộ luật, văn bản pháp luật qua các thời kỳ, có tìm hiểu quy định pháp
luật về căn cứ ly hôn của một số nƣớc trên thế giới.
- Luận văn không đi sâu phân tích thực tiễn việc áp dụng quy định về
căn cứ ly hôn ở mỗi thời kỳ mà chỉ phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng
pháp luật về căn cứ ly hôn quy định tại Luật HN&GĐ năm 2014 trong việc
giải quyết các vụ án ly hôn tại một số Tòa án, từ đó đƣa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về căn cứ ly hôn hiện hành.


6

5. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lenin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử với các
phƣơng pháp nghiên cứu khoa học cụ thể nhƣ là phƣơng pháp phân tích,
phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp quy nạp và diễn dịch, phƣơng pháp so
sánh.
6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có kết cấu gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về ly hôn và căn cứ ly hôn
Chƣơng 2: Quy định về căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp luật Việt
Nam qua các thời kỳ
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam năm 2014 và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
căn cứ ly hôn


7

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN VÀ CĂN CỨ LY HÔN
1.1. Khái niệm ly hôn và căn cứ ly hôn
1.1.1. Khái niệm ly hôn
Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam, ly hôn đƣợc hiểu là “vợ chồng bỏ
nhau”1. Ly hôn dùng để chỉ sự chấm dứt quan hệ hôn nhân khi hai vợ chồng
không còn chung sống với nhau, không còn thực hiện quyền và nghĩa vụ đối
với nhau theo quy định của pháp luật.
Về mặt xã hội, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ly hôn là
một mặt của quan hệ hôn nhân, là mặt trái của xã hội nhƣng lại là mặt không
thể thiếu khi những xung đột, mâu thuẫn và bế tắc trong đời sống vợ chồng đã
trở nên nghiêm trọng, không thể điều hòa đƣợc dẫn đến quan hệ hôn nhân
không thể tiếp tục. “Tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “tan rã” những
mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên
những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một
xã hội văn minh”2. Trên quan điểm tự do hôn nhân, trong đó có tự do kết hôn
và tự do ly hôn, pháp luật cho phép nam nữ khi yêu thƣơng nhau đƣợc quyền
tự do kết hôn thì cũng cho phép họ ly hôn khi tình cảm của họ không còn,
giữa họ không còn sự gắn kết, chăm sóc và quan tâm đến nhau nữa. Khi

những xung đột, mâu thuẫn đã trở nên căng thẳng và gay gắt thì ly hôn chính
là giải pháp hữu hiệu nhất giải thoát cho vợ, chồng, con cái và các thành viên
khác trong gia đình thoát đƣợc những xung đột không đáng có trong cuộc
sống chung để đảm bảo quyền và lợi ích của họ đƣợc pháp luật bảo vệ. Bên
cạnh những mặt tích cực đó, thì ly hôn cũng mang lại một số những tiêu cực
cho gia đình và xã hội nhƣ: làm tan vỡ quan hệ gia đình, phân chia tài sản,
ảnh hƣởng đến tƣơng lai của trẻ nhỏ, con cái thiếu sự quan tâm, chăm sóc,
giáo dục đầy đủ từ bố mẹ, hình thành những tƣ tƣởng mặc cảm, tự ti cho con
cái,…

1

Nguyễn Lân (2006), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh,
tr.1057.
2
V.I.Lênin - Toàn tập (1980), Tập 25, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, tr.355.


8

Về mặt pháp lý, từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý - Bộ tự
pháp đƣa ra định nghĩa: “Li hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng do Tòa án
công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ
chồng”3. Nhƣ vậy có thể hiểu ly hôn là một sự kiện pháp lý làm chấm dứt
quan hệ vợ chồng trên cơ sở yêu cầu của vợ chồng và đƣợc tòa án công nhận.
Đây là định nghĩa đƣợc dùng phổ biến trong công tác giảng dạy và nghiên
cứu khoa học cũng nhƣ áp dụng vào thực tiễn giải quyết ly hôn để giải thích
cho đƣơng sự.
Kết hôn và ly hôn là hai mặt của đời sống gia đình. Nếu nhƣ kết hôn là
cơ sở làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ thì ly hôn làm chấm

dứt quan hệ đó về mặt pháp lý. Sau khi ly hôn, giữa nam và nữ không còn
ràng buộc nhau bởi những quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa vợ chồng, đó là
những quyền và nghĩa vụ về nhân thân, về tài sản. Khi kết hôn họ đƣợc Nhà
nƣớc công nhận thì khi ly hôn họ cũng cần có sự công nhận của cơ quan Nhà
nƣớc có thẩm quyền.
Theo Lênin: “thực ra tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “tan rã”
những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó
trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong
một xã hội văn minh”4. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ly hôn là
một hiện tƣợng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát
triển lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua
Nhà nƣớc. Nhà nƣớc bằng pháp luật quy định những điều kiện xác lập quan
hệ vợ chồng đồng thời xác lập những điều kiện nhất định mới cho phép vợ
chồng đƣợc chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật HN&GĐ nói
riêng, việc đƣa ra khái niệm đầy đủ về ly hôn có ý nghĩa quan trọng. Khái
niệm đó phải phản ánh đƣợc quan điểm chung nhất của nhà nƣớc ta về ly hôn,
tạo cơ sở lý luận cho việc xác định bản chất pháp lý của ly hôn, xác định nội

