Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Điều kiện nuôi con nuôi theo pháp luật việt nam và thực tiễn thực hiện tại thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.54 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THÚY QUỲNH

ĐIỀU KIỆN NUÔI CON NUÔI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn
đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Nguyễn Thúy Quỳnh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LĐTB&XH
Công ước Lahay
năm 1993

Lao động - Thương binh và Xã hội
Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác
trong lĩnh vực con nuôi quốc tế

Luật HN&GĐ

Luật Hôn nhân và gia đình

Nghị định số

Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của

68/2002/NĐ-CP

Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

Nghị định số
158/2005/NĐ-CP


Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của
Chính phủ quy định về đăng ký và quản lý hộ tịch

Nghị định số

Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của

69/2006/NĐ-CP

Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ

Nghị định số

Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của

19/2011/NĐ-CP

Chính phủ quy định chi tiết và thi hành một số điều của
Luật Nuôi con nuôi

Nghị định số

Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm

123/2015/NĐ-CP

2015 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi
hành Luật hộ tịch



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................1
Chương 1.....................................................................................................................7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ ĐIỀU KIỆN NUÔI CON NUÔI....................................................7
1.1. Một số vấn đề lý luận về điều kiện nuôi con nuôi...........................................7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về điều kiện nuôi con nuôi......................................7
1.1.2. Ý nghĩa của việc pháp luật quy định điều kiện nuôi con nuôi..................9
1.1.3. Cơ sở của việc pháp luật quy định điều kiện nuôi con nuôi ..................10
1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về điều kiện nuôi con nuôi.........13
1.2.1. Điều kiện về chủ thể trong quan hệ pháp luật về nuôi con nuôi ..........13
1.2.2. Ý chí của các bên chủ thể trong việc nuôi con nuôi...............................23
1.2.3. Thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi....................................................28
Chương 2:..................................................................................................................39
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN NUÔI CON NUÔI TẠI
THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ GIẢI PHÁP .................................................................43
2.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi tại thành phố Hà
Nội ........................................................................................................................43
2.1.1. Tình hình thực hiện pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi tại thành phố
Hà Nội từ khi Luật nuôi con nuôi năm 2010 có hiệu lực .................................43
2.1.2. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực hiện pháp luật về điều kiện nuôi
con nuôi tại thành phố Hà Nội .........................................................................52
2.1.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện pháp luật
về điều kiện nuôi con nuôi tại thành phố Hà Nội.............................................60
2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
điều kiện nuôi con nuôi.........................................................................................62


2.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi ..................62

2.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về điều kiện nuôi con
nuôi.................................................................................................................67
KẾT LUẬN ...............................................................................................................71


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xảy ra ở các quốc gia và đều được pháp
luật các nước điều chỉnh. Xuất phát từ mục đích nhân văn tốt đẹp, nuôi con nuôi đáp
ứng được lợi ích hài hòa của người nhận nuôi và người được nhận nuôi. Một mặt,
nuôi con nuôi giúp đem lại mái ấm gia đình cho những trẻ em mồ côi cha mẹ,
không nơi nương tựa, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Mặt khác, nuôi con nuôi là
giải pháp giúp các gia đình hiếm con có được một gia đình trọn vẹn, hoặc đơn giản
chỉ là giải pháp về tâm lý đối với những người hảo tâm muốn được làm từ thiện hay
muốn tích đức về sau theo phong tục tập quán của địa phương.
Với ý nghĩa đó, việc cho trẻ em làm con nuôi được coi là biện pháp thay thế
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong khi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước chưa
đủ để bảo đảm cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được chăm sóc, chữa trị. Theo
thống kê của Bộ Tư pháp, kể từ khi Luật nuôi con nuôi năm 2010 được thông qua,
có hiệu lực thi hành vào ngày 01 tháng 01 năm 2011, trong giai đoạn 05 năm từ
năm 2011-2015, trên toàn quốc có 14.539 trẻ em đã được giải quyết cho làm con
nuôi, trong đó có 12.768 trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi trong nước và
1.771 trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi nước ngoài, số trẻ em tại cơ sở
trợ giúp xã hội được giải quyết cho làm em nuôi là 1.837 trẻ em1.
Sự ra đời của Luật nuôi con nuôi đã tạo một khung khổ pháp lý thống nhất,
ổn định, có giá trị áp dụng lâu dài, giúp cho công tác giải quyết nuôi con nuôi đi vào
chất lượng, nề nếp. Với mục tiêu của Luật là bảo đảm việc nuôi con nuôi được thực
hiện trên tinh thần nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, bảo đảm cho trẻ em được

lớn lên trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và
cảm thông, bảo vệ trẻ em trước những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình
giải quyết việc cho, nhận trẻ em làm con nuôi, chống buôn bán trẻ em, lợi dụng nuôi
1

Bộ Tư pháp – Báo cáo đánh giá tình hình thi hành Luật nuôi con nuôi và Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi giai đoạn 2011-2016, Tài liệu Hội nghị đánh giá
tình hình thực hiện Luật nuôi con nuôi và Nghị định số 19/2011/NĐ-CP giai đoạn 2011-2016 do Bộ Tư pháp
và Unicef Việt Nam tổ chức, Hà Nội, tháng 11/2016, tr.13, 29.


2

con nuôi để trục lợi. Luật nuôi con nuôi cũng đã đề ra những điều kiện chặt chẽ về
nuôi con nuôi như: điều kiện về khoảng cách độ tuổi, đạo đức, kinh tế đảm bảo việc
chăm sóc, nuôi dưỡng…của người nhận nuôi; điều kiện về độ tuổi của người được
nhận nuôi, về ý chí của các bên chủ thể, về hồ sơ, trình tự thủ tục đăng ký tại cơ
quan có thẩm quyền…
Tuy nhiên, trong hơn 7 năm triển khai thực hiện Luật nuôi con nuôi năm
2010 cho thấy một số quy định của Luật nuôi con nuôi còn chưa rõ ràng, thiếu chặt
chẽ, gây khó khăn trong việc thực thi, đặc biệt là quy định liên quan đến điều kiện
nuôi con nuôi như: việc xác định về điều kiện kinh tế, chỗ ở của người nhận con
nuôi, xác minh nguồn gốc của trẻ bị bỏ rơi, thiếu các điều kiện về hoàn cảnh của trẻ
được nhận nuôi… Ngoài ra, thực tiễn thực hiện cũng phát sinh nhiều vướng mắc
cần tháo gỡ như: khó khăn trong việc lấy ý kiến của những người liên quan trong
việc cho trẻ làm con nuôi; sự chậm trễ của các cơ quan trong quá trình giới thiệu,
xác minh nguồn gốc của trẻ; thông tin về điều kiện sức khỏe, tâm lý của trẻ trong hồ
sơ giới thiệu con nuôi không đầy đủ… Trước những tồn tại, bất cập đó, để có thể
tìm ra giải pháp khắc phục thích hợp, cần thiết phải tìm hiểu một cách cụ thể, rõ
ràng hơn quy định của pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi và việc áp dụng thực tế

tại một địa phương điển hình là thành phố Hà Nội. Chính vì lý do đó, em chọn đề
tài nghiên cứu về “Điều kiện nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn
thực hiện tại thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nuôi con nuôi không phải là một vấn đề mới, tuy nhiên là vấn đề gắn liền
với đời sống xã hội và mang đậm tính chất nhân văn nên được nhiều nhà nghiên
cứu luật học quan tâm. Tổng hợp các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau:
Các bài viết được đăng trên các báo, chuyên san về luật học, như:
- Bài viết “Một số vấn đề về điều kiện nuôi con nuôi” của tác giả Nguyễn
Phương Lan, Tạp chí Luật học số tháng 3 năm 2009. Bài viết đã phân tích một số


3

vướng mắc về điều kiện đối với người nhận nuôi, người được nhận nuôi, đăng ký
nuôi con nuôi thực tế. Tuy nhiên, nghiên cứu này được thực hiện theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Bài viết “Những bất cập về điều kiện nuôi con nuôi trong Luật Nuôi con
nuôi năm 2010” của tác giả Nguyễn Phương Lan, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
tháng 8 năm 2017. Tại bài viết này, tác giả đã nêu lên một số bất cập về điều kiện
nuôi con nuôi quy định tại pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, với dung lượng của một
bài viết, nội dung chưa bao quát hết các vấn đề liên quan đến điều kiện nuôi con
nuôi.
- Bài viết “Bàn về điều kiện độ tuổi trong nuôi con nuôi” của tác giả Cao Thị
Quỳnh, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 10 năm 2017. Tác giả chủ yếu đề
cập đến điều kiện về độ tuổi trong nuôi con nuôi mà không nghiên cứu sâu, toàn
diện các điều kiện khác về điều kiện nuôi con nuôi.
Trong phạm vi luận văn thạc sĩ luật học, đề cập đến vấn đề điều kiện nuôi
con nuôi có các luận văn:

Tác giả Nguyễn Thúy Hằng với đề tài “Điều kiện nuôi con nuôi – một số vấn
đề lý luận và thực tiễn”, năm 2014, Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn đã có
những nghiên cứu cụ thể về lý luận đối với điều kiện nuôi con nuôi, tuy nhiên, việc
áp dụng pháp luật vào thực tiễn thì chỉ nêu một vài nét.
Tác giả Vũ Thanh Vân có đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nuôi
con nuôi thực tế trong pháp luật hôn nhân và gia đình”, năm 2016, Trường Đại học
Luật Hà Nội. Luận văn đã phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
đến điều kiện nuôi con nuôi thực tế.
Ở phạm vi đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường của Trường Đại học Luật
Hà Nội, do TS. Nguyễn Phương Lan chủ nhiệm năm 2017, điều kiện nuôi con nuôi
cũng được đề cập đến tại chuyên đề “Điều kiện nuôi con nuôi, thực tiễn thi hành và
những vướng mắc cần khắc phục” của tác giả Nguyễn Phương Lan. Chuyên đề này
chủ yếu tập trung vào những vướng mắc trong thực tiễn thi hành điều kiện nuôi con


4

nuôi không đi sâu phân tích chi tiết các quy định pháp luật về điều kiện nuôi con
nuôi.
Như vậy, đã có một số đề tài nghiên cứu chuyên sâu về điều kiện nuôi con
nuôi, tuy nhiên, có đề tài tập trung nghiên cứu về lý luận, có đề tài nghiêng về thực
tiễn áp dụng, hơn nữa việc đánh giá cụ thể quy định của pháp luật hiện hành đối
chiếu với việc áp dụng trong thực tiễn tại một địa bàn cụ thể về điều kiện nuôi con
nuôi như luận văn nghiên cứu thì chưa có đề tài nào thực hiện. Do đó, việc nghiên
cứu vẫn cần thiết và đem đến giá trị tham khảo thiết thực cho những nhà quản lý,
nhà nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về điều kiện nuôi con nuôi theo pháp
luật hiện hành qua đó nêu lên khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở quy định điều

kiện nuôi con nuôi.
- Phân tích đánh giá tổng quan thực trạng quy định của pháp luật hiện hành
và thực tiễn thực hiện pháp luật tại thành phố Hà Nội về điều kiện nuôi con nuôi, cụ
thể đối với điều kiện về chủ thể, sự thể hiện ý chí của các bên, thủ tục giải quyết
việc nuôi con nuôi; qua đó đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật về điều kiện
nuôi con nuôi và biện pháp giải quyết các vướng mắc bất cập trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
Một là, phân tích cơ sở lý luận về điều kiện nuôi con nuôi theo pháp luật Việt
Nam.
Hai là, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về điều
kiện nuôi con nuôi tại thành phố Hà Nội, từ đó rút ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu
sót và những nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót đó.


5

Ba là, kiến nghị sửa đổi hoàn thiện pháp luật và đề xuất những phương
hướng, giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về điều kiện
nuôi con nuôi tại thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận về điều kiện nuôi
con nuôi theo pháp luật Việt Nam, thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp
luật về điều kiện nuôi con nuôi tại thành phố Hà Nội từ khi Luật nuôi con nuôi có
hiệu lực thi hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu các quy định về điều kiện nuôi con nuôi theo Luật Hôn nhân gia đình
năm 2014 và Luật nuôi con nuôi năm 2010. Luận văn có sự so sánh với pháp luật

một số nước, cũng như các quy định trước đây của pháp luật Việt Nam để đảm bảo
tính logic và hệ thống của vấn đề nghiên cứu nhưng không đi sâu vào nghiên cứu.
Luận văn nghiên cứu xem xét tình hình thực hiện pháp luật về điều kiện nuôi
con nuôi tại thành phố Hà Nội từ năm 2011 đến năm 2015.
Những vấn đề khác liên quan đến đề tài này tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu
sau khi có điều kiện.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chính sách của Đảng và nhà nước về chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em.
Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, so
sánh, suy luận, tổng hợp, thống kê…để đánh giá về cơ sở lý luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi qua đó nêu lên những tồn tại, vướng mắc,
đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, bất cập trong quá trình thực


6

hiện và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Luận văn đánh giá được đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của các quy định về điều
kiện nuôi con nuôi, góp phần làm phong phú thêm lý luận về điều kiện nuôi con
nuôi.
- Luận văn thực hiện việc phân tích các quy định của pháp luật về điều kiện
nuôi con nuôi, đối chiếu với thực tiễn thực hiện tại thành phố Hà Nội từ đó đưa ra
những giải pháp tháo gỡ những vướng mắc trong việc thực hiện điều kiện nuôi nuôi
tại thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu đề tài giúp tăng cường hiệu quả quản lý
nhà nước trong lĩnh vực nuôi nói chung trên địa bàn thành phố Hà Nội.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính

của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực trạng Pháp luật Việt Nam hiện
hành về điều kiện nuôi con nuôi
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi tại thành
phố Hà Nội và giải pháp


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ ĐIỀU KIỆN NUÔI CON NUÔI
1.1. Một số vấn đề lý luận về điều kiện nuôi con nuôi
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về điều kiện nuôi con nuôi
Hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể thế nào
là điều kiện nuôi con nuôi. Tuy nhiên, xét về góc độ pháp lý, quan hệ nuôi con nuôi
chỉ được xác lập sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đăng ký và để được đăng ký thì các chủ thể phải đáp ứng các điều kiện nhất định
theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi. Các điều kiện đó nhằm đảm bảo việc
cho, nhận con nuôi được thực hiện với mục đích xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu
dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho
con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình.
Bằng việc tổng hợp các kết quả nghiên cứu, tác giả Nguyễn Thúy Hằng đã
đưa ra khái niệm về điều kiện nuôi con nuôi như sau: “Điều kiện nuôi con nuôi là
những yêu cầu mà các bên chủ thể trong quan hệ pháp luật nuôi con nuôi phải đáp
ứng khi xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận
làm con nuôi theo quy định của pháp luật”2.
Từ khái niệm trên, có thể xác định điều kiện nuôi con nuôi là những quy định
của pháp luật đã có sẵn, theo đó các bên chủ thể phải đáp ứng đầy đủ thì mới xác
lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con. Đây

là khái niệm được phản ánh từ góc nhìn của người tuân thủ pháp luật, mang tính bị
động. Trong khi đó, pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước, là công cụ để nhà nước
điều chỉnh quan hệ xã hội, mang tính chủ động, áp đặt.
Từ nội hàm của các khái niệm có liên quan như khái niệm điều kiện, nuôi
con nuôi và bản chất của quan hệ nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam, có thể
2

Nguyễn Thúy Hằng (2014), Điều kiện nuôi con nuôi – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ
luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội


8

khái quát khái niệm về điều kiện nuôi con nuôi như sau:
Điều kiện nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam là tổng hợp những quy
phạm pháp luật do nhà nước Việt Nam đặt ra mà các bên chủ thể phải tuân thủ để
xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm
con nuôi.
Điều kiện nuôi con nuôi là ý chí của nhà nước áp đặt lên các bên trong quan
hệ pháp luật nuôi con nuôi, bắt buộc các bên tham gia phải tuân thủ. Mặc dù mang
tính áp đặt nhưng bản chất của pháp luật Việt Nam mang tính nhân đạo, nhân văn
sâu sắc, cho nên điều kiện nuôi con nuôi được quy định trong pháp luật đều hướng
tới mục đích bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất cho các bên, đặc biệt là trẻ em - chủ
thể yếu thế hơn trong quan hệ nuôi con nuôi. Theo đó, điều kiện nuôi con nuôi có
những đặc điểm sau:
Về chủ thể, chủ thể của quan hệ nuôi con nuôi gồm có cha mẹ đẻ hoặc người
giám hộ, người nhận nuôi và người được nhận nuôi. Các chủ thể này tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau trong nhiều giai đoạn của việc nuôi con nuôi, nhưng đặc biệt có vai
trò quyết định trong giai đoạn xác lập quan hệ nuôi con nuôi. Chính vì vậy, điều kiện
nuôi con nuôi được đặt ra đối với các chủ thể này nhằm hướng các bên đến việc xác

lập mối quan hệ cha, mẹ và con đúng nghĩa, đúng bản chất. Trong quan hệ nuôi con
nuôi, người nhận nuôi là bên chủ động quyết định, người được nhận nuôi là chủ thể
yếu thế, vì vậy điều kiện đặt ra đối với người nhận nuôi phức tạp, chặt chẽ hơn.
Về ý chí, việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con là xuất phát trên cơ sở tự
nguyện, phù hợp với nhu cầu, mong muốn và tình cảm của các bên chủ thể. Nhà
nước không thể bắt buộc một người có đủ điều kiện nhận nuôi con nuôi phải nhận
một trẻ em bị bỏ rơi, có hoàn cảnh đặc biệt về chăm sóc, nuôi dưỡng như con đẻ của
mình. Chính vì vậy, để thiết lập quan hệ nuôi con nuôi, người nhận nuôi phải thể
hiện ý chí của mình trong việc mong muốn nhận đứa trẻ làm con nuôi và thiết lập
quan hệ cha, mẹ và con với đứa trẻ đó; cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ phải trung
thực, tự nguyện đồng ý cho con làm con nuôi; trẻ em ở một độ tuổi nhất định phải


9

được thể hiện ý chí của mình trong việc làm con nuôi người khác và cuối cùng phải
có sự công nhận của nhà nước thì quan hệ nuôi con nuôi mới hợp pháp.
Về nội dung, Pháp luật quy định điều kiện về nuôi con nuôi gồm: điều kiện
đối với người nhận nuôi, điều kiện đối với người được nhận nuôi, điều kiện về ý chí
của các bên chủ thể; điều kiện về thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi.
Về hình thức, để xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi và
người được nhận nuôi, điều kiện bắt buộc đó là phải được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền công nhận. Theo đó, các chủ thể phải nộp hồ sơ có các văn bản, giấy tờ
nhất định chứng minh việc đáp ứng đủ điều kiện nuôi con nuôi cho cơ quan nhà
nước và tuân thủ đầy đủ trình tự, thủ tục theo luật định. Việc nhận nuôi con nuôi sẽ
hoàn thành sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận nuôi con
nuôi cho các bên có liên quan.
1.1.2. Ý nghĩa của việc pháp luật quy định điều kiện nuôi con nuôi
Trẻ em là một nhóm xã hội non nớt, dễ bị tổn thương. Hơn nữa, không phải
tất cả trẻ em sinh ra đều có cha mẹ và đều may mắn được sống trong môi trường gia

đình. Trong xã hội còn nhiều trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, khuyết tật, sống trong các gia
đình nghèo không đủ điều kiện nuôi dưỡng cần một mái ấm gia đình thay thế.
Chính vì vậy, nhà nước đã sử dụng quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi nhằm bảo đảm cho trẻ em có quyền có gia đình, cũng như bảo đảm quyền
được làm cha, làm mẹ của một số người không may mắn trong cuộc sống (như
người bị vô sinh, hiếm muộn, phụ nữ đơn thân hoặc người đã có con nhưng con bị
bệnh hiểm nghèo, con bị chết và người đó không còn khả năng sinh con...). Trong
quan hệ về nuôi con nuôi, quy định của pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi chính
là cơ chế để bảo vệ quyền lợi của người nhận nuôi và lợi ích của trẻ, nhằm lựa chọn
các gia đình cha mẹ nuôi phù hợp nhất cho trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và
tạo ra một môi trường an toàn, lành mạnh, giúp trẻ lớn lên trong bầu không khí gia
đình, được trưởng thành dưới sự giáo dục, định hướng của cha, mẹ.
Việc cho và nhận con nuôi là vấn đề cực kỳ hệ trọng, nhạy cảm, liên quan


10

đến cuộc sống con người và quyền trẻ em. Về phương diện pháp luật, nhà nước phải
xử lý hàng loạt vấn đề xã hội, pháp lý liên quan đến con nuôi, cha mẹ nuôi, cha mẹ
đẻ, những người và tổ chức có liên quan khác. Việc cho và nhận con nuôi quốc tế
còn nhạy cảm hơn vì những vấn đề khó can thiệp sau khi trẻ em Việt Nam được
nhận làm con nuôi sinh sống ở nước ngoài. Vì vậy, quy định các điều kiện chặt chẽ
về nuôi con nuôi góp phần bảo đảm cho việc giải quyết nuôi con nuôi được thực
hiện một cách cẩn trọng, minh bạch, tránh việc gây ra hậu quả đối với trẻ em, người
xin con nuôi, tổ chức con nuôi và thậm chí là quan hệ giữa nước cho con nuôi và
nước nhận con nuôi.
Điều kiện nuôi con nuôi được quy định rõ ràng, cụ thể giúp các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành giải quyết việc nuôi con nuôi một cách nhanh chóng, theo đó
quyền lợi của các bên liên quan được đảm bảo đồng thời giúp hạn chế phần nào các
tranh chấp trong quan hệ nuôi con nuôi.

Thông qua điều kiện nuôi con nuôi giúp giải quyết tốt vấn đề nuôi con nuôi,
từ đó góp phần củng cố những quan hệ xã hội tốt đẹp, thể hiện bản chất của nhà
nước trong việc quan tâm, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người dân, qua đó
cũng thể hiện lòng tin của nhân dân vào pháp luật của nhà nước.
1.1.3. Cơ sở của việc pháp luật quy định điều kiện nuôi con nuôi
1.1.3.1. Cơ sở lý luận
Nuôi con nuôi là cơ sở để xác lập các mối quan hệ trong gia đình, góp phần
hình thành, mở rộng và củng cố gia đình, thiết lập một thiết chế xã hội cơ bản trong
mọi xã hội, do đó pháp luật các nước luôn có sự điều chỉnh các mối quan hệ nảy
sinh từ việc nuôi con nuôi3. Pháp luật Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó,
vì vậy các quy phạm về nuôi con nuôi bao gồm điều kiện nuôi con nuôi đã ra đời từ
rất sớm.
Tư tưởng của nhà cầm quyền, đường lối chủ trương của Đảng và nhà nước là
3

Nguyễn Phương Lan (2017), Luật Nuôi con nuôi – Thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 14, 15.


11

một trong những cơ sở quan trọng để xây dựng pháp luật nuôi con nuôi. Bởi vì, nhà
nước luôn sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong cuộc
sống sao cho phù hợp với lợi ích của mình và hài hòa với lợi ích của xã hội để củng
cố quyền lực của giai cấp thống trị. Theo đó, điều kiện nuôi con nuôi theo pháp luật
hiện hành được quy định trên cơ sở chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước về công tác bảo vệ trẻ em, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em trên
tinh thần nhân đạo, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ, minh bạch, góp phần đấu tranh
phòng, chống hiện tượng mua bán trẻ em làm con nuôi hoặc lợi dụng việc nuôi con
nuôi để trục lợi.

Nuôi con nuôi là một chế định pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật
của nhiều nước và trong pháp luật quốc tế. Chế định nuôi con nuôi được các quốc
gia và cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt vì đó là sự bảo vệ về pháp lý rất cần
thiết nhằm đảm bảo những lợi ích tốt nhất cho những trẻ em khi không được tiếp
tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình ruột thịt, thậm chí
trong quốc gia của mình khi trẻ được cho làm con nuôi nước ngoài. Do đó, hệ thống
các văn bản quốc tế về nuôi con nuôi cũng ngày một đa dạng, phong phú và hoàn
thiện hơn. Trong xu thế hội nhập hiện nay, để có sự tương thích, hài hòa với pháp
luật quốc tế, pháp luật về nuôi con nuôi nói chung, điều kiện nuôi con nuôi nói riêng
cần phải căn cứ vào các văn bản quốc tế điều chỉnh về vấn đề này như Công ước
của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em năm 1989, Công ước Lahay số 33 năm 1993 về
bảo vệ trẻ em và hợp tác giữa các nước về con nuôi nước ngoài…
Điều kiện nuôi con nuôi được quy định trên cơ sở các nguyên tắc điều chỉnh
pháp luật về nuôi con nuôi, trong đó nguyên tắc bảo đảm cho trẻ em được sống
trong gia đình gốc và nguyên tắc việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện,
bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội là
những nguyên tắc cơ bản, tác động trực tiếp đến việc quy định điều kiện nuôi con
nuôi. Trên cơ sở các nguyên tắc này, pháp luật đặt ra các điều kiện đối với người
nhận nuôi, người được nhận nuôi và sự thể hiện ý chí trong việc nuôi con nuôi bảo


12

đảm phù hợp với mục tiêu quản lý của Nhà nước và mục đích đem lại mái ấm gia
đình cho những trẻ em kém may mắn hoặc bất hạnh trong cuộc sống, góp phần đáp
ứng nhu cầu của những người nhận nuôi con nuôi.
1.1.3.2. Cơ sở thực tiễn về việc quy định điều kiện nuôi con nuôi
Tính đến thời điểm trước khi ban hành Luật nuôi con nuôi, nước ta có
200.000 trẻ em trẻ mồ côi, không nơi nương tựa, trẻ em khuyết tật; hàng vạn trẻ em

là nạn nhân của chất độc hóa học, nhiễm HIV/AIDS, mắc bệnh hiểm nghèo cần
được chăm sóc, chữa trị. Trong điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, đất
nước còn chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhà nước chưa có đủ điều
kiện để bảo đảm cho trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng, chữa trị, thì việc cho trẻ
em làm con nuôi được coi là giải pháp hiệu quả có ý nghĩa hết sức quan trọng4. Bên
cạnh việc bảo vệ và chăm sóc, tạo môi trường nuôi dưỡng trong gia đình cho trẻ em,
việc nuôi con nuôi còn góp phần đáp ứng nhu cầu chính đáng của những cặp vợ
chồng vô sinh, hiếm con, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, người sống đơn thân
mong nuôi con nuôi. Vì vậy, để việc giải quyết con nuôi được chặt chẽ, thống nhất,
ổn định, trên cơ sở bảo đảm quyền của trẻ em và nhu cầu chính đáng của các bên thì
việc quy định điều kiện nuôi con nuôi là cần thiết.
Nuôi con nuôi là vấn đề mang tính nhân đạo cao. Thực tiễn cho thấy, trong
nhiều năm qua nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đã tìm được gia đình thay thế ở
trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn xảy ra những hiện tượng
trục lợi, cò mồi phát sinh cùng với quá trình giải quyết cho trẻ làm con nuôi như xu
hướng chạy theo lợi ích vật chất khi giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước
ngoài; hiện tượng lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với
cách mạng để hưởng quyền lợi, chế độ, chính sách của Nhà nước hay không minh
bạch trong các khoản hỗ trợ nhân đạo; nhận nuôi con nuôi nhằm bóc lột sức lao
động; có trường hợp lợi dụng để buôn bán trẻ em, xâm hại đến quyền và không bảo
vệ được lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Chính vì vậy việc quy định chặt chẽ về các điều

4

Chính phủ (2009), Tờ trình số 163/TTr-CP ngày 07/10/2009 về dự án Luật nuôi con nuôi, Hà Nội, tr.2.


13

kiện nuôi con nuôi là cần thiết, giúp giảm thiểu tình trạng trên.

1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về điều kiện nuôi con
nuôi
1.2.1. Điều kiện về chủ thể trong quan hệ pháp luật về nuôi con nuôi
1.2.1.1. Điều kiện đối với người được nhận nuôi
Về độ tuổi, Điều 8 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định: Người được nhận
làm con nuôi là “trẻ em dưới 16 tuổi”. So với quy định của Luật HN&GĐ năm 2000
(đã hết hiệu lực thi hành), độ tuổi của trẻ em được tham gia vào quan hệ pháp luật về
nuôi con nuôi đã nới rộng hơn 1 tuổi. Quy định như vậy là hợp lý, vì các lý do sau:
Thứ nhất, tại thời điểm ban hành Luật nuôi con nuôi, Luật bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định “trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi
trở xuống” (Điều 1). Luật nuôi con nuôi xác định rõ, người được nhận nuôi là trẻ
em. Do đó, để thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, Luật nuôi con nuôi đã
quy định tuổi của người được nhận làm con nuôi là “trẻ em dưới 16 tuổi”, cao hơn
so với Luật HN&GĐ năm 2000. Ngoài ra, quy định này cũng tạo cơ hội cho những
trẻ em từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi được nhận làm con nuôi. Hiện nay, Luật trẻ em
năm 2016 đã thay thế cho Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, tuy
nhiên, quy định về độ tuổi của trẻ em là dưới 16 tuổi tiếp tục được kế thừa vì vậy
quy định của Luật nuôi con nuôi vẫn còn phù hợp.
Thứ hai, quy định về độ tuổi của người được nhận nuôi là dưới 16 tuổi nhằm
bảo đảm về sự chênh lệch và khoảng cách độ tuổi cần thiết giữa hai thế hệ, bảo đảm
được mục đích xác lập quan hệ cha mẹ và con, tạo điều kiện để người được nhận
làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội.
Hơn nữa, những người chưa đủ 16 tuổi là người chưa thành niên, chưa có năng lực
hành vi đầy đủ và chưa nhận thức hết hậu quả hành vi của mình, chưa hoàn thiện về
thể chất, trí tuệ, tinh thần và tâm sinh lý, chưa đủ năng lực để thực hiện toàn diện
quyền và nghĩa vụ của công dân, là đối tượng cần được quan tâm chăm sóc, bảo vệ
hơn hết trong trường hợp thiếu may mắn lâm vào hoàn cảnh khó khăn đặc biệt.


14


Trong khi đó, những người trên 16 tuổi đã có thể tự lập kiếm sống nuôi bản thân,
còn những người nhận con nuôi thường mong muốn nhận nuôi những trẻ em nhỏ
tuổi, vừa tạo cho các em một mái ấm gia đình, vừa thuận lợi trong việc nuôi dưỡng,
phát triển tình cảm gắn bó giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.
Thứ ba, quy định của pháp luật Việt Nam so với quy định của các nước về độ
tuổi của trẻ được cho làm con nuôi khá tương đồng. Theo pháp luật Trung Quốc trẻ
em dưới 14 tuổi có thể được nhận làm con nuôi, pháp luật Cộng hòa Pháp quy định
độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi là dưới 15 tuổi, pháp luật Hàn Quốc quy
định trẻ em có thể được nhận làm con nuôi là dưới 18 tuổi. Đồng thời, quy định của
pháp luật Việt Nam cũng phù hợp khi gia nhập Công ước Lahay năm 1993, cụ thể:
Công ước quy định việc nuôi con nuôi được áp dụng đối với trẻ em dưới 18 tuổi
(Điều 3). Quy định của Công ước chỉ nhằm mục đích xác định phạm vi áp dụng của
Công ước, không có ý tạo lập độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi5. Nếu
pháp luật nước gốc cho trẻ em làm con nuôi ở độ tuổi thấp hơn thì pháp luật của
nước gốc sẽ được áp dụng mà không tính đến Điều 3 của Công ước.
Ngoài ra, Luật nuôi con nuôi năm 2010 có quy định trường hợp ngoại lệ tại
khoản 2 Điều 8 là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể được cho làm con
nuôi nếu thuộc một trong các trường hợp được cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú,
bác ruột nhận làm con nuôi. Quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện cho người
được nhận nuôi được sống trong môi trường gia đình gốc, gia đình có mối quan hệ
huyết thống hoặc gia đình có quan hệ họ hàng với mình.
Ngoài điều kiện về độ tuổi, khoản 3 Điều 8 Luật nuôi con nuôi năm 2010
quy định: “Một người chỉ được nhận làm con nuôi của một người độc thân hoặc
của cả hai người là vợ chồng”. Theo đó, trẻ em được cho làm con nuôi trong hai
trường hợp: làm con nuôi của một người độc thân hoặc làm con nuôi của vợ chồng.
Luật nuôi con nuôi năm 2010 không cho phép người đã có vợ hoặc chồng nhận con
nuôi riêng, việc nhận con nuôi khi đã có vợ/chồng cần có sự thống nhất ý chí của
5


Bộ Tư pháp – Cục Con nuôi quốc tế (2007), Tìm hiểu Công ước La Hay về nuôi con nuôi, Nxb Tư pháp,
Hà Nội, tr.39.


15

người còn lại. Vợ chồng nhận nuôi con nuôi phải có hôn nhân hợp pháp, được đăng
ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn trường hợp hai bên nam nữ
chung sống với nhau như vợ chồng nhưng chưa đăng ký kết hôn thì không được
nhận con nuôi. Luật cũng không cho phép một người được nhận làm con nuôi của
nhiều gia đình hoặc nhiều người độc thân. Mục đích của quy định này là giúp cho
những trẻ được cho làm con nuôi có một môi trường gia đình ổn định, hòa hợp,
thống nhất trong cách sống, cách chăm sóc giáo dục, tạo điều kiện cho trẻ ổn định
về tâm lý, sớm thích nghi với gia đình mới.
So với Luật HN&GĐ năm 2000 thì thấy rằng, Luật này quy định “Một người
chỉ có thể làm con nuôi một người hoặc của cả hai vợ chồng” (khoản 2 Điều 68).
Quy định này chưa làm rõ vấn đề một người đã có vợ hoặc chồng có được phép
nhận con nuôi riêng hay không. Như vậy, theo phân tích ở trên, quy định tại Luật
nuôi con nuôi năm 2010 đã rõ ràng hơn trong việc chỉ cho phép một người độc thân
hoặc cả hai vợ chồng nhận con nuôi.
So với các nước trên thế giới, một số quốc gia cũng không cho phép làm con
nuôi hai lần, nhằm tránh tình trạng lạm dụng việc nuôi con nuôi để buôn bán trẻ em
hoặc thực hiện những mục đích xấu khác không thể kiểm soát được.
Tại khoản 4 Điều 8 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “Nhà nước khuyến
khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác
làm con nuôi”. Quy định này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với những trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt và thể hiện tính nhân đạo của việc nuôi con nuôi. Nhà
nước, ngoài việc có các chính sách để hỗ trợ đối với những trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt thì khuyến khích, tạo điều kiện cho người nhận nuôi nhận các em làm con nuôi
để các em có mái ấm gia đình thay thế. Bởi vì, chính sách của nhà nước chỉ có thể hỗ

trợ về mặt vật chất, điều kiện đảm bảo mà không thể giúp các em ổn định tinh thần,
phát triển tâm lý như khi được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình.
Như vậy, ngoài những điều kiện đối với người được nhận nuôi như phân tích
ở trên, pháp luật về nuôi con nuôi không đặt ra một điều kiện nào khác đối với chủ


16

thể này. So sánh với một số nước trên thế giới thì pháp luật nhiều nước có quy định
trẻ em được nhận làm con nuôi là những trẻ em có hoàn cảnh, điều kiện đặc biệt,
không có điều kiện được sống trong môi trường gia đình gốc. Ví dụ như:
Pháp luật của cộng hòa Pháp quy định trẻ em có thể được nhận nuôi là những
trẻ mà bố mẹ hoặc hội đồng gia tộc đã có ý kiến đồng ý cho làm con nuôi; những trẻ
em được nhà nước giám hộ; những trẻ em được tuyên bố bị bỏ rơi. Ngoài ra, trẻ em
có thể được cha, mẹ kế nhận làm con nuôi khi trẻ chỉ có quan hệ hợp pháp với vợ,
chồng; khi người bố, mẹ kia đã bị tước quyền làm cha mẹ hoàn toàn; khi người bố,
mẹ kia đã mất và không có con nối dõi ở hàng thứ nhất hoặc những người nối dõi
thể hiện không ai quan tâm tới trẻ.
Trung Quốc quy định trẻ em có thể đuợc nhận nuôi là trẻ bị mồ côi cha mẹ;
trẻ sơ sinh hoặc trẻ em bị bỏ rơi mà không xác định hoặc không tìm thấy bố mẹ đẻ;
và trẻ em mà bố mẹ đẻ trẻ em đó không có khả năng nuôi dưỡng chúng vì những
khó khăn đặc biệt6.
Trong khi đó điều kiện của Luật nuôi con nuôi đối với người được nhận làm
con nuôi chủ yếu là về độ tuổi - dưới 16 tuổi. Điều đó có nghĩa là bất kỳ người nào
dưới 16 tuổi dù đang sống trong điều kiện bình thường có sự chăm sóc của cha, mẹ
vẫn có thể được cho làm con nuôi. Hoàn cảnh đặc biệt của trẻ chỉ là điều kiện
khuyến khích đối với việc nhận nuôi con nuôi mà không phải là điều kiện bắt buộc.
Điều này dẫn đến nhiều trường hợp cho- nhận con nuôi không phù hợp với mục
đích được quy định tại Luật “là nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền
vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi

được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình” (Điều 2). Nghĩa
là, mục đích của việc nuôi con nuôi là bảo đảm cho trẻ em không có gia đình hoặc
có nhưng không có điều kiện nuôi dưỡng sẽ có một gia đình (có cha, mẹ), được yêu
thương, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục bởi cha mẹ mình. Mặt khác, quy định này
sẽ phần nào làm giảm đi sự quan tâm đối với những trẻ có hoàn cảnh đặc biệt đối

6

Bộ Tư pháp (2005), Bản tổng thuật pháp luật một số nước về nuôi con nuôi, Hà Nội, tr.7.


17

với hoạt động cho, nhận con nuôi. Và hơn hết, thiếu các điều kiện chặt chẽ đối với
người được nhận nuôi sẽ dẫn đến hiện tượng lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi
như lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng,
người dân tộc ít người để hưởng chính sách ưu đãi của nhà nước, hoặc thông qua
việc nuôi con nuôi để bảo lãnh trẻ đang sinh sống bình thường cùng cha mẹ ruột
sang định cư nước ngoài để hưởng lợi theo điều kiện của nước sở tại.
1.2.1.2. Điều kiện đối với người nhận nuôi
* Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi trong nước
Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định người nhận con nuôi phải có
các điều kiện: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có
điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con nuôi; có tư cách đạo đức tốt.
Thứ nhất, về điều kiện người nhận nuôi con nuôi, phải có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ: Điều 19 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Năng lực hành vi dân
sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự”. Tiếp đó, Điều 20 Bộ luật cũng quy định người có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ là người thành niên, tức là người từ đủ mười tám tuổi trở lên

và không thuộc trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi do Tòa án
ra quyết định tuyên bố. Quy định điều kiện này đối với người nhân nuôi con nuôi là
hợp lý, bởi vì, người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình. Chỉ những chủ thể này mới nhận thức được đầy đủ về
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi trong việc nuôi con nuôi để từ đó thể hiện ý chí
của mình đối với việc nhận con nuôi. Và cũng chỉ có những chủ thể này mới đảm
bảo việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, tạo dựng một mái ấm gia đình đúng nghĩa
cho trẻ được nhận nuôi.
Tuy nhiên, nếu người nhận nuôi mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác dẫn
đến có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi nhưng chưa có quyết định


18

tuyên bố của Tòa án thì Luật chưa quy định được từ chối giải quyết việc nhận nuôi
con nuôi đối với những người này. Mặc dù về bản chất, người thuộc trường hợp này
đã không thể chăm sóc cho bản thân, nên cũng không thể chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ.
Thứ hai, về điều kiện độ tuổi của người nhận nuôi phải “hơn con nuôi từ 20
tuổi trở lên”, đây cũng là quy định được kế thừa từ Luật hôn nhân và gia đình năm
1986 và năm 2000 như quy định trên. Về phương diện sinh học, người hơn con nuôi
từ 20 tuổi trở lên, tức là ít nhất người đó đã 20 tuổi, là lứa tuổi đã có sự trưởng
thành về thể chất, tâm, sinh lý. Về phương diện pháp lý, đây là độ tuổi đủ điều kiện
kết hôn đối với nam theo pháp luật hôn nhân và gia đình (đối với nữ yêu cầu về độ
tuổi đủ điều kiện kết hôn thấp hơn). Chênh lệch độ tuổi giữa người nhận nuôi và
con nuôi không chỉ bảo đảm việc người nhận nuôi sẽ có vốn sống, kinh nghiệm
chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ nhất định mà việc chênh lệch độ tuổi còn tạo nên khoảng
cách thế hệ, giúp hình thành quan hệ gia đình đúng với truyền thống, phong tục, đạo
đức xã hội. Khoảng cách độ tuổi cũng là biện pháp để nhà làm luật giảm bớt khả
năng lạm dụng tình dục của người nhận nuôi với con nuôi. Khoảng cách về độ tuổi

không áp dụng đối với trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận
con riêng của chồng, cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi. Quy định
này phù hợp với nguyên tắc của Luật là tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong
môi trường gia đình gốc, tức là quyền của trẻ em được sống với cha đẻ, mẹ đẻ,
người thân thích, ruột thịt của mình.
Luật một số nước cũng có quy định về khoảng cách độ tuổi giữa người nhận
con nuôi và người được nhận làm con nuôi, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội
của từng nước. Ví dụ cộng hòa Pháp, Thái Lan quy định người nhận trẻ em làm con
nuôi phải hơn trẻ em được nhận làm con nuôi từ 15 tuổi trở lên. Trong khi đó,
Guatemala lại yêu cầu độ tuổi chênh lệch giữa hai đối tượng này là 20 tuổi. Ở Liên
bang Nga mức độ chênh lệch này là không dưới 16 tuổi. Malaysia và Singapore cùng
quy định người xin nhận con nuôi phải hơn người được nhận làm con nuôi 21 tuổi.
Như vậy, Luật chỉ quy định khoảng cách về độ tuổi giữa người nhận nuôi và
con nuôi mà không giới hạn tuổi tối đa của người nhận nuôi. Điều này không phù


19

hợp với thực tế. Bởi vì, khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của người nhận
nuôi khi ở độ tuổi quá cao sẽ bị hạn chế khiến cho lợi ích của trẻ được nhận nuôi
không được bảo đảm, mục đích của việc nuôi con nuôi sẽ không đạt được. Quy định
này cũng có thể dẫn đến trường hợp những người lớn tuổi muốn nhận con nuôi để
đáp ứng nhu cầu về tinh thần, giúp giảm bớt cô đơn và có người chăm sóc lúc về
già. Điều này khiến cho ý nghĩa của việc nuôi con nuôi bị sai lệch.
Ngoài ra, Luật cũng quy định trường hợp cha dượng, mẹ kế nhận con riêng
của vợ hoặc chồng làm con nuôi, hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con
nuôi thì không phải thỏa mãn về điều kiện khoảng cách độ tuổi. Tuy nhiên, thực tế có
thể xảy ra trường hợp người nhận nuôi đủ 18 tuổi là cô, dì hoặc mẹ kế nhận con
riêng, cháu ruột dưới 18 tuổi làm con nuôi. Với khoảng cách về độ tuổi hẹp như vậy
(có thể chỉ 01 ngày tuổi), người nhận nuôi sẽ khó khăn trong việc đảm đương chức

trách của người mẹ trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi. Tham khảo
pháp luật của Pháp, trong trường hợp này Pháp quy định tuổi của người nhận con
nuôi chỉ cần lớn hơn con nuôi 10 tuổi. Như vậy, cần phải điều chỉnh khoảng cách tuổi
tối thiểu giữa người nhận nuôi và con nuôi trong quy định của pháp luật để việc nuôi
con nuôi đảm bảo đúng ý nghĩa và phù hợp với phong tục, tập quán của Việt Nam.
Thứ ba, người nhận con nuôi phải “có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở
bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi”. Người con nuôi chỉ được
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt khi người nuôi có sức khỏe tốt, có đủ thời gian
để quan tâm, chăm sóc người con nuôi về mọi mặt và có khả năng về kinh tế, có
chỗ ở đảm bảo. Thực tế cho thấy, một người không có sức khỏe thì không thể chăm
sóc cho bản thân, càng không thể chăm sóc cho trẻ được nhận làm con nuôi. Và
việc chăm sóc, nuôi dưỡng một đứa trẻ ở điều kiện bình thường nhất cũng đòi hỏi
người nuôi dưỡng phải có khả năng kinh tế nhất định. Đây là điều kiện quan trọng
nhằm tạo môi trường sống lành mạnh, thuận lợi cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ
của trẻ. Tuy nhiên, thế nào là điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi trên thực tế rất khó xác định. Ví dụ như
trường hợp người mắc bệnh viêm gan B mạn tính, là bệnh có thể lây nhiễm và phổ


20

biến trong xã hội nhưng người bệnh vẫn có khả năng sinh hoạt bình thường thì có
được coi là đủ điều kiện về sức khỏe để nhận con nuôi không? Hoặc điều kiện về
kinh tế, đối với người có thu nhập hàng tháng và việc làm ổn định thì xác định
không khó khăn nhưng với những người làm nghề tự do, thu nhập không ổn định thì
căn cứ vào đâu để xác định? Pháp luật hiện hành quy định về điều kiện này còn
chung chung, không có tiêu chí cụ thể, rõ ràng, không thể định lượng được, gây khó
khăn trong thực tiễn áp dụng.
Cũng như việc miễn điều kiện về khoảng cách độ tuổi, điều kiện này cũng
được miễn trong trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con

riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận cháu làm con
nuôi. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho trẻ được sống cùng cha đẻ hoặc mẹ đẻ,
gia đình họ hàng ruột thịt phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống đạo đức
của dân tộc, đồng thời phù hợp với các văn bản pháp lý quốc tế về nuôi con nuôi.
Tuy nhiên, việc miễn điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở cũng dẫn đến những
trường hợp không đủ điều kiện đảm bảo để nuôi dưỡng trẻ. Vì vậy, nếu người nhận
nuôi không đủ điều kiện kinh tế, sức khỏe, chỗ ở để nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ thì
việc nhận nuôi con nuôi không nên được chấp nhận trừ trường hợp nhận nuôi trẻ từ
đủ 9 tuổi trở lên vì trẻ ở tuổi này đã được thể hiện ý chí khi làm con nuôi. Ngoài ra,
việc miễn điều kiện này và điều kiện về độ tuổi có được áp dụng đối với chồng hoặc
vợ của cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận cháu làm con nuôi hay không Luật không quy
định dẫn đến thực tiễn áp dụng sẽ gặp phải khó khăn, vướng mắc.
Thứ tư, điều kiện người nhận nuôi phải “có tư cách đạo đức tốt”. Để đảm
bảo mục đích nuôi con nuôi, ngoài điều kiện về vật chất, điều kiện về tinh thần cũng
rất quan trọng. Tư cách đạo đức của cha mẹ nuôi ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình
thành, phát triển nhân cách của trẻ. Cha mẹ nuôi không chỉ là tấm gương cho con
nuôi học tập, noi theo mà sự dạy dỗ, giáo dục của cha mẹ nuôi còn là nền tảng tạo
nên trí tuệ, nhân cách của trẻ. Cho nên, cha me nuôi có tư cách đạo đức tốt sẽ mang
đến cho trẻ một mái ấm thực sự, một môi trường sống lành mạnh, an toàn giúp trẻ
phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và nhân cách. Theo quy định tại khoản 1


×