Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thực tiễn áp dụng quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn tại tòa án nhân dân tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.65 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH
HẠN CHẾ QUYỀN YÊU CẦU LY HÔN
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH
HẠN CHẾ QUYỀN YÊU CẦU LY HÔN
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự


Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Quế Anh

HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hỗ trợ của giáo viên hướng dẫn. Các kết quả, số liệu, ví dụ nêu trong Luận
văn này là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào khác. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về luận văn này nếu có sự
tranh chấp.

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Bích Ngọc


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ADPL

: Áp dụng pháp luật

HĐND

: Hội đồng nhân dân




: Nghị định

NQ

: Nghị quyết

HN&GĐ

: Hôn nhân và gia đình

TAND

: Tòa án nhân dân

TTLT

: Thông tư liên tịch

TANDTC-

: Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm

VKSNDTC-BTP

sát nhân dân tối cao – Bộ tư pháp

UBND

: Uỷ ban nhân dân


VBQPPL

: Văn bản quy phạm pháp luật

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ....................................................... 4
4. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................... 4
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu......................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài...................................................................... 5
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ....................................................... 6
8. Bố cục của luận văn....................................................................................... 6
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH HẠN
CHẾ QUYỀN YÊU CẦU LY HÔN ................................................................... 7
1.1 Khái niệm áp dụng pháp luật về ly hôn ........................................................ 7
1.1.1 Khái niệm áp dụng pháp luật ................................................................. 7
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật về ly hôn................................................. 7
1.2. Khái niệm ly hôn ........................................................................................ 9
1.3. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn............................................................... 10
1.4. Hạn chế quyền yêu cầu ly hôn .................................................................. 12
1.4.1. Khái niệm hạn chế quyền yêu cầu ly hôn ........................................... 12
1.4.2. Cơ sở pháp lý của quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn ................. 13
1.4.3. Cơ sở thực tiễn của quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn ............... 18

1.4.4. Chủ thể bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn ............................................ 22
1.4.5. Ý nghĩa của quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn ........................... 25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................. 27
Chương 2. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HẠN
CHẾ QUYỀN YÊU CẦU LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN
LA...................................................................................................................... 28


2.1. Thực trạng các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về hạn
chế quyền yêu cầu ly hôn ................................................................................ 28
2.1.1. Các văn bản quy phạm pháp luật quy định về hạn chế quyền
yêu cầu ly hôn ở Việt Nam hiện nay ............................................................. 28
2.1.2. Nội dung quy định pháp luật hiện hành về hạn chế quyền yêu
cầu ly hôn..................................................................................................... 37
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về hạn chế quyền yêu cầu ly
hôn tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La ............................................................... 37
2.2.1. Những kết quả đã đạt được trong việc áp dụng pháp luật giải
quyết các trường hợp ly hôn tại tỉnh Sơn La ................................................. 41
2.2.2. Một số vướng mắc, bất cập ................................................................. 47
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................. 57
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HẠN CHẾ QUYỀN YÊU CẦU LY HÔN ..... 58
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện quy định của pháp luật ................................. 58
3.2. Các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về quy định hạn chế
quyền yêu cầu ly hôn ...................................................................................... 62
3.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về hạn chế quyền yêu
cầu ly hôn ....................................................................................................... 64
3.3.1.Trường hợp vợ đang mang thai con người khác ................................ 64
3.3.2.Trường hợp người vợ sinh con, nuôi con dưới 12 tháng tuổi

nhưng không may đứa bé bị chết .................................................................... 65
3.3.3. Trường hợp người vợ sinh con dưới 12 tháng tuổi nhưng
không nuôi con.. ............................................................................................. 67
3.3.4 Trường hợp vợ chồng nhận nuôi con nuôi dưới 12 tháng tuổi ........... 68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................. 70
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 70