3

Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb từ điển Bách Khoa, Nxb Tƣ pháp,
tr.460.
4
V.I.Lênin, tlđd chú thích 2, tr.355.


9

dung, phạm vi điều chỉnh của các quan hệ pháp luật HN&GĐ về ly hôn và

các vấn đề phát sinh khác.
Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định: “Ly hôn là việc
chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tòa án”. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết ly hôn là Tòa án. Tòa án đƣợc
Nhà nƣớc trao quyền và nhân danh Nhà nƣớc kiểm soát việc ly hôn thông qua
hoạt động giải quyết các yêu cầu ly hôn. Tòa án xem xét, giải quyết yêu cầu
ly hôn dựa trên thực tế tình trạng quan hệ vợ chồng. Nếu xét thấy quan hệ vợ
chồng đã thực sự tan vỡ, đời sống hôn nhân không thể tiếp tục tồn tại thì Tòa
án cho ly hôn. Phán quyết ly hôn đƣợc thể hiện dƣới hai hình thức: quyết định
hoặc bản án. Nếu hai bên vợ chồng thuận tình ly hôn thỏa thuận với nhau giải
quyết đƣợc tất cả các nội dung sau khi ly hôn thì tòa án công nhận ly hôn và
ra phán quyết dƣới hình thức quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Nếu vợ
chồng có mâu thuẫn, tranh chấp thì tòa án xét xử và ra phán quyết ly hôn dƣới
dạng bản án. Việc Tòa án quyết định cho vợ chồng ly hôn hay bác đơn yêu
cầu của họ phải dựa vào thực chất mối quan hệ vợ chồng. Khi vợ chồng ly
hôn không những ảnh hƣởng trực tiếp đến quan hệ tình cảm vợ chồng, chấm
dứt mọi quyền, nghĩa vụ của vợ chồng mà còn ảnh hƣởng xấu tới quyền và lợi
ích hợp pháp của các thành viên khác trong gia đình, đặc biệt là quyền và lợi
ích của con cái, lợi ích chung của gia đình và lợi ích xã hội. Do vậy, việc Tòa
án quyết định cho vợ chồng ly hôn hay bác đơn yêu cầu của họ phải dựa trên
cơ sở căn cứ ly hôn, tức là phải phù hợp với thực trạng khách quan của quan
hệ hôn nhân. Tuy nhiên, việc đánh giá thực chất mối quan hệ vợ chồng là một
vấn đề khó khăn và phức tạp. Ly hôn diễn ra với những biểu hiện mâu thuẫn
vợ chồng rất đa dạng. Để đánh giá thực chất mối quan hệ vợ chồng, đòi hỏi
thẩm phán phải điều tra xác minh kẽ để tìm ra nguyên nhân dẫn đến mâu
thuẫn vợ chồng, phải tìm hiểu tâm tƣ tình cảm, nguyện vọng của vợ chồng,
đồng thời phải xác định diễn biến tâm lý của vợ chồng trong thời gian tiến
hành giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, dù tìm hiểu rõ nguyên nhân, lý do hay
động cơ ly hôn,… khi quyết định cho vợ chồng ly hôn, tòa án phải dựa trên
các căn cứ ly hôn do luật định.



