Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Hòa giải vụ việc dân sự và thực tiễn áp dụng tại các tòa án nhân dân ở tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.58 MB, 84 trang )

B GIO DC V O TO

B T PHP

TRNG I HC LUT H NI

HONG KIM THấU

HòA GIảI Vụ VIệC DÂN Sự Và THựC TIễN áP DụNG
TạI CáC TòA áN NHÂN DÂN ở TỉNH LạNG SƠN

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


B GIO DC V O TO

B T PHP

TRNG I HC LUT H NI

HONG KIM THấU

HòA GIảI Vụ VIệC DÂN Sự Và THựC TIễN áP DụNG
TạI CáC TòA áN NHÂN DÂN ở TỉNH LạNG SƠN

LUN VN THC S LUT HC

Chuyờn ngnh : Lut dõn s v T tng dõn s
Mó s



: 8 38 01 03

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Bựi Th Huyn

H NI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hoàng Kim Thêu


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ

7


1.1.

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải vụ án dân sự

7

1.2.

Nội dung quy định pháp luật hiện hành về hòa giải vụ án dân sự

15

Chƣơng 2: THỰC TIỄN HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI CÁC TÒA ÁN
NHÂN DÂN Ở TỈNH LẠNG SƠN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

2.1.

Thực tiễn hòa giải vụ án dân sự tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh
Lạng Sơn

2.2.

33

33

Một số kiến nghị hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về
hòa giải vụ án dân sự tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn

51


KẾT LUẬN

65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTDS

: Tố tụng dân sự

VADS

: Vụ án dân sự


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Thống kê kết quả hòa giải thành các VADS của TAND hai
cấp tỉnh Lạng Sơn (từ năm 2012-2017)

35


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, xã hội loài người là tổng thể
các quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp, đa chiều, đa lợi ích. Các mâu thuẫn,
tranh chấp là một hiện tượng xã hội phổ biến, khách quan trong đời sống xã
hội hàng ngày. Vấn đề ở đây không phải là phủ nhận, né tránh các mâu thuẫn,
tranh chấp mà phải tìm giải pháp tích cực, hữu hiệu giải quyết tranh chấp đó.
Trong nhiều biện pháp giải quyết tranh chấp, hòa giải là một biện pháp quan
trọng để giải quyết kịp thời các tranh chấp, hướng tới mục đích bình đẳng và
hòa hợp trong các mối quan hệ xã hội. Sự hình thành và phát triển của hiện
tượng hòa giải là một tất yếu khách quan đáp ứng yêu cầu phát triển của đời
sống xã hội. Hòa giải đã trở thành một nét đẹp truyền thống, đạo lý của dân
tộc Việt Nam, giúp giải quyết những mẫu thuẫn, tranh chấp góp phần phòng

ngừa tội phạm phát sinh và tranh chấp phát triển phức tạp, giữ gìn sự hòa
thuận cho từng gia đình, bình yên cho từng làng xóm, giữ trật tự, kỷ cương,
an toàn xã hội, củng cố khối đoàn kết cộng đồng. Truyền thống này là sức
mạnh tiềm tàng, là nội lực vô tận cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam.
Hiện nay, các quy định của pháp luật về hòa giải đã được quy định khá
đầy đủ và chi tiết trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 và đã trở
thành phương thức hữu hiệu khi giải quyết các vụ việc dân sự. Chính từ những
yêu cầu cần thiết của công tác hòa giải, nhiều văn bản của Trung ương và của
Lạng Sơn đã ban hành với mục tiêu nâng cao chất lượng công tác hòa giải như:
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ: "Khuyến khích việc giải quyết
một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài"; Chỉ thị số
04/2017/CT-CA, ngày 03/10/2017 của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC)
về việc tăng cường công tác hòa giải tại Tòa án nhân dân (TAND); Chỉ thị số
17-CT/TU, ngày 12/10/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lạng Sơn về tăng


2
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Ngày 12/01/2018, Ban cán sự đảng TAND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 01NQ/BCSĐ về việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm
của TAND hai cấp 2018, trong đó xác định một trong 03 giải pháp đột pháp của
TAND hai cấp tỉnh Lạng Sơn là "Nâng cao chất lượng hòa giải tại các đơn vị
Tòa án nhân dân hai cấp trong tỉnh", phấn đấu năm 2018 tỷ lệ hòa giải thành
các án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động từ 65%
trở lên, đạt và vượt chỉ tiêu của TANDTC đề ra.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi biên giới thuộc khu vực Đông Bắc của
Tổ quốc Việt Nam. Trong những năm gần đây, phát huy các lợi thế về đặc
điểm tự nhiên, vị trí địa lý, với nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh,
Lạng Sơn chú trọng phát triển du lịch, dịch vụ và thương mại. Do đó, kinh tế
của tỉnh phát triển kéo theo sự nâng cấp, phát triển hạ tầng, đầu tư, quy hoạch