1

LỜI MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài
Nếu như kết hôn là sự xác lập quan hệ vợ chồng của người nam và người
nữ theo quy định của pháp luật thì ly hôn là sự chấm dứt mối quan hệ đó. Gia
đình vốn là “tế bào của xã hội”, quan hệ hôn nhân không phải là vấn đề cá
nhân mà còn là vấn đề xã hội. Khi mà tỷ lệ ly hôn quá cao và ngày càng tăng
thì ly hôn không còn là chuyện của hai người mà trở thành hiện tượng xã hội.
Pháp luật Việt Nam không đặt ra điều kiện ngăn cấm quyền yêu cầu ly
hôn của vợ chồng. Nhưng xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ bà mẹ, trẻ em, bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của người vợ và con chưa thành niên, phụ nữ
có thai, thai nhi cũng là bảo vệ lợi ích của xã hội Luật HN&GĐ năm 2014
quy định về vấn đề hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng. Quy định
này được hình thành trên cơ sở pháp lý nhất định và có ý nghĩa trong đời sống
hôn nhân gia đình ngày nay.
Tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La trong những năm qua cũng đã áp dụng
Luật HN&GĐ giải quyết nhiều vụ việc ly hôn. Nhìn chung các vụ việc được
Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La giải quyết theo quy định của pháp luật đạt hiệu
quả cao vừa đảm bảo quyền lợi của các đương sự, nhất là quyền lợi của người
vợ và các con. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn một số vụ việc được giải quyết

chưa được trọn vẹn. Nguyên nhân thì có rất nhiều, trong đó có nguyên nhân
xuất phát từ các quy định của Luật HN&GĐ về quyền yêu cầu ly hôn nói
chung và hạn chế quyền yêu cầu ly hôn nói riêng chưa được cụ thể, các văn
bản hướng dẫn thi hành Luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa
đầy đủ dẫn đến cách hiểu khi áp dụng Luật tại Tòa án chưa có sự nhất quán.
Điển hình như trường hợp người vợ mang thai con của người khác
nhưng chồng bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn không phải là điều mới mẻ tuy
nhiên những hậu quả phát sinh từ việc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của
người chồng chưa được pháp luật điều chỉnh toàn diện. Đã có không ít những


2

chuyên gia, giảng viên chuyên nghiên cứu các quy định về Luật HN&GĐ đã
từng đề xuất việc bỏ quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng
trong trường hợp vợ mang thai con của người khác nhưng vẫn còn những mối
e ngại, chưa chủ động để nhìn thẳng sự vận động thực tế của xã hội, và còn
chưa đánh giá đúng tác động của quy định pháp luật để ghi nhận nội dung này
một cách chính thức.
Hay là việc quy định“mang thai hộ”,việc nhận nuôi con nuôi sơ sinh
(nhận nuôi con nuôi dưới 12 tháng tuổi). Đối với các trường hợp này việc có
hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng trong cặp vợ chồng nhờ mang
thai hộ hay không? Hay có hạn chế quyền ly hôn của người chồng trong cặp
vợ chồng người đồng ý mang thai hộ hay không? Liệu người chồng trong cặp
vợ chồng nhận nuôi con nuôi dưới 12 tháng tuổi có bị hạn chế quyền yêu cầu
ly hôn hay không? Để trả lời các câu hỏi này cũng như tạo cơ sở pháp lý chặt
chẽ cho việc áp dụng pháp luật vào công tác xét xử của tòa án đồng thời đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà mẹ và trẻ em thì việc hoàn thiện quy
định pháp luật về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn là hết sức cần thiết.
Những bất cập, hạn chế đó không những làm ảnh hưởng đến sự ổn định

của các quan hệ HN&GĐ; đến việc thực hiện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân về HN&GĐ mà còn làm hạn chế hiệu quả của công tác thi hành
pháp luật trong lĩnh vực HN&GĐ.
Tình hình đó đòi hỏi việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng điều kiện hạn chế
quyền yêu cầu ly hôn nói chung và tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La nói riêng
là rất cần thiết và có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc. Vì vậy, tác giả đã
lựa chọn đề tài: “Thực tiễn áp dụng quy định hạn chế quyền yêu cầu ly
hôn tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La” làm đề tài nghiên cứu của mình.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam việc nghiên cứu pháp luật về ly
hôn đã được nhiều tác giả quan tâm và đã có một số công trình khoa học được
công bố.
Nghiên cứu về quy định quyền yêu cầu ly hôn có một số công trình
nghiên cứu khoa học như sau:
Lê Thị Huyền Trang (2017), Quyền yêu cầu ly hôn theo Luật HN&GĐ
năm 2014, luận văn thạc sĩ,trường Đại học Luật Hà Nội.
Bên cạnh đó còn có một số các công trình nghiên cứu khoa học của các
chuyên gia được đăng trên các tạp chí trong nước như:
Nguyễn Lan, Quyền yêu cầu, căn cứ và hậu quả pháp lý của ly hôn, Số
chuyên đề sửa đổi, bổ sung luật HN&GĐ năm 2000, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, Hà Nội, năm 2013; Ngô Thị Hường, Quyền yêu cầu ly hôn theo Luật
HN&GĐ năm 2014, Tạp chí Luật học số 12/2015, Hoàng Thị Hải Yến Trường Đại học Luật- Đại học Huế, Một số ý kiến về hạn chế quyền yêu cầu
ly hôn của người chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014, đăng trên tạp chí Dân
chủ và pháp luật số định kỳ tháng 9 (292) năm 2016.
Các phạm vi nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến các nội dung về ly hôn,
căn cứ ly hôn, quyền yêu cầu ly hôn nói chung và nghiên cứu trên phạm vi