10

Từ những phân tích ở trên, có thể đƣa ra khái niệm: Ly hôn là sự kiện
pháp lý làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật theo bản án hoặc
quyết định có hiệu lực của Tòa án trên cơ sở căn cứ ly hôn mà pháp luật quy
định.
1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hôn nhân là hiện tƣợng xã
hội mang tính giai cấp sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở
mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị thông qua Nhà nƣớc, bằng
pháp luật quy định chế độ hôn nhân để phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Nhà nƣớc quy định rõ những điều kiện nào để xác lập quan hệ vợ chồng, đồng
thời xác lập trong những điều kiện, căn cứ nhất định vợ chồng mới đƣợc phép
chấm dứt hôn nhân. Đó chính là căn cứ ly hôn đƣợc quy định trong pháp luật
của Nhà nƣớc.
Từ điển Từ và ngữ Việt Nam định nghĩa: “Căn cứ là cái làm chỗ dựa,
làm cơ sở để lập luận”5. Theo đó có thể hiểu ly hôn là sự tan vỡ của quan hệ
hôn nhân thì căn cứ ly hôn là điều có thể dựa vào làm cơ sở để xác định quan
hệ vợ chồng đã tan vỡ. Những căn cứ này do nhà nƣớc bằng những quy định
của pháp luật thì xác định trong những điều kiện, căn cứ nhất định mới cho
phép xóa bỏ quan hệ hôn nhân nhằm kiểm soát việc ly hôn đƣợc thực hiện
một cách đúng đắn, khách quan, phù hợp với thực trạng quan hệ vợ chồng.
Việc phát sinh hay chấm dứt quan hệ hôn nhân đều tác động, có liên
quan đến lợi ích của vợ, chồng, gia đình và cả xã hội. Nhất là khi ly hôn, rất
nhiều những ảnh hƣởng xấu có thể xảy ra. Nhà nƣớc cho phép vợ chồng đƣợc
tự do ly hôn không có nghĩa là sẽ giải quyết ly hôn một cách tùy tiện theo ý
chí của bất kỳ chủ thể nào khác. Việc giải quyết ly hôn không chỉ để đảm bảo
lợi ích cho vợ, chồng mà còn để đảm bảo lợi ích cho con cái, các thành viên

khác trong gia đình và cả xã hội. Vì thế, nhà nƣớc kiểm soát việc giải quyết ly
hôn bằng cách xác định những điều kiện cần và đủ để cho phép chấm dứt
quan hệ hôn nhân trƣớc pháp luật.

5

Nguyễn Lân, tlđd chú thích 1, tr.243.


11

C.Mác viết: “Về mặt hôn nhân, nhà lập pháp chỉ có thể xác định những
điều kiện trong đó hôn nhân được phép tan vỡ, nghĩa là trong đó, về thực
chất, hôn nhân tự nó đã bị phá vỡ rồi. Việc Tòa án cho phép phá bỏ hôn nhân
chỉ có thể là việc ghi biên bản sự tan rã bên trong của nó. Quan điểm của nhà
lập pháp là quan điểm của tính tất yếu”6. Khi căn cứ ly hôn theo luật định
đảm bảo đƣợc “tính tất yếu” của sự việc, xã hội sẽ vận động thuận chiều theo
hƣớng tích cực. Ngƣợc lại, khi căn cứ ly hôn đi ngƣợc lại “tính tất yếu” của
sự viêc, áp đặt ý chí của con ngƣời vào sự việc, xã hội sẽ vận động ngƣợc
chiều theo hƣớng tiêu cực. Ly hôn là sự chấm dứt quan hệ vợ chồng, điều
kiện để vợ chồng đƣợc ly hôn là bản chất của quan hệ vợ chồng đã thực sự tan
vỡ, do vậy, căn cứ ly hôn phải là tổng hợp những hiện tƣợng phản ánh đƣợc
bản chất quan hệ vợ chồng thực sự tan vỡ. Tức là những hiện tƣợng ấy phải
có mối quan hệ biện chứng với bản chất tan vỡ của quan hệ hôn nhân, phản
ánh bản chất của ly hôn. Bản chất của quan hệ hôn nhân tan vỡ đƣợc thể hiện
ra bên ngoài với nhiều hiện tƣợng khác nhau, mỗi hiện tƣợng chỉ phán ảnh
đƣợc một khía cạnh của bản chất. Thông thƣờng không thể chỉ dựa vào một
một hiện tƣợng phản ánh bản chất mà xác định đƣợc quan hệ hôn nhân đã tan
vỡ hay chƣa mà cần căn cứ vào nhiều hiện tƣợng khác nhau để nhận thức
đúng đắn về tình trạng của quan hệ hôn nhân.

Pháp luật tƣ sản cho rằng hôn nhân thực chất là một “hợp đồng”, nếu
kết hôn giống nhƣ việc ký kết hợp đồng, xác lập quyền và nghĩa vụ giữa hai
bên nam, nữ thì ly hôn là việc chấm dứt hợp đồng, xóa bỏ mọi ràng buộc về
quyền và nghĩa vụ trƣớc đó. Vậy nên căn cứ ly hôn cũng tƣơng tự nhƣ căn cứ
chấm dứt hợp đồng là dựa vào ý chí chủ quan của hai bên vợ, chồng và dựa
vào “lỗi” để chấm dứt quan hệ hôn nhân ví dụ nhƣ vợ chồng ngoại tình, vợ
chồng không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhau, vợ chồng không còn tình
cảm với nhau nữa,… Do vậy, những căn cứ ly hôn này chỉ mang tính hình
thức, phản ánh một cách phiến diện một mặt nào đó trong quan hệ vợ chồng
chứ không phản ánh đƣợc toàn diện bản chất thực sự của hôn nhân.
6

C.Mác - Ph.Ăngghen (2002), Bản dự luật về ly hôn, Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội, tr.234 - 235.