cùng với sự biến đổi về giá cả thị trường, chính sách pháp luật, an sinh xã hội
đã làm thay đổi về đời sống của nhân dân trong tỉnh. Sự thay đổi đó về kinh tế xã hội của Lạng Sơn có cả tích cực và tiêu cực, trong đó có sự đối kháng về lợi
ích kinh tế, về nhận thức phát triển xã hội trong một bộ phận tầng lớp nhân dân
có xu hướng gia tăng, dẫn đến các mâu thuẫn cũng gia tăng. Và giải pháp hiệu
quả hơn cả chính là hòa giải. Tuy nhiên trên thực tế, một số quy định về hòa giải
trong pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) thời gian qua cũng đã bộc lộ những bất
cập nhất định, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng công tác hòa giải của Tòa
án nói chung và TAND hai cấp tỉnh Lạng Sơn nói riêng. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định về hòa giải là vấn đề hết sức cần thiết.
Với nhận thức tầm quan trọng của công tác hòa giải, là một cán bộ
TAND tỉnh, tôi muốn lựa chọn một đề tài nghiên cứu có tính ứng dụng, thiết
thực đối với tỉnh Lạng Sơn nói chung và đối với các TAND ở tỉnh Lạng Sơn
nói riêng. Chính vì lý do đó tôi đã chọn đề tài "Hòa giải vụ việc dân sự và
thực tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn" làm đề tài cho
luận văn tốt nghiệp của mình.


3
2. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Học viên đăng ký đề tài "Hòa giải vụ việc dân sự và thực tiễn áp dụng
tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn". Tuy nhiên, trên thực tế tại các
TAND ở tỉnh Lạng Sơn hòa giải việc dân sự hầu như là không có. Do vậy
phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các quy định và thực tiễn
áp dụng hòa giải vụ án dân sự (VADS). Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
là nhằm xây dựng, hoàn thiện quy định về hòa giải VADS đơn giản, rõ ràng,
thuận tiện, dễ áp dụng cho Thẩm phán khi tiến hành hòa giải, đảm bảo cho
việc hòa giải đúng pháp luật, tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự nhằm
mục tiêu nâng cao chất lượng hòa giải tại các TAND ở tỉnh Lạng Sơn, phấn
đấu năm 2018 tỷ lệ hòa giải thành các VADS, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động từ 65% trở lên, đạt và vượt chỉ tiêu của TAND

tối cao đề ra.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về hòa giải VADS như: Khái
niệm, đặc điểm của hòa giải VADS.
- Đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về hòa giải VADS,
chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật về hòa giải VADS.
- Tìm hiểu, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về hòa giải VADS tại
các Tòa án ở tỉnh Lạng Sơn từ năm 2012 đến nay, chỉ ra những khó khăn, vướng
mắc, sai sót của các Tòa án ở tỉnh Lạng Sơn khi tiến hành hòa giải VADS.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện
pháp luật về hòa giải VADS tại các Tòa án ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hòa giải là một thủ tục quan trọng bắt buộc trong giải quyết các
VADS tại Tòa án, các quy định về hòa giải đã và đang được nhiều nhà nghiên
cứu lý luận và thực tiễn quan tâm. Nhiều công trình, bài viết khoa học nghiên
cứu về hòa giải trong TTDS như: Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hòa giải trong
tố tụng dân sự Việt Nam" của Trương Kim Oanh (1996); Luận án tiến sĩ Luật


4
học:"Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam - Cơ sở lý
luận và thực tiễn" của Trần Văn Quảng, Hà Nội, 2004; Luận văn thạc sĩ Luật
học "Hòa giải trong tố tụng dân sự - Thực tiễn và hướng hoàn thiện" của Bùi
Đăng Huy, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1996; Khóa luận tốt nghiệp: "Hòa
giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" của Nguyễn Kiều Oanh, Hà
Nội, 2010; Khóa luận tốt nghiệp: "Hòa giải trong tố tụng dân sự - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn" của La Phương Na, Hà Nội, 2011; Luận văn thạc sĩ
Luật học: "Hòa giải vụ án dân sự", của Bùi Ngọc Thủy, 2012; Luận văn thạc
sĩ Luật học: "Hòa giải vụ việc dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam"
của Lê Bích Ngọc, 2013; "Hoàn thiện chế định hòa giải trong pháp luật tố

tụng dân sự Việt Nam" của Nguyễn Thị Thúy, 2014; Luận văn thạc sĩ Luật
học "Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" của Bùi
Anh Tuấn, 2014… Tuy nhiên, kể từ khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực đến
nay thì chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể về hoàn thiện
chế định hòa giải trong pháp luật TTDS.
Mỗi công trình và mỗi bài viết nghiên cứu về hòa giải trong TTDS ở
một khía cạnh riêng, nhưng các công trình trên đều được nghiên cứu trước khi
BLTTDS 2015 ban hành và có hiệu lực pháp luật. Việc ban hành BLTTDS là
một bước phát triển vượt bậc của hệ thống pháp luật TTDS, trong đó có quy
định về hòa giải VADS. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có sự nghiên cứu
hoàn thiện quy định của pháp luật về hòa giải VADS một cách toàn diện, đầy
đủ, có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả của việc
hòa giải VADS tại các TAND ở tỉnh Lạng Sơn.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
Học viên đăng ký đề tài "Hòa giải vụ việc dân sự và thực tiễn áp dụng
tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn". Tuy nhiên, trên thực tế tại các
TAND ở tỉnh Lạng Sơn hòa giải việc dân sự hầu như là không có. Mặt khác,
do giới hạn của luận văn thạc sĩ luật học ứng dụng nên phạm vi nghiên cứu đề
tài chỉ tập trung nghiên cứu các quy định và thực tiễn áp dụng hòa giải VADS