rộng, đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề ly hôn. Cho đến nay vẫn chưa có
công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về hạn chế quyền yêu cầu ly
hôn một cách hệ thống, toàn diện, đầy đủ tại một khoảng thời gian và địa
điểm cụ thể. Để thấy được những thuận lợi, khó khăn khi áp dụng các căn cứ
pháp luật này trên thực tế, giải quyết cụ thể các trường hợp hạn chế quyền yêu
cầu ly hôn của người chồng khi có yêu cầu xin ly hôn, để từ đó đưa ra được
những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng luật trong thực
tiễn đời sống và công tác xét xử. Vì vậy,với mong muốn nghiên cứu một cách
tổng quát quy định của pháp luật hiện nay về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn,


4

luận văn hy vọng sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người
làm công tác nghiên cứu và giảng dạy pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn nhằm đánh giá các quy định của pháp luật hiện
hành về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn, chỉ ra những vướng mắc, khó khăn,
bất cập trong việc áp dụng pháp luật. Từ đó, tác giả đưa ra phương hướng và
các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Luận văn làm rõ các quy định của pháp luật về hạn chế quyền yêu cầu
ly hôn và các trường hợp hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng.
- Luận văn nghiên cứu việc áp dụng pháp luật khi hạn chế quyền yêu
cầu ly hôn qua công tác xét xử của tòa án.
- Qua đó, Luận văn chỉ ra những vướng mắc, bất cập cũng như các khó
khăn khi áp dụng quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn để đưa ra những giải
pháp và đề xuất các kiến nghị để nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về vấn
đề này.

4. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hiện
hành về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa
án nhân dân tỉnh Sơn La.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu với phạm vi như sau:
- Các quy định của pháp luật về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn: Nghiên
cứu trong mối quan hệ giữa Luật HN&GĐ với Bộ luật dân sự năm 2015;
Luật nuôi con nuôi năm 2010, các văn bản pháp luật quy định về mang thai
hộ như Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01 năm 2015 Quy định


5

về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Thực tiễn áp dụng quy định về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn: Nghiên
cứu chủ yếu về những bất cập, hạn chế của pháp luật thông qua việc tìm hiểu
thực trạng trong những năm trở lại đây (từ năm 2015 đến cuối tháng 7/2018).
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở nghiên cứu của luận văn là phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác – Lênin và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước điều chỉnh
quan hệ HN&GĐ với các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp lịch sử: Sử dụng khi nghiên cứu các quy định của pháp
luật về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn người chồng có trước khi Luật HN&GĐ
năm 2014 ban hành.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích về trường
hợp hạn chế quyền yêu cầu ly hôn; khái quát được những nội dung cơ bản của
từng vấn đề trong luận văn.
- Phương pháp so sánh được thực hiện khi đối chiếu các quy định của

pháp luật về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng theo Luật
HN&GĐ năm 2014 so với các quy định của pháp luật trước đây.
- Phương pháp phân tích – dự báo khoa học được thực hiện khi đưa ra
các nội dung mà Luật HN&GĐ năm 2014 còn chưa dự liệu.
- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực
tiễn hoạt động xét xử của ngành Tòa án, từ các số liệu cụ thể giải quyết các
trường hợp hạn chế quyền yêu cầu ly hôn. Tìm ra mối liên hệ giữa các quy
định của pháp luật với thực tiễn áp dụng đã phù hợp hay chưa? Từ đó mà xem
xét nội dung qui định của pháp luật về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của
người chồng, với thực tiễn của đời sống xã hội nhằm nâng cao hiệu quả điều
chỉnh của pháp luật về vấn đề này.


6

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về hạn chế quyền yêu
cầu ly hôn hiện nay. Luận văn là công trình nghiên cứu một cách tổng thể,
đánh giá khái quát nhất cả về các phương diện lý luận, pháp luật và thực tiễn
kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực thi hành. Đồng thời chỉ rõ
những kết quả đạt được cũng như những vướng mắc, bất cập trong quá trình
xây dựng và thực hiện quy định về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn. Từ đó, đưa
ra phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng quy định của pháp luật về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn.
Luận văn hy vọng sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với những
người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy pháp luật.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục chữ viết tắt, Phụ lục, Danh
mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 03 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về áp dụng quy định hạn chế quyền yêu

cầu ly hôn.
Chương 2. Thực trạng các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam và
thực tiễn áp dụng pháp luật về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn tại Tòa án nhân
dân tỉnh Sơn La.
Chương 3. Phương hướng và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp
luật về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn.


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH HẠN CHẾ
QUYỀN YÊU CẦU LY HÔN
1.1 Khái niệm áp dụng pháp luật về ly hôn
1.1.1 Khái niệm áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật (ADPL) là một trong những hình thức thực hiện pháp
luật có những đặc điểm riêng và bao giờ cũng có sự tham gia của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Hoạt động ADPL bảo đảm cho pháp luật được tôn
trọng, thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của chủ thể được thực
hiện và được bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật được xử lý
nghiêm minh, kịp thời để bảo vệ các quan hệ xã hội đã và đang được thiết lập.
ADPL là hoạt động diễn ra hằng ngày trong các cơ quan nhà nước và chỉ do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, Trong hoạt động tư pháp, ADPL
thường được Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân…
tiến hành theo một thủ tục tố tụng nhất định để thu thập chứng cứ, xác minh,
điều tra làm rõ các tình tiết của vụ án nhằm xác định sự thật khách quan; truy
cứu trách nhiệm pháp lý; xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ
pháp luật.
Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật
Hà Nội thì: ADPL được hiểu là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà

nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ
chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc
tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm
phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
Theo cuốn tài liệu Học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về
Nhà nước và pháp luật (tập 1) của Viện nhà nước và pháp luật thuộc Học viện
Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh thì: ADPL là một hình thức thực
hiện pháp luật diễn ra trong hoạt động thực hiện quyền hành pháp và thực


8

hiện quyền tư pháp của Nhà nước. Đây là hoạt động thực hiện pháp luật của
cơ quan nhà nước được xem như là đảm bảo đặc thù của Nhà nước sao cho
các quy phạm pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong đời sống xã hội.
Theo cuốn đề tài nghiên cứu cấp trường, trường Đại học Luật Hà Nội về
Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay của chủ nhiệm đề tài T.S Nguyễn Thị
Hồi cho rằng: ADPL là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước, do các
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến
hành nhắm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật hiện hành vào những trường
hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể1.
Như vậy, thực tế có nhiều quan điểm, cách tiếp cận và biểu đạt khác
nhau về áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, đa số các tác giả đều thống nhất coi
ADPL là một trong các hình thức thực hiện pháp luật và đó là hình thức thực
hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà nước với những đặc trưng cơ bản, đặc
thù làm cho áp dụng pháp luật khác với các hình thức thực hiện pháp luật
khác. Tóm lại, ADPL là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực
hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức xã hội được nhà nước
ủy quyền, thông qua trình tự thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định nhằm cá
biệt hóa những quy phạm pháp luật vào trường hợp cụ thể đối với cá nhân, tổ

chức cụ thể.
1.1.2.Khái niệm áp dụng pháp luật về ly hôn
ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông
qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các
chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ
vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay
đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể. Các quy phạm pháp
luật rất phong phú, đa dạng nên thực hiện pháp luật cũng rất đa dạng và
phong phú.


9

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và
chồng được xác lập sau khi kết hôn1”. Do đó, nếu như nam nữ có đủ các điều
kiện kết hôn được quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014 và
không vi phạm các điều cấm tại điểm a, b, c và d tại khoản 2 Điều 5 Luật này
mà có thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
được cấp giấy chứng nhận kết hôn là họ trở thành vợ chồng. Đây là hình thức
ADPL của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cụ thể là công chức tư pháp xã
thực hiện việc đăng ký kết hôn cho nam và nữ. Theo quy định của pháp luật
khi nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau thì sẽ làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ giữa vợ và chồng kể từ thời điểm kết hôn. Đồng thời tại Điều 88
Luật HN&GĐ năm 2014 cũng quy định “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân
hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng”.
Vì vậy, có rất nhiều trường hợp sau một thời gian chung sống không lâu khi
các vợ chồng có mâu thuẫn xảy ra, nếu người chồng có đơn yêu cầu ly hôn
trong khi vợ đang có thai hoặc mới sinh con hoặc có thể đang nuôi con nhỏ
dưới 12 tháng thì vấn đề ADPL để giải quyết yêu cầu ly hôn là một vấn đề
quan trọng để giải quyết các vụ án HN&GĐ.

Từ các quan điểm và khái niệm mà các học giả đưa ra ở trên, ta có thể
hiểu ADPL về ly hôn là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước được thực
hiện bởi Tòa án nhân dân (TAND) theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật
quy định nhằm đưa ra những quyết định cá biệt hoặc bản án về yêu cầu giải
quyết ly hôn.
1.2 Khái niệm ly hôn
Nếu như kết hôn là khởi đầu để xác lập nên quan hệ vợ chồng thì ly hôn
có thể coi là điểm cuối của hôn nhân khi quan hệ này thực sự tan rã. Khi đời
sống hôn nhân không thể duy trì được nữa thì ly hôn là một giải pháp cần
thiết cho cả đôi bên vợ chồng cũng như cho xã hội. Đây có thể coi là biện
1

Xem khoản 1 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014


10

pháp cuối cùng để chấm dứt tình trạng hôn nhân không thể cứu vãn được.
Theo quy định tại Điều 3 của Luật HN&GĐ 2014:
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tòa án.2 Như vậy, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ
chồng, là việc “khai tử” cho một gia đình – một tế bào của xã hội. Do đó, ly
hôn không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi, hạnh phúc của vợ chồng
cũng như thành viên trong gia đình, mà nó còn ảnh hưởng đến lợi ích của toàn
xã hội. Tuy nhiên trong những năm gần đây có một thực tế đáng buồn và đáng
báo động là việc ly hôn có xu hướng gia tăng đáng kể. Những nguyên nhân, lý
do cũng hết sức đa dạng, phức tạp. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến
lợi ích chung của toàn xã hội. Tuy nhiên nếu hôn nhân rơi vào tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được
khi thì trong trường hợp này, ly hôn là một việc cần thiết cho cả vợ và cả

chồng, các con cũng như các thành viên khác trong gia đình thoát khỏi cảnh
xung đột, mâu thuẫn bế tắc trong cuộc sống chung.
1.3 Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
Quyền ly hôn là một quyền Hiến định được quy định trong Hiến pháp3
và văn bản pháp lý bảo vệ quyền dân sự của cá nhân được quy định tại Điều
39 Bộ luật dân sự năm 2015 và được cụ thể hóa chi tiết trong Luật HN&GĐ
và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, trong quan hệ HN&GĐ, quyền
nhân thân luôn gắn với mỗi cá nhân mà không thể chuyển giao cho người
khác. Do vậy, về nguyên tắc, quyền yêu cầu ly hôn chỉ thuộc về vợ, chồng.
Lịch sử lập pháp của Việt Nam chỉ ghi nhận quyền yêu cầu ly hôn của vợ,
chồng. Pháp luật thời kì pháp thuộc quy định chỉ có vợ, chồng mới có thể
người nọ xin li dị người kia hoặc vợ chồng cùng xin li dị nhau. Từ khi nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời ( nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội
2