12

Trái với quan điểm của nhà nƣớc tƣ sản, quan điểm của nhà nƣớc xã
hội chủ nghĩa là giải quyết ly hôn dựa vào thực chất của quan hệ vợ chồng,
trên cơ sở đánh giá một cách khách quan thực tế tình trạng quan hệ hôn nhân.
Ý chí chủ quan của vợ hoặc chồng hay của bất cứ ai cũng nhƣ “lỗi” không
phải là căn cứ để pháp luật cho ly hôn. Ly hôn phải dựa vào căn cứ đƣợc quy
định trong Luật HN&GĐ. Việc quy định những căn cứ ly hôn phải phù hợp
với bản chất của sự việc, phù hợp với tình trạng thực tế của hôn nhân, phải
xác định trong điều kiện nào thì cuộc hôn nhân đã không còn tồn tại. Việc
Tòa án giải quyết cho ly hôn thực chất chỉ là việc công nhận một thực tế
khách quan là cuộc hôn nhân đó không còn tồn tại nữa.
Kế thừa và phát huy quan điểm của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa, Nhà
nƣớc ta đã quy định căn cứ ly hôn mang tính khoa học, phản ánh thực chất

mối quan hệ vợ chồng đã bị phá vỡ, không thể khắc phục, cải thiện đƣợc.
Luật HN&GĐ năm 2000 quy định căn cứ ly hôn tại Điều 89: “Tòa án xem xét
yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly
hôn”. Tới Luật HN&GĐ năm 2014, các nhà lập pháp đã bỏ đi điều khoản quy
định riêng về căn cứ ly hôn nhƣng vẫn thể hiện đƣợc căn cứ ly hôn trong các
điều quy định về trƣờng hợp ly hôn cụ thể. Qua đó “Khi vợ hoặc chồng yêu
cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly
hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm
nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
không đạt được” (Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014)… Xét về tổng
thể, các căn cứ ly hôn trong hệ thống Luật HN&GĐ của nƣớc ta qua các thời
kỳ khác nhau vẫn bảo đảm đƣợc bản chất thống nhất là tình trạng trầm trọng
của mâu thuẫn vợ chồng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn
nhân không đạt đƣợc. Quy định căn cứ ly hôn nhƣ vậy vừa đảm bảo việc giải
quyết ly hôn chính xác, khách quan, vừa bảo vệ đƣợc quyền lợi cho các bên.


13

Từ những phân tích trên, có thể đƣa ra định nghĩa căn cứ ly hôn nhƣ
sau: Căn cứ ly hôn là những tình tiết, điều kiện do pháp luật quy định, mà khi
có những tình tiết, điều kiện đó thì Tòa án xử cho phép vợ chồng ly hôn7.
1.2. Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn trong pháp luật
*Căn cứ ly hôn bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị
Giai cấp thống trị nhân danh nhà nƣớc, bằng pháp luật quy định những
quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực để điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong
đó có quan hệ HN&GĐ. Do đó các quy định của pháp luật đƣợc xây dựng lên
đều chịu sự chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị và để bảo vệ ý chí của

giai cấp thống trị. Khi xây dựng pháp luật điều chỉnh quan hệ HN&GĐ, các
nhà lập pháp phải xây dựng sao cho phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị,
phù hợp với mục đích xây dựng gia đình theo ý chí của giai cấp thống trị.
Thời kỳ chiếm hữu nô lệ, chủ nô nắm giữ toàn bộ tài sản nên quyền lực
nằm trong tay họ. Chủ nô là giai cấp thống trị vì thế mọi quy định, luật lệ đều
do giai cấp chủ nô ban hành. Thời kỳ này là giai đoạn phát triển của chế độ
phụ quyền với tƣ tƣởng: quyền lực thuộc về ngƣời đàn ông, vai trò của ngƣời
phụ nữ trong gia đình không đƣợc coi trọng. Ngƣời đàn ông thời kỳ này đƣợc
phép có nhiều vợ, ngƣời phụ nữ trong trƣờng hợp này không đƣợc coi là một
ngƣời vợ đích thực mà chỉ đƣợc coi nhƣ một “thứ tài sản” có thể mua qua bán
lại nhƣ nô lệ. Trong xã hội thời kỳ này, chế độ một vợ một chồng mang tính
giả tạo, và nó chỉ đƣợc thực hiện đối với ngƣời đàn bà, không có ý nghĩa đối
với đàn ông. Trong quan hệ hôn nhân, lợi ích của ngƣời chồng đƣợc đặt lên
trên mọi thứ. Ngƣời vợ chỉ là một công cụ để thực thi và buộc phải tuân thủ
những quy định đó.
Trong xã hội phong kiến, nhà nƣớc duy trì chế độ đa thê và gia đình gia
trƣởng, bảo vệ quyền gia trƣởng của ngƣời chồng trong gia đình. Quyền gia
trƣởng của ngƣời đàn ông gắn liền với mục đích xây dựng gia đình phong
kiến. Pháp luât phong kiến cho phép ngƣời đàn ông đƣợc quyền ly hôn vợ
trên cơ sở bảo vệ lợi ích của gia đình phong kiến. Ngƣời chồng đƣợc yêu cầu
7

Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình, Nxb Công an
nhân dân, tr.254.


14

ly hôn khi vợ không có con, hay ghen tuông,… Căn cứ để cho ngƣời chồng
đƣợc ly hôn dựa vào “thất xuất”: ngƣời vợ không có con, ghen tuông, ác tật,

dâm đãng, không kính cha mẹ, lắm lời, trộm cắp. Các quy định này cho thấy
nhà làm luật đã đặt lợi ích, danh dự của gia đình lên trên lợi ích cá nhân vợ
chồng.
Tuy nhiên, pháp luật phong kiến cũng đã cơ bản bảo vệ quyền cho phụ
nữ trong vấn đề ly hôn. Quyền lợi ngƣời vợ đã đƣợc cân nhắc trong trƣờng
hợp chồng bỏ lửng vợ năm tháng không đi lại, nếu đã có con thì một năm
hoặc chồng mắng nhiếc cha mẹ vợ một cách phi lý hay quy định cho phép
ngƣời vợ đƣợc chấm dứt quan hệ hôn nhân để kết hôn với ngƣời khác trong
trƣờng hợp ngƣời chồng mất tích do loạn lạc... Dựa vào những căn cứ này mà
nhà nƣớc xác định đƣợc thực chất mối quan hệ của vợ chồng và ghi nhận việc
vợ đƣợc quyền bỏ chồng nhƣ một biện pháp chế tài dành cho ngƣời chồng vi
phạm nghĩa vụ đối với vợ. Nhìn chung pháp luật vẫn đứng trên quan điểm
giai cấp để bảo vệ lợi ích gia đình và vì lợi ích gia đình nhƣng trong một
chừng mực nào đó thì quyền lợi của ngƣời phụ nữ đã đƣợc coi trọng, thể hiện
quan điểm của giai cấp thống trị trong việc nhìn nhận và bảo vệ quyền lợi của
ngƣời phụ nữ trong xã hội - mặc dù rất ít - điều mà hình thái nhà nƣớc trƣớc
đây chƣa từng tồn tại.
Tới thời kỳ thuộc địa, chế độ thời kỳ này đã tạo ra sự thay đổi về tƣ
tƣởng và nhận thức, nhất là đối với ngƣời vợ. Sự cai trị của thực dân Pháp với
tƣ tƣởng coi hôn nhân đƣợc nhƣ một bản hợp đồng. Chế độ hôn nhân một vợ
một chồng đƣợc pháp luật công khai thừa nhận, quyền con ngƣời đƣợc coi
trọng hơn với những phong trào đòi bình quyền cho phụ nữ. Tuy nhiên, do
vẫn chƣa thoát khỏi cái bóng của tƣ tƣởng phong kiến với chế độ phụ quyền,
pháp luật hôn nhân và các chế định về ly hôn vẫn phần lớn bảo vệ các quyền
và lợi ích của ngƣời chồng. Các bộ luật nhƣ: DLGY, thiên thứ VI; hay
DLBK, Điều 116 đến 140; DLTK, Điều 115 đến 147, việc công nhận ly hôn
sẽ đƣợc tòa án quyết định trong trƣờng hợp đƣợc luật dự kiến.
Có thể nói, trong mỗi giai đoạn, mỗi hình thái xã hội, tính giai cấp thể
hiện khác nhau nhƣng mục đích cuối cùng đó vẫn là sự bảo vệ độc tôn giai



15

cấp - bản tính cố hữu của nhà nƣớc. Căn cứ ly hôn cũng đƣợc đặt ra dựa trên
lợi ích của giai cấp nhằm điều chỉnh mối quan hệ gia đình của giai cấp thống
trị.
*Căn cứ ly hôn được quy định trên cơ sở các điều kiện kinh tế, xã
hội, văn hóa trong từng thời kỳ lịch sử
Pháp luật là yếu tố thuộc thƣợng tầng kiến trúc, luôn bị chi phối và chịu
ảnh hƣởng của các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của xã hội đƣơng thời.
Ly hôn từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ tới thời phong kiến đều đặt nặng vai
trò của ngƣời chồng trong gia đình. Chính vì họ nắm quyền kinh tế nên kéo
theo tất cả những quyền liên quan: kết hôn, ly hôn, tài sản… đều tùy thuộc
vào sự quyết định của ngƣời chồng. Mặc dù đâu đó trong từng gia đoạn cụ
thể, hình ảnh ngƣời phụ nữ cũng đƣợc nhắc đến nhƣng sự thể hiện còn mờ
nhạt và thiếu công bằng.
Tới thời kỳ thực dân Pháp, chủ nghĩa nhân dân ảnh hƣởng tới từng gia
đình, từng quy định pháp lý. Những tƣ tƣởng mới đã đƣợc đón nhận, tƣ tƣởng
cổ hủ trọng nam khinh nữ đã dần đƣợc loại bỏ, pháp luật quan tâm và bảo vệ
nhiều hơn tới phụ nữ và trẻ em. Với tƣ tƣởng, văn hóa coi trọng tự do cá nhân
nên trong pháp luật về HN&GĐ, hôn nhân đƣợc coi nhƣ một bản hợp đồng tự
nguyện, bình quyền giữa nam và nữ. Pháp luật thời kỳ này cho phép vợ chồng
đƣợc thuận tình ly hôn nếu tình tình không hợp. Đây là một căn cứ ly hôn
mang “hơi thở” của chủ nghĩa phƣơng Tây, khá mới mẻ so với truyền thống
“tam tòng, tứ đức” của Việt Nam. Nhƣng sự công nhận đó bƣớc đầu còn mờ
nhạt bởi tƣ tƣởng phong kiến với chế độ gia trƣởng đã ăn sâu vào tiềm thức
của mỗi ngƣời, vai trò của ngƣời đàn ông trong gia đình với chế độ đa thê.
Tuy nhiên đây cũng là bƣớc đệm để ở những giai đoạn sau đó pháp luật thừa
hƣởng và phát triển một cách toàn diện hơn.
Bƣớc vào thời kỳ xã hội chủ nghĩa, thời kỳ khởi sắc của văn hóa hôn

nhân. Căn cứ ly hôn thời kỳ này cũng mang đậm tính nhân văn hơn, bình
đẳng hơn và bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của các bên một cách
khách quan hơn. Tích cực tiếp thu những tinh hoa và giá trị tốt đẹp của những
nên văn minh tiên tiến tiến trên thế giới cùng với nền kinh tế ngày một phát


16

triển, vị trí của phụ nữ trong gia đình cũng nhƣ trong xã hội đã đƣợc coi
trọng, bình đẳng với đàn ông. Cũng chính vì thế pháp luật về HN&GĐ trong
đó có chế định ly hôn cũng đƣợc quy định dựa trên những tƣ tƣởng, giá trị
tiến bộ của nhân loại - hôn nhân tiến bộ, hoàn toàn tự nguyện và bình đẳng.
*Căn cứ ly hôn bị chi phối bởi các tư tưởng Nho giáo, tôn giáo của
xã hội trong từng thời kỳ lịch sử
Xuyên suốt chiều dài lịch sử, hệ tƣ tƣởng tôn giáo luôn có ảnh hƣởng
không nhỏ tới đời sống xã hội mà còn ảnh hƣởng tới các quy định của pháp
luật, đặc biệt là vấn đề ly hôn - là quan hệ tình cảm, bị chi phối bởi các tƣ
tƣởng tôn giáo, xã hội đƣơng thời. Quan điểm tƣ tƣởng của giai cấp thống trị
đƣợc phản chiếu thông qua các quy định ban hành, nhìn thấy những sắc thái
tôn giáo thông qua những luật lệ áp đặt và trên hết nó phản ánh tƣ tƣởng làm
luật của giai cấp dựa trên tƣ tƣởng và quan điểm tôn giáo của chính thời kỳ
đó.
Ví dụ trong xã hội phong kiến, với sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng giáo điều
Nho giáo, nhà nƣớc đề cao bảo vệ quyền gia trƣởng của ngƣời đàn ông, trách
nhiệm của ngƣời đàn ông. Do đó, pháp luật phong kiến luôn “trọng nam,
khinh nữ” gây ra sự bất bình đẳng trong vấn đề ly hôn giữa vợ và chồng. Tƣ
tƣởng và quan điểm giai cấp trong quan hệ hôn nhân rõ ràng hơn nhƣng vẫn
xuất phát từ quyền lợi của ngƣời đàn ông. Ngƣời phụ nữ thời kỳ này luôn phải
sống trong “tam cƣơng, ngũ thƣờng” và “tam tòng, tứ đức”. Chế độ gia
trƣởng thời kỳ này đã kìm hãm ngƣời phụ nữ trong bức tƣờng hôn nhân, họ

không sống cho mình mà phải sống vì gia đình, vì chồng con.
Đối với những nƣớc chịu ảnh hƣởng của tôn giáo theo kinh thánh, hôn
nhân là do sự tác hợp của Chúa - không thể tự ý xóa bỏ nên nhiều nƣớc chịu
ảnh hƣởng của tôn giáo, không cho phép vợ chồng ly hôn. Thiên chúa giáo du
nhập vào nƣớc ta vào thời kỳ thực dân Pháp xâm lƣợc. Chính tƣ tƣởng tôn
giáo trong thời kỳ bị này đã xóa bỏ một phần nào những tƣ tƣởng cổ hủ của
phong kiến, giải thoát số phận của ngƣời phụ nữ. Pháp luật đã bảo vệ và đứng
về phía ngƣời phụ nữ ở một chừng mực nhất định. Tƣ tƣởng làm luật cũng có
những bƣớc cởi bỏ phù hợp hơn với thực tế đời sống, một số giai đoạn pháp


17

luật còn cấm ly hôn nhƣ ở miền Nam dƣới chế độ Ngụy quyền của Ngô Đình
Diệm với Luật gia đình ngày 2/1/1959. Lý do cấm ly hôn nhằm bảo vệ và
củng cố gia đình, dành thời gian xoa dịu các mối bất hòa, cho vợ chồng có cơ
hội đoàn tụ,…
Tƣ tƣởng Nho giáo, tôn giáo đã ảnh hƣởng không nhỏ tới quan điểm về
nhân sinh quan, thế giới quan của ngƣời làm luật, nhận thức thay đổi, tƣ
tƣởng thay đổi dẫn đến quan điểm thay đổi. Đó là xu thế phát triển chung của
đời sống xã hội, đời sống hôn nhân trong đó có căn cứ ly hôn.
*Căn cứ ly hôn được quy định dựa trên yếu tố lỗi và thực trạng quan
hệ vợ chồng:
Ngay từ thời phong kiến, việc giải quyết ly hôn đã đƣợc xác định dựa
vào yếu tố lỗi khi cho rằng những lỗi đó ảnh hƣởng đến mối quan hệ gia đình,
vợ chồng. Ví dụ nếu vợ, chồng phạm phải các điều trong “nghĩa tuyệt” nhƣ
vợ mƣu sát chồng, chồng đem bán vợ làm nô lệ,.. thì vợ chồng phải ly hôn.
Đến thời kỳ Pháp thuộc, yếu tố lỗi cũng đƣợc đặt lên hàng đầu khi xem xét
vấn đề ly hôn nhƣ: một trong hay bên ngoại tình; vợ hoặc chồng ngƣợc đãi,
hành hạ, sỉ nhục bản thân hoặc bông bà, cha mẹ ngƣời kia;…

Đến thời kỳ hiện đại, tƣ tƣởng làm luật đã có những thay đổi lớn trong
nhận thức. Các nhà làm luật đã chỉ ra rằng mục đích của việc xác lập hôn
nhân nhằm xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ, bền
vững. Do đó, khi vợ chồng đã không còn yêu thƣơng nhau nữa, tình cảm giữa
vợ chồng đã phai nhạt thì dẫn tới giữa vợ chồng có những mâu thuẫn sâu sắc
không tháo gỡ đƣợc nữa. Việc vợ chồng tiếp tục chung sống sẽ không đem lại
niềm vui, hạnh phúc mà chỉ có đau khổ, tiêu cực. Nhƣ vậy, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân cũng không đạt đƣợc. Hôn nhân
khi đó chỉ còn mang tính hình thức, còn bên trong đã thực sự tan vỡ. Xuất
phát từ tƣ tƣởng đó, nhà làm luật đã dựa vào thực trạng vợ chồng để quy định
căn cứ ly hôn, phù hợp với bản chất của hôn nhân.
Đến thời điểm hiện tại, pháp luật Việt Nam đã xác định căn cứ ly hôn
dựa trên cả yếu tố lỗi và thực trạng vợ chồng. Tuy nhiên, nếu trƣớc đây pháp
luật phong kiến và tƣ sản quy định căn cứ ly hôn dựa vào lỗi của vợ chồng


18

trên cơ sở coi ly hôn là chế tài đối với bên có hành vi có lỗi vi phạm quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng thì luật HN&GĐ hiện hành quy định căn cứ ly hôn có
xét tới yếu tố lỗi của vợ, chồng với tƣ cách là nguyên nhân dẫn đến thực trạng
quan hệ hôn nhân tan vỡ. Lỗi của vợ chồng không phải là căn cứ ly hôn độc
lập để tòa án cho ly hôn mà phải đƣợc đặt trong mối quan hệ với thực trạng
vợ chồng.
1.3. Ý nghĩa của việc quy định căn cứ ly hôn
Căn cứ ly hôn là căn cứ pháp lý, công cụ để Tòa án có thể giải quyết
các yêu cầu ly hôn một cách chính xác và thỏa đáng. Quy định căn cứ ly hôn
thực sự có ý nghĩa rất quan trọng, đƣợc thể hiện ở một số nội dung nhƣ sau:
Thứ nhất, quy định căn cứ ly hôn đảm bảo lợi ích của giai cấp thống trị,
của nhà nƣớc, của xã hội trong việc điều chỉnh quan hệ gia đình trong đó có

quan hệ vợ chồng. Nhƣ đã phân tích ở trên, giai cấp thống trị nhân danh nhà
nƣớc, bằng pháp luật quy định những quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực
để điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ HN&GĐ. Do vậy các
quy định của pháp luật đƣợc xây dựng lên đều chịu sự chi phối bởi ý chí của
giai cấp thống trị và việc quy định căn cứ, cơ sở để cho phép chấm dứt hôn
nhân cũng xuất phát từ ý chí của giai cấp thống trị để bảo đảm lợi ích của giai
cấp thống trị.
Thứ hai, căn cứ ly hôn đảm bảo sự công bằng về lợi ích giữa các bên
đƣơng sự. Khi giải quyết ly hôn thực chất là đang giải phóng cho vợ chồng,
đảm bảo lợi ích của vợ chồng, gia đình và cả xã hội trong một cuộc hôn nhân
tan vỡ, quan hệ vợ chồng thực chất đã không còn tồn tại, “sự tồn tại của nó
chỉ là bề ngoài và giả dối”. Ly hôn bảo đảm quyền tự do ly hôn, giải thoát
xung đột, bế tắc trong đời sống hôn nhân, đảm bảo quyền và lợi ích chính
đáng của các bên vợ chồng trong quan hệ hôn nhân.
Thứ ba, quy định căn cứ ly hôn giúp cho vợ chồng nhận thức rõ hơn
việc có thể tiếp tục duy trì hôn nhân đƣợc hay không, góp phần điều chỉnh
hành vi xử sự của vợ chồng. Điều này là biện pháp hữu hiệu nhằm củng cố
quan hệ gia đình, bảo vệ lợi ích chính đáng của các đƣơng sự và trên hết là


19

bảo vệ cuộc hôn nhân đã đƣợc xác lập vì chỉ có những ngƣời trong cuộc mới
thực sự hiểu tình trạng thực tế của cuộc sống vợ chồng.
Thứ tƣ, căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền xem
xét giải quyết việc ly hôn của vợ chồng khi có yêu cầu. Nhà nƣớc chỉ giải
quyết ly hôn khi có đủ những căn cứ theo quy định của pháp luật, và chỉ chấm
dứt hôn nhân khi thực sự cần thiết, đảm bảo sự thống nhất trong việc xét xử.
Quyền yêu cầu ly hôn là quyền của vợ chồng, tuy nhiên không phải cứ có yêu
cầu là cơ quan có thẩm quyền sẽ giải quyết cho đƣơng sự ly hôn, tòa án chỉ

giải quyết ly hôn khi việc ly hôn là cần thiết, phù hợp với thực tế của quan hệ
vợ chồng. Trƣờng hợp xét thấy quan hệ hôn nhân của vợ chồng không đủ căn
cứ để ra quyết định hay bản án ly hôn thì Tòa sẽ không ra quyết định, bản án
ly hôn. Lý do phải kiểm soát việc giải quyết cho ly hôn là bởi khi xác lập
quan hệ hôn nhân đến khi quan hệ hôn nhân tan vỡ, ngƣời bị ảnh hƣởng đến
quyền và lợi ích không chỉ là vợ hay chồng mà còn là con cái, thành viên khác
trong gia đình, thậm chí là cả xã hội. Vì thế quy định căn cứ ly hôn là cơ sở
pháp lý để giải quyết ly hôn, bảo đảm việc giải quyết ly hôn một cách chính
xác, khách quan, không tùy tiện.
1.4. Căn cứ ly hôn theo pháp luật một số nƣớc trên thế giới
1.4.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật Thái Lan
Pháp luật Thái Lan thừa nhận “lỗi” là một trong nhiều căn cứ chấm dứt
hôn nhân, để Tòa án giải quyết yêu cầu ly hôn. Căn cứ mà các đƣơng sự dùng
để yêu cầu ly hôn cũng là những căn cứ mà Tòa án dựa vào để xem xét, giải
quyết cho ly hôn. Tuy nhiên, không phải căn cứ nào của đƣơng sự đƣa ra
cũng đƣợc Tòa án chấp nhận, đó là trƣờng hợp nếu một bên có “lỗi” mà bên
kia đã biết nhƣng không có ý kiến gì hoặc đã chấp nhận lỗi đó. Ví dụ: ngƣời
chồng đã nuôi dƣỡng hoặc thờ phụng một ngƣời đàn bà khác nhƣ vợ mình
hoặc ngƣời vợ ngoại tình, vợ hoặc chồng của ngƣời đó biết nhƣng bỏ qua thì
vợ không đƣợc dùng đó là căn cứ để yêu cầu Tòa án giải quyết cho đƣợc ly
hôn.


×