5
theo thủ tục tố tụng thông thường tại phiên tòa sơ thẩm. Luận văn không
nghiên cứu về hòa giải VADS khi vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn
và hòa giải việc dân sự. Luận văn nghiên cứu thực tiễn hòa giải VADS tại các
TAND ở tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa sơ thẩm từ năm 2012 đến nay.
Do đó, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn tập
trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Khái quát chung về hòa giải VADS;
- Thực tiễn thực hiện hòa giải VADS tại các TAND ở tỉnh Lạng Sơn.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp luận biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, những quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp. Đồng thời, tác giả
cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích, chứng minh,
tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu, sử dụng các kết quả
thống kê về hòa giải trong thực tiễn xét xử của các TAND ở tỉnh Lạng Sơn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình khoa học pháp lý ở cấp độ thạc sĩ ở nước ta
nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về hòa giải VADS và
thực tiễn thực hiện tại các TAND ở tỉnh Lạng Sơn.
Những đóng góp mới của luận văn là:
- Luận văn làm rõ hơn khái niệm, đặc điểm hòa giải VADS.
- Luận văn đã đánh giá đúng thực trạng pháp luật TTDS hiện hành về
hòa giải VADS.
- Luận văn đã chỉ ra được những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn
hòa giải VADS tại các TAND ở tỉnh Lạng Sơn, chỉ ra được nguyên nhân của
những hạn chế, vướng mắc đó.
- Luận văn đã đề xuất được một số kiến nghị có giá trị tham khảo
nhằm hoàn thiện pháp luật về hòa giải VADS và các giải pháp nhằm bảo đảm
thực hiện việc hòa giải VADS tại các TAND ở tỉnh Lạng Sơn.


6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về hòa giải vụ án dân sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện hòa giải vụ án dân sự tại các Tòa án
nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn và một số kiến nghị.



7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm hòa giải vụ án dân sự
Mâu thuẫn về quyền, lợi ích giữa con người với con người trong xã
hội là điều khó có thể tránh khỏi và nếu không được giải quyết kịp thời rất có
thể sẽ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Trong quá trình giải quyết các
VADS, hòa giải là một trong những nguyên tắc quan trọng thể hiện tính đặc
trưng và riêng biệt của TTDS. Việc hòa giải xuất phát từ quyền tự định đoạt
của các đương sự, là một phương thức để giải quyết tranh chấp dân sự. Ngay
cả khi đương sự đã khởi kiện ra Tòa án thì tranh chấp giữa các bên vẫn có thể
được giải quyết thông qua con đường hòa giải. Vậy hòa giải được hiểu là gì?
Về mặt thuật ngữ, "Hòa giải là thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt
xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa"1. Khái niệm này đã nêu lên được
hành động và mục đích của hòa giải, nhưng còn bản chất, nội dung, chủ thể
của hòa giải thì lại chưa đề cập đến.
Khi xem xét hòa giải dưới góc độ pháp lý cũng có nhiều cách hiểu
khác nhau. Có quan điểm cho rằng "Hòa giải là quá trình giải quyết những
tranh chấp, bất đồng giữa các bên. Trong quá trình hòa giải cần đến một bên
thứ ba với vai trò trung lập, làm trung gian giúp các bên tranh chấp giải
quyết được những bất đồng và đạt được một thỏa thuận phù hợp với quy định
của pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện những thỏa thuận đó"2.
Với quan điểm này, hòa giải được nghiên cứu dưới góc độ là một hoạt động
tố tụng, mục đích của hòa giải là giải quyết thành công các tranh chấp. Tuy
nhiên, khái niệm này chưa phân biệt được hòa giải do Tòa án tiến hành và hòa
giải do các cá nhân, tổ chức trung gian đứng ra hòa giải.
1. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 1998.

2. Trần Huy Liệu, "Thực trạng tổ chức và hòa giải ở cơ sở", Thông tin khoa học pháp lý, Viện Nghiên cứu
khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội.


8
Khi hòa giải, dù mâu thuẫn chưa được giải quyết hoàn toàn các bên
nhưng các bên tranh chấp cũng có cơ hội hiểu rõ hơn nội dung tranh chấp,
bày tỏ ý chí của mình với đối phương và cũng được nghe ý kiến của đối
phương về vụ tranh chấp. Từ đó, hai bên có thể phần nào tìm được tiếng nói
chung và làm giảm mức độ mâu thuẫn.
Ý kiến khác lại cho rằng "Hòa giải là một chế định quan trọng của
luật tố tụng dân sự,là phương pháp giải quyết vụ án bằng chính sự thỏa
thuận, thương lượng của các đương sự"3. Quan điểm này, nghiên cứu hòa giải
dưới góc độ là một chế định pháp luật, đã nêu được vai trò, ý nghĩa của hòa
giải trong TTDS, nhưng chưa phản ánh được bản chất của hòa giải các
VADS. Việc giải quyết vụ án bằng chính sự thỏa thuận của các đương sự có
thể được chia thành hai trường hợp: trường hợp do các đương sự tự hòa giải
và trường hợp do các đương sự hòa giải với sự giúp đỡ của Tòa án. Hai
trường hợp giải quyết vụ án bằng chính sự thỏa thuận, thương lượng của các
đương sự nêu trên có bản chất, thủ tục khác nhau.
Có thể thấy, kết quả tốt nhất của việc giải quyết tranh chấp dân sự là
bản án, quyết định của Tòa án nhận được sự đồng thuận từ phía các đương sự.
Vì vậy, trong quá trình giải quyết VADS, Tòa án luôn khuyến khích, tạo điều
kiện để các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết VADS. Do đó, trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng để
triệu tập các đương sự đến phiên hòa giải, xác định thành phần, nội dung, địa
điểm hòa giải, giải thích pháp luật, nội dung tranh chấp để các bên đương sự
nhận thức rõ các quyền và nghĩa vụ của mình để đi đến thỏa thuận. Để xác
định trách nhiệm của Tòa án đối với việc hòa giải, pháp luật TTDS Việt Nam
đã quy định việc hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm là bắt buộc, trừ những việc

không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải.
Ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo như tại phiên tòa sơ thẩm, phúc
thẩm, Tòa án vẫn luôn tạo điều kiện và khuyến khích các bên đương sự thỏa
3. Vũ Mạnh Thông, Nguyễn Ngọc Điệp, Lê Thị Kim Nga, "Tìm hiểu ngành luật tố tụng dân sự", NXB Mũi
Cà Mau, 1999.


9
thuận với nhau về giải quyết VADS thông qua việc hỏi các đương sự có thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết VADS hay không. Nếu các đương sự
thỏa thuận được với nhau về giải quyết VADS thì Tòa án sẽ công nhận sự
thỏa thuận đó. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về hòa giải
VADS như sau: Hòa giải vụ án dân sự là thủ tục do Tòa án tiến hành nhằm
giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự.
1.1.2. Đặc điểm hòa giải vụ án dân sự
1.1.2.1. Hòa giải là hoạt động do Tòa án tiến hành, Tòa án là chủ

thể trung gian tiến hành hòa giải
Mặc dù Tòa án không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật tranh chấp
nên không có quyền hòa giải, không phải là một chủ thể của hòa giải, không
có quyền thỏa thuận với các bên đương sự về giải quyết nội dung tranh chấp
nhưng với tư cách là cơ quan xét xử, Tòa án giữ vai trò quan trọng, là trung
gian cho quá trình hòa giải giữa các đương sự. Tòa án có nhiệm vụ tổ chức
cho các bên đương sự gặp nhau để thương lượng, thỏa thuận về quyền lợi của
họ. Khi hòa giải, Tòa án giải thích pháp luật liên quan đến những quan hệ
tranh chấp, các chính sách của Nhà nước, động viên, khuyên giải, giúp đỡ họ
tháo gỡ những vướng mắc trong tâm tư tình cảm của mình để họ thỏa thuận với
nhau giải quyết các vấn đề của vụ án. Trong nhiều trường hợp, vai trò của Tòa
án có ý nghĩa quyết định sự thành công của hòa giải. Do vậy, việc hòa giải giữa
các đương sự dù trên sự tự nguyện và ý chí của đương sự nhưng lại được bảo

đảm không vi phạm điều pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội. Như vậy, dù
Tòa án không có quyền thương lượng, thỏa thuận về giải quyết nội dung vụ
việc dân sự như đương sự nhưng lại là một chủ thể không thể thiếu giữ vai trò
trung gian giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án. Đây
chính là đặc điểm để phân biệt với trường hợp các đương sự tự thỏa thuận.
1.1.2.2. Hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự
Mặc dù hòa giải là một hoạt động do Tòa án tiến hành nhưng về bản
chất, hòa giải vẫn là sự thỏa thuận của các đương sự. Chỉ có các đương sự


10
mới có quyền hòa giải, thỏa thuận với nhau về tất cả những vấn đề của nội
dung vụ án, bởi đương sự là những người có quyền lợi đang bị xâm phạm hoặc
tranh chấp, là người hiểu rõ hơn ai hết mâu thuẫn của chính họ nên họ mới có
quyền thỏa thuận để giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích của mình.
Khi tham gia vào quá trình hòa giải, các đương sự có quyền thương
lượng, thỏa thuận với nhau để giải quyết những bất đồng về quyền lợi của
mình trên cơ sở tự do, tự nguyện ý chí, thỏa thuận. Mọi sự tác động từ bên
ngoài trái với ý muốn của các đương sự đều bị coi là trái pháp luật và không
được công nhận. Không ai, bằng bất kỳ hình thức nào có thể cưỡng ép, bắt
buộc đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết những mâu thuẫn, tranh
chấp giữa họ. Đối với những vụ án do cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, cơ quan tổ chức không phải là chủ
thể của quan hệ pháp luật tranh chấp nên không có quyền hòa giải với bị đơn.
1.1.2.3. Hòa giải là thủ tục bắt buộc đối với hầu hết vụ án dân sự ở
giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Mặc dù, hòa giải thành mang lại nhiều ý nghĩa cho cả đương sự, Tòa
án, xã hội, song để tránh kéo dài quá trình tố tụng pháp luật chỉ quy định việc
Tòa án bắt buộc phải tiến hành hòa giải ở một thời điểm của giai đoạn nhất
định. Nếu Tòa án bỏ qua thủ tục này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTDS.

Còn ở các giai đoạn tố tụng khác Tòa án tạo điều kiện, khuyến khích các
đương sự tự thỏa thuận. Trong thủ tục TTDS tại các Tòa án ở Việt Nam, hòa
giải được quy định là thủ tục tố tụng bắt buộc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm. Thật vậy, Điều 10 BLTTDS năm 2015 quy định: "Tòa án có trách nhiệm
tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này". Trong
thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu tiến hành hòa giải thành, Tòa án sẽ ra quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự4. Điều đó có nghĩa là hòa giải được
tiến hành như một thủ tục, có tính bắt buộc phải tiến hành trước khi mở phiên tòa
4. Khoản 3 Điều 203 BLTTDS năm 2015.


11
sơ thẩm. Mặt khác, tại các giai đoạn khác của quá trình tố tụng, Tòa án có trách
nhiệm tạo điều kiện để các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết VADS.
Việc bắt buộc tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm xuất
phát từ những cơ sở nhất định. Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, Tòa án phải
tiến hành hoạt động lập hồ sơ, thu thập chứng cứ. Hoạt động này giúp Thẩm
phán nắm được nội dung vụ án, hiểu được nguyên nhân, điều kiện làm phát
sinh tranh chấp, từ đó có điều kiện giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau
về giải quyết vụ án. Trong giai đoạn này nếu tiến hành hòa giải thành sẽ có
nhiều ý nghĩa về mặt tố tụng, kinh tế, xã hội. Trong các giai đoạn tiếp theo,
Tòa án không có trách nhiệm hòa giải mà chỉ tạo điều kiện để các đương sự tự
thỏa thuận về giải quyết vụ án. Không phải tất cả các vụ án Tòa án đều bắt
buộc hòa giải mà đối với các vụ án không được hòa giải và không hòa giải
được thì Tòa án không tiến hành hòa giải.
1.1.2.4. Hòa giải vụ án dân sự được tiến hành theo thủ tục do pháp
luật tố tụng dân sự quy định
Hòa giải VADS cũng như các thủ tục khác do Tòa án tiến hành trên cơ
sở quy định của pháp luật. Việc quy định hòa giải các VADS bảo đảm tính khách

quan, công bằng trong hoạt động hòa giải của Tòa án, bảo đảm sự bình đẳng
của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Với ý nghĩa là một nguyên
tắc, thủ tục TTDS, mọi quan hệ phát sinh trong quá trình hòa giải các VADS
được pháp luật TTDS điều chỉnh. Các quy định của pháp luật TTDS về thủ tục
hòa giải là cơ sở để tiến hành hòa giải các VADS, bắt buộc Tòa án và những
người khác tham gia hòa giải các VADS phải tuân thủ các quy định về thủ tục
triệu tập các đương sự tham gia hòa giải, thông báo hòa giải, trình tự tiến hành
hòa giải và thủ tục ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
1.1.3. Ý nghĩa của hòa giải vụ án dân sự
1.1.3.1. Ý nghĩa đối với Tòa án
Trong những năm qua việc xét xử của Tòa án đã góp phần giải quyết
được những tranh chấp về các lĩnh vực dân sự tránh được những tranh chấp


12
nghiêm trọng xảy ra và đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của các đương
sự trong các VADS. Khi tiến hành hòa giải VADS, Tòa án đều phải tuân
theo các bước như đã quy định về hòa giải trong BLTTDS nhằm đảm bảo
quyền lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Hòa giải giúp Tòa án tiến hành
các trình tự thủ tục hòa giải được tuân thủ nghiêm minh, khách quan. Tuy
nhiên, để hòa giải VADS đòi hỏi Thẩm phán phải vận dụng linh hoạt những
kinh nghiệm hòa giải, tri thức khoa học của mình để áp dụng sáng tạo, không
rập khuôn, máy móc các quy định của hòa giải.
Từ những tác dụng của hòa giải mang lại, khi hòa giải thành giúp Tòa
án giải quyết vụ án mà không phải mở phiên tòa, tránh được việc khiếu nại,
kháng cáo, kháng nghị, hạn chế quá trình tố tụng hạn chế không cần thiết như:
phúc thẩm, tái thẩm hay giám đốc thẩm. Khi các bên tranh chấp chấp nhận
phương án hòa giải do Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử của Tòa án đề xuất
thì Tòa án không phải mở phiên tòa đã giảm bớt được một cách đáng kể rất
nhiều chi phí về thời gian, công sức, tiền bạc của không chỉ bản thân họ, mà

còn giảm bớt được gánh nặng xét xử, giảm bớt được một phần đáng kể những
chi phí của Tòa án (chi phí lấy lời khai, khảo sát, điều tra, thu thập chứng cứ,
chi phí cho việc mở các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm...). Các quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự thường được
giải quyết dứt điểm. Việc khiếu nại, kháng nghị quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự ít xảy ra. Trong khi đó, nhiều vụ án đưa ra xét xử đã
bị kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại nhiều lần, diễn ra kéo dài, phức tạp, tốn
kém tiền của, công sức, thời gian của Nhà nước và đương sự.
Trong trường hợp hòa giải VADS không thành thì việc hòa giải cũng
giúp Tòa án có điều kiện để tìm hiểu kỹ hơn nội dung của vụ án với những
tình tiết liên quan, nắm vững nội dung tranh chấp, hiểu rõ tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng của đương sự cũng như những vướng mắc trong suy nghĩ của
họ, để xác định đường lối xét xử đúng đắn trong quá trình giải quyết vụ án,
hiệu quả xét xử được nâng cao.


13
1.1.3.2. Ý nghĩa đối với các đương sự
Những quy định của hòa giải đã tạo khung pháp lý cho các đương sự
trong VADS biết được các quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó hiểu rõ và
nghiêm túc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Các đương sự hiểu sâu sắc
hơn về hòa giải là biện pháp tiết kiệm chi phí vật chất, thời gian, công sức của
các đương sự mà còn tiết kiệm chi phí, thời gian công sức của Nhà nước, của
xã hội. Khi đã có tranh chấp, thì việc giải quyết tranh chấp bao giờ cũng đòi
hỏi các đương sự, Nhà nước, xã hội phải bỏ ra chi phí thời gian, sức lực, tiền
bạc, mà những chi phí đó nhiều khi rất lớn, do việc giải quyết tranh chấp phải
huy động nhiều cơ quan chức năng, cơ quan chuyên môn và có thẩm quyền,
huy động nhiều người và phương tiện. Những công việc như thu thập chứng
cứ để chứng minh và khai báo tại Tòa án, tổ chức các buổi gặp gỡ, tiếp xúc,
đối chất giữa các đương sự và những cơ quan, những người có liên quan...

làm hao phí rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc của các đương sự, của xã
hội cũng như của Nhà nước.
Hòa giải giúp các đương sự có tranh chấp hiểu biết pháp luật hơn, nắm
vững các quyền và nghĩa vụ của bản thân cũng như sự việc đang tranh chấp
để có những thái độ, hành vi đúng mực hơn, chuẩn bị chu đáo hơn cho việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong phiên tòa xét xử tranh chấp
dân sự.
Thông qua việc tiến hành hòa giải các VADS giúp các đương sự hiểu
biết và thông cảm với nhau, góp phần khôi phục lại tình đoàn kết giữa họ,
giúp họ giải quyết tranh chấp với tinh thần cởi mở, giảm bớt mâu thuẫn, ngăn
ngừa tội phạm có nguồn gốc từ tranh chấp dân sự phát sinh. Trường hợp
không hòa giải thành thì quá trình hòa giải cũng giúp cho các đương sự ngồi
lại với nhau, hiểu rõ hơn nguyên nhân tranh chấp, được bày tỏ ý chí của mình.
Từ đó, họ có thể phần nào tìm được tiếng nói chung, hạn chế bớt mâu thuẫn.
Các quy định về hòa giải giúp các đương sự hiểu rõ về quyền tự định đoạt
của mình trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Quyền tự định đoạt


14
trong giải quyết tranh chấp thể hiện trước hết ở việc các đương sự hoàn toàn
được tự do thỏa thuận lựa chọn phương thức phù hợp để giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong quan hệ giữa họ. Đương sự được lựa chọn các hình thức
giải quyết tranh chấp như thương lượng, hòa giải, trọng tài hay tố tụng tư
pháp (Tòa án). Nếu tranh chấp được đưa ra Tòa, thì toàn bộ quy trình, thủ tục
giải quyết vụ kiện sẽ phải tuân theo các quy định của pháp luật TTDS. Trong
quy trình đó, Tòa án đại diện cho quyền lực của Nhà nước sẽ đưa ra các quyết
định có liên quan cũng như đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ kiện. Từ đó,
chế định hòa giải góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các đương sự.
Thông qua việc giải thích pháp luật của Tòa án trong phiên hòa giải, các
đương sự sẽ phần nào hiểu được quy định của pháp luật về vấn đề mà họ đang

tranh chấp. Từ đó, các bên có thể hiểu và tự quyết định về việc giải quyết
tranh chấp, không trái với quy định của pháp luật.
1.1.3.3. Ý nghĩa về kinh tế - xã hội
Không một thủ tục tố tụng nào mà quyền tự định đoạt của đương sự
lại được thể hiện rõ nét như trong thủ tục hòa giải. Tại thủ tục này, đương sự
có quyền quyết định sẽ tiếp tục kéo dài quá trình giải quyết vụ án hay không,
đưa ra những yêu cầu, đề nghị liên quan đến tranh chấp và chấp nhận hay
không chấp nhận yêu cầu của các đương sự khác…
Việc giải quyết vụ án nhanh chóng, hợp tình, hợp lý cũng củng cố
niềm tin của nhân dân vào các cơ quan nhà nước. Nhưng việc hòa giải không
phải lúc nào cũng dễ dàng, thuận tiện. Để tiến hành hòa giải có hiệu quả,
người Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, tìm hiểu cuộc sống, nhân
thân của các đương sự, phải có đạo đức nghề nghiệp, và phải có phương pháp.
Vì vậy, hòa giải thành còn là tiêu chí để đánh giá năng lực của cán bộ Tòa án.
Khi tiến hành hòa giải, Thẩm phán phải giải thích cho các đương sự
về các chính sách của nhà nước, những quy định của pháp luật, động viên
khuyến khích họ…Bởi vậy, công tác hòa giải đã giúp đương sự hiểu biết hơn
về pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của mình. Hiểu biết pháp luật sẽ giúp cho


15
họ có khả năng bảo vệ quyền lợi của chính mình, có cách cư xử phù hợp với
các quy định của pháp luật, tránh những hành vi vi phạm pháp luật.
Hòa giải thành sẽ giúp các đương sự hiểu biết, thông cảm cho nhau,
khôi phục lại tình đoàn kết giữa họ, giúp họ giải quyết tranh chấp với tinh
thần cởi mở, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội. Như vậy, hòa giải đã
củng cố tình đoàn kết trong nhân dân, giảm bớt những mâu thuẫn, góp phần
vào việc giữ gìn an ninh trật tự, công bằng xã hội, đảm bảo cho các quan hệ
xã hội phát triển lành mạnh.
1.2. Nội dung quy định pháp luật hiện hành về hòa giải vụ án dân sự

BLTTDS năm 2015 không có mục quy định riêng quy định về hòa
giải VADS mà quy định trong phần các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
(từ Điều 205 đến Điều 212), bao gồm các quy định về nguyên tắc, phạm vi,
thủ tục hòa giải, thủ tục ra quyết định công nhân sự thỏa thuận của các đương
sự và hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
1.2.1. Nguyên tắc tiến hành hòa giải vụ án dân sự
Nguyên tắc tiến hành hòa giải VADS được quy định tại khoản 2 Điều 205
BLTTDS bao gồm các nguyên tắc sau:
1.2.1.1 Hòa giải phải trên cơ sở sự tự nguyện thỏa thuận của các
đương sự
Trong quá trình Tòa án giải quyết VADS các bên vẫn có quyền
thương lượng, hòa giải với nhau việc giải quyết vụ việc. Xuất phát từ bản chất
của quan hệ dân sự, theo đó các bên bình đẳng với nhau, được tự do cam kết,
xác lập thỏa thuận các quyền, nghĩa vụ dân sự không trái pháp luật và đạo đức
xã hội. Điểm a khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015 quy định: Việc hòa giải
phải "tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng
vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận
không phù hợp với ý chí của mình". Như vậy, pháp luật quy định việc hòa giải
phải xuất phát từ sự tự nguyện thực sự của đương sự. Sự tự nguyện này được
thể hiện ở hai nội dung: Tự nguyện tham gia hòa giải và tự nguyện thỏa thuận


16
nội dung giải quyết vụ án. Tự nguyện ở đây còn thể hiện ở sự thống nhất ý chí
bên trong của các đương sự với biểu hiện ra bên ngoài của ý chí của mỗi
đương sự.
- Tự nguyện tham gia hòa giải
Cơ sở pháp lý của hòa giải xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt
của đương sự. Theo đó, đương sự được quyền tự do lựa chọn thực hiện các
hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, quyết định

quyền, lợi ích của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và trách
nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện được quyền tự
định đoạt của họ trong TTDS. Do đó, hòa giải không chỉ là trách nhiệm của
Tòa án mà còn là quyền của đương sự. Đương sự có quyền lựa chọn có tham
gia hòa giải hay không.
- Tự nguyện thỏa thuận nội dung hòa giải
Trong quá trình hòa giải, các bên tranh chấp được bàn bạc, thảo luận
và đi đến thống nhất phương án giải quyết tranh chấp. Nếu đương sự chấp
nhận thỏa thuận mà việc thỏa thuận này là do hành vi dùng vũ lực hoặc đe
dọa dùng vũ lực tác động đến ý chí chủ quan của đương sự làm cho họ phải
lựa chọn cách thức thỏa thuận để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và tài sản của mình thì cũng không được coi là tự nguyện thỏa thuận.
Trong TTDS, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện được
quyền tự do thỏa thuận về tranh chấp. Thẩm phán chỉ có thể phân tích các quy
định của pháp luật liên quan đến tranh chấp để các bên liên hệ đến quyền và
nghĩa vụ của mình, để các bên thực sự tự nguyện khi hòa giải. Tòa án chỉ đảm
bảo về mặt thủ tục cho phiên hòa giải, còn về nội dung của việc hòa giải thì
Tòa án chỉ hướng dẫn các đương sự tự thỏa thuận.
1.2.1.2. Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều
pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội
Sự tuân thủ pháp luật là yêu cầu bắt buộc trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội nên sự thỏa thuận của các bên trong hòa giải cũng không phải là


17
ngoại lệ, nhất là các thỏa thuận này được hình thành có sự chứng kiến của
Tòa án. Vì bản chất của hoà giải trong TTDS là việc Sựa án hướng dẫn, giúp
đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện.
Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự chứa đựng quyền và lợi ích của các
bên tranh chấp. Nhà nước chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

"Mà bản chất của thỏa thuận về giải quyết vụ án của đương sự là một dạng
giao dịch dân sự"5.Do đó, mọi thỏa thuận vi phạm điều pháp luật cấm đều
không được pháp luật thừa nhận, không có giá trị pháp lý. Pháp luật tôn trọng
và bảo vệ quyền tự do thỏa thuận của mỗi cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, nếu
thỏa thuận này vi phạm điều pháp luật cấm hoặc trái đạo đức xã hội, cũng
đồng nghĩa với việc thỏa thuận của các bên đang xâm phạm tới quyền và lợi
ích hợp pháp của Nhà nước, của người thứ ba và của cộng đồng xã hội. Vì
vậy, nội dung thỏa thuận đó sẽ không được pháp luật bảo vệ. Quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015 là phù hợp với quy Điều 117
Bộ luật Dân sự năm 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: "Mục
đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội". Điều cấm của pháp luật là những quy định của
pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Tuy nhiên, các nguyên tắc tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 205
BLTTDS năm chưa bao quát được hết các tình huống xảy ra trên thực tiễn
như: Thỏa thuận mức giá thấp nhằm giảm mức đóng án phí, thỏa thuận phân
chia tài sản để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, ly hôn giả tạo…Mặt khác,
nguyên tắc hòa giải không quy định về việc một VADS ít nhất phải hòa giải
bao nhiêu lần và tối đa bao nhiêu lần nên nhiều khi tạo ra sự tùy tiện khi tiến
hành hòa giải VADS. Như vậy cần sửa đổi và bổ sung nguyên tắc tiến hành
hòa giải cho phù hợp với pháp luật dân sự và thực tiễn các tranh chấp đang
diễn ra.
5. Bùi Thị Huyền (2008), "Phiên tòa sơ thẩm dân sự những vấn đề lý luận và thực tiễn", Luận án Tiến sĩ Luật
học, tr 105.


18
1.2.2. Phạm vi hòa giải
Phạm vi hòa giải là những VADS mà Tòa án phải thực hiện hòa giải
trong quá trình giải quyết VADS. Phạm vi hòa giải VADS là giới hạn những

vụ án Tòa án phải tiến hành trước khi xét xử sơ thẩm. Về nguyên tắc, hầu hết
các VADS Tòa án đều tiến hành hòa giải, trừ những vụ án không được hòa
giải và những vụ án không tiến hành hòa giải được.
Khoản 1 Điều 205 BLTTDS quy định: "Trong thời hạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc
không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật
này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn". Cũng giống như
BLTTDS năm 2011, BLTTDS năm 2015 không liệt kê những vụ việc phải
tiến hành hòa giải mà quy định theo phương pháp loại trừ. Theo đó, phạm vi
hòa giải VADS rất rộng, đó là những tranh chấp được quy định tại các điều
26, 28, 30 và 32 BLTTDS năm 2015, trừ những vụ án không được hòa giải
hoặc không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 206 và Điều 207
của BLTTDS năm 2015 hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
1.2.2.1. Những vụ án dân sự không được hòa giải
Những VADS không được hòa giải là những vụ án mà pháp luật cấm
hòa giải vì nếu hòa giải sẽ đồng nghĩa với việc tạo điều kiện cho các bên vi
phạm pháp luật hoặc việc hòa giải sẽ dễ bị lợi dụng để xâm phạm tài sản
công. Những VADS không được hòa giải được quy định tại Điều 206
BLTTDS năm 2015, bao gồm:
Thứ nhất, yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
Trước đây, theo quy định hướng dẫn tại Điều 15 Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012: "Tài sản Nhà nước được hiểu là tài sản
thuộc hình thức sở hữu Nhà nước quy định tại Điều 200 của Bộ luật Dân sự
năm 2005 và được điều chỉnh theo các quy định tại Mục 1 Chương XIII của
Bộ luật Dân sự năm 2005". Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của


19
Nhà nước là trường hợp tài sản của Nhà nước bị thiệt hại do hành vi trái pháp

luật, do hợp đồng vô hiệu, do vi phạm nghĩa vụ dân sự…gây ra và người được
giao chủ sở hữu đối với tài sản Nhà nước đó có yêu cầu đòi bồi thường. Vụ án
yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước chỉ có thể giải
quyết bằng việc Tòa án mở phiên tòa xét xử. Pháp luật không cho các bên
thỏa thuận giải quyết vì tính chất của loại tài sản này thuộc sở hữu Nhà nước,
không thể tiến hành hòa giải để quyết định về số lượng hay nội dung giá trị
bồi thường. BLTTD năm 2015 quy định, đối với yêu cầu đòi bồi thường gây
thiệt hại đến tài sản của Nhà nước thì không được hòa giải, nhằm phòng ngừa
trường hợp lợi dụng việc hòa giải để thỏa thuận, thương lượng gây thiệt hại,
thất thoát tài sản của Nhà nước.
Tuy nhiên, hiện nay, Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định về
hình thức sở hữu nhà nước mà thay bằng hình thức sở hữu toàn dân (Điều 197
Bộ luật Dân sự năm 2015). Như vậy, về phạm vi những VADS không được
hòa giải không phù hợp với quy định tại Điều 197 Bộ luật Dân sự năm 2015
về hình thức sở hữu, nên Điều 206 BLTTDS năm 2015 cần được sửa đổi cho
phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Yêu cầu đòi bồi thường
thiệt hại đến tài sản thuộc sở hữu toàn dân là trường hợp tài sản thuộc sở hữu
toàn dân bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật, do hợp đồng vô hiệu, do vi
phạm nghĩa vụ dân sự… gây ra và người được giao quản lý, sử dụng có yêu
cầu đòi bồi thường.
Thứ hai, những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm
của luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Pháp luật cho phép các chủ thể được tự do xác lập về thực hiện giao
dịch dân sự. Tự do thực hiện giao dịch dân sự chỉ được thừa nhận nếu giao
dịch đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Thông thường các quy định
của pháp luật trong đó đã hàm chứa những nội dung phù hợp với đạo đức xã
hội. Tuy nhiên, có một số giao dịch không có quy định của pháp luật nghiêm
cấm, nhưng vẫn vô hiệu vì xâm phạm đạo đức xã hội, ví dụ: hợp đồng ngăn



×