Xem khoản 14 Điều 13 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

3

Xem Điều 36 Hiến pháp năm 2013


11

chủ nghĩa Việt Nam) cho đến trước khi ban hành Luật HN&GĐ năm 2014, cả
ba luật về HN&GĐ (ban hành năm 1959, năm 1986 và năm 2000) đều chỉ quy
định quyền yêu cầu ly hôn thuộc về vợ, chồng4.
Tuy nhiên, nếu chỉ công nhận cho vợ, chồng có quyền yêu cầu ly hôn thì
sẽ không giải quyết được những trường hợp đặc biệt khi một bên vợ hoặc
chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ

được hành vi của mình lại bị ngược đãi, hành hạ... Thực tế đã có không ít
trường hợp một bên vợ hoặc chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, bên kia không những
không quan tâm, chăm sóc theo đúng nghĩa vụ mà còn hành hạ, ngược đãi
hoặc có các hành vi khác đe dọa đến tính mạng, sức khỏe của họ... Đối với
trường hợp này, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bên vợ hoặc chồng bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:
Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn
khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo
lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai,
sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Như vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì từ ngày 01/01/2015, cha, mẹ,
người thân thích khác cũng có thể yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ,
4

Xem: Điều 25 và Điều 26 Luật HN&GĐ năm 1959; Điều 40 Luật HN&GĐ năm 1986; khoản 1 Điều 85
Luật HN&GĐ năm 2000.


12

chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm
chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do

chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh
thần của họ. Quy định này đã tháo gỡ cho nhiều trường hợp bức xúc muốn xin
ly hôn giùm người thân bị mất năng lực hành vi mà không được do luật cũ chỉ
quy định việc ly hôn phải do chính đương sự (vợ, chồng) yêu cầu, trong khi
họ lại bị mất năng lực hành vi dân sự dẫn đến không có năng lực hành vi tố
tụng dân sự để xin ly hôn5.
1.4 Hạn chế quyền yêu cầu ly hôn
1.4.1 Khái niệm hạn chế quyền yêu cầu ly hôn
Theo quy định tại Từ điển luật học, Bộ tư pháp, Viện khoa học pháp lý,
NXB.Tư pháp, trang 648 thì quyền là khái niệm khoa học pháp lý dung để chỉ
những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ
chức để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai
được ngăn cản, hạn chế.
Theo quy định tại Từ điển Tiếng Việt thì “hạn chế” được hiểu là “giữ
lại, ngăn lại trong một giới hạn nhất định, không thể hoặc không để cho
vượt qua”6.
Như vậy, có thể hiểu hạn chế quyền yêu cầu ly hôn là giới hạn của pháp
luật mà khi có những điều kiện được quy định trong Luật thì người chồng
không được quyền yêu cầu ly hôn.
Các điều kiện được quy định trong luật là các điều kiện được quy định
tại khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014, theo đó pháp luật hạn chế
quyền yêu cầu ly hôn đối với người chồng khi vợ đang có thai, sinh con hoặc
đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn.
5

Xem: Ngô Thị Hường, Quyền yêu cầu ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014, Tạp chí Luật học số 12/2015,
trang 44.
6

Xem Từ điển Tiếng Việt, Ngọc Lương (chủ biên),nxb Mỹ Thuật, Hà Nội, trang 262



13

Cần lưu ý rằng, khi vợ, chồng không thể bộc lộ ý chí do bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhân thức, làm chủ được hành vi của mình
mà dẫn tới việc được xác định mà mất hành vi năng lực dân sự thì người vợ,
chồng đó cũng không thể thực hiện quyền yêu cầu ly hôn. Trường hợp này
không được coi là hạn chế quyền yêu cầu ly hôn vì đây là trường hợp mà bản
thân người mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng tự thực hiện
quyền của mình.
1.4.2 Cơ sở pháp lý của quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn
1.4.2.1 Quan điểm hạn chế ly hôn dưới chế độ cũ
Vấn đề hạn chế ly hôn đã được đề cập rất sớm. Song song với những quy
định về căn cứ cho ly hôn, một số Bộ luật cũng đưa ra điều kiện ly hôn. Theo
đó trong một số trường hợp nhất định vợ, chồng không được phép ly hôn.
Chẳng hạn, trong pháp luật phong kiến Việt, Bộ luật Gia Long đưa ra điều
kiện đầu tiên đó là trường hợp “Tam bất khứ” bao gồm nếu trước khi cưới
nhau hai người đều nghèo sau khi chung sống trở lên giàu có hoặc người vợ
sau khi ly hôn không có nơi nương tựa, hoặc người vợ đã để tang chồng trong
ba năm. Trong các trường hợp vừa nêu trên mặc dù có căn cứ ly hôn ( ví dụ
người vợ phạm vào điều thất xuất nhưng chồng vẫn không được phép bỏ vợ).
Điều kiện hạn chế ly hôn trong các bộ luật của chế độ cũ được chia thành
hai loại: điều kiện hạn chế ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn và điều
kiện hạn chế ly hôn trong một bên có yêu cầu.
Nếu hai vợ chồng thuận tình ly hôn mà có một trong các điều kiện sau
đây thì vợ chồng không được phép ly hôn (được quy định trong dân luật
giản yếu):
- Vợ chồng kết hôn chưa đầy hai năm hoặc quá hai mươi năm
- Chồng dưới 25 tuổi

- Vợ dưới 21 tuổi hoặc quá 45 tuổi


14

Như vậy các điều kiện hạn chế ly hôn ở đây cho thấy quan điểm của các
nhà làm luật thời ấy là tránh cho các vụ ly hôn ở những gia đình vợ chồng còn
quá trẻ mà quy định nóng vội, bồng bột, ngược lại càng tránh cho sự ly hôn
của các cặp vợ chồng lấy nhau đã lâu, gia đình đã ổn định người phụ nữ đã
lớn tuổi sẽ khó có nơi nương tựa. Trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ, Bộ Dân luật
Trung Kỳ và Dân luật 1972 nếu thuận tình ly hôn thì chỉ có điều kiện hạn chế
ly hôn duy nhất đó là : vợ chồng được thuận tình ly hôn nếu đã kết hôn được
hai năm và không quá hai mươi năm. Cụ thể như sau:
- Bộ luật giản yếu 1883 áp dụng ở Nam kỳ quy định “ vợ chồng không
được thuận tình ly hôn nếu: quan hệ vợ chồng xác lập chưa được hai năm
hoặc đã quá hai mươi năm; người chồng dưới 25 tuổi; người vợ dưới 21 tuổi
hoặc đã quá 45 tuổi. Ngoài ra những thân thuộc có quyền ưng thuận giá thú
cũng cần phải ưng thuận sự ly hôn này mới được”.
- Điều 121 Bộ dân luật Bắc kỳ năm 1931 và Điều 120 – Bộ dân luật
Trung kỳ năm 1936 quy định: “ Sau hai năm giá thú thì vợ chồng mới có thể
xin thuận tình ly hôn”.
- Điều 170 Bộ Dân luật năm 1972 dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn cũng
quy định: “vợ chồng có thể xin thuận tình ly hôn nếu hôn thú được lập trên
hai năm và không quá hai mươi năm”. Đặc biệt điều 55 Luật gia đình dưới
chế độ ngụy quyền Ngô Đình Diệm năm 1959: “Cấm vợ chồng không được ly
hôn; trường hợp đặc biệt về ly hôn do tổng thống quyết định”.
Nếu ly hôn theo một bên do một bên yêu cầu, tại các Bộ dân luật Bắc kỳ,
Bộ Dân luật Trung kỳ và Bộ Dân Luật giản yếu có một điều kiện chung cho
hạn chế ly hôn là: Nếu hai vợ chồng đang kiện ly hôn mà tái hòa giải với
nhau thì sau này không thể kiện ly hôn được nữa, ngoài ra Bộ dân luật giản

yếu 1972 còn có thêm một số quy định thêm như sau: “Khi đã có một bản án
bác đơn xin ly hôn thì không được sử dụng những căn cứ trong đơn ly hôn đã


15

bị bác bỏ để tiếp tục xin ly hôn. Nếu có thêm căn cứ ly hôn thì vẫn được phép
xin ly hôn như các trường hợp khác”.
Ví dụ: Chị A kiện ly dị với anh B vì lý do anh B ngược đãi với chị. Tòa
án đã xử bác đơn yêu cầu ly hôn của chị A thì chị A không được viện lí do
trên để xin ly hôn anh B nữa. Nếu sau đó anh B lại ngoại tình thì chị A có thể
kiện ly dị anh B với căn cứ anh B ngoại tình chứ không phải vì lý do bị anh B
ngược đãi.
Khi một trong hai bên vợ hoặc chồng chết, trường hợp này đương nhiên
hôn nhân chấm dứt, hơn thế nữa theo các nhà làm luật (Bộ Dân luật ngày 20
tháng 12 năm 1972 của Ngụy quyền Sài Gòn) thì để cho người đã chết được
yên nghỉ nên không cho phép việc kiện tiếp tục ly hôn.
Việc quy định các điều kiện hạn chế ly hôn như trên hoàn toàn phụ thuộc
vào quan điểm của các nhà làm luật thời đó là phụ thuộc vào căn cứ ly hôn
dựa chủ yếu vào yếu tố lỗi, nên khi người vợ có công thì có thể chuộc được
lỗi và lỗi đó không được coi là căn cứ để xin ly hôn được nữa. Vì quy định
nhiều căn cứ ly hôn dựa trên những lỗi khác nhau nên vợ hoặc chồng không
được sử dụng lỗi của bên kia đã làm căn cứ ly hôn trong một đơn đã bị bác để
yêu cầu xin ly hôn lần tiếp theo nhưng vẫn được sử dụng căn cứ khác (lỗi
khác) để xin ly hôn.
Qua các nội dung trên cho thấy, các điều kiện hạn chế ly hôn trong các
chế độ cũ chủ yếu dựa vào căn cứ như thời gian kết hôn, độ tuổi vợ chồng,
nếu không đủ các điều kiện đó thì người chồng không được ly hôn. Các quy
định này đã góp phần bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ
nữ - nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội.

1.4.2.2 Hạn chế quyền yêu cầu ly hôn theo quy định của Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1959,1986, 2000, 2014
Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do tòa án công nhận hoặc quyết
định theo yêu cầu của vợ chồng hay cả hai vợ chồng. Luật HN&GĐ dựa trên


16

nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ nên ghi nhận quyền tự do ly hôn cho
cả hai phía vợ chồng. Theo đó, vợ chồng bình đẳng trong việc yêu cầu Tòa án
chấm dứt quan hệ hôn nhân. Tại Điều 25 Luật HN&GĐ năm 1959 quy định: “
Khi hai bên vợ chồng xin thuận tình ly hôn, thì sau khi điều tra, nếu xét đúng
là hai bên tự nguyện xin ly hôn, Tòa án nhân dân sẽ công nhận việc thuận
tình ly hôn”.
Quyền ly hôn là quyền nhân thân của vợ chồng, chỉ có vợ, chồng hoặc cả
hai vợ chồng quyết định mà không ai có quyền ép buộc, cưỡng ép hoặc cản
trở. Vợ chồng có quyền bình đẳng như nhau trong việc yêu cầu ly hôn. Tuy
nhiên xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, nên pháp luật đã hạn
chế quyền yêu cầu ly hôn đối với người chồng, cụ thể tại Điều 27 Luật
HN&GĐ năm 1959 quy định: “Trong trường hợp người vợ có thai, chồng chỉ
có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh đẻ được một năm. Điều hạn chế này
không áp dụng đối với việc xin ly hôn của người vợ”. Tương tự tại Điều 41
Luật HN&GĐ năm 1986 đã quy định: “ Trong trường hợp người vợ có thai,
chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con được một năm”.
Qua những quy định trên có thể thấy Luật HN&GĐ năm 1959, Luật
HN&GĐ năm 1986 quy định là tương tự như nhau. Theo đó, quyền yêu cầu
ly hôn của người chồng bị hạn chế dựa vào hai yếu tố: 1) Người vợ đang có
thai và 2) Người vợ sinh con chưa được một năm. Trong đó yếu tố thứ hai chỉ
dựa trên sự kiện sinh của người vợ. Nếu người vợ “có sinh mà không có
dưỡng” thì người chồng vẫn bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn.

Luật HN&GĐ năm 2000 có một số điểm khác biệt nhất định: “ Trong
trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới mười hai tháng tuổi thì
chồng không có quyền yêu cầu ly hôn”7.
Quy định về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 được hướng dẫn chi tiết tại Điều 6 Nghị quyết số
7

Khoản 2 Điều 85 Luật HN&GĐ năm 2000


17

02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 theo đó khi người vợ đang thuộc một trong các trường hợp
“vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi (không phân biệt
người vợ có thai với ai hoặc bố của đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi là ai), mà
người chồng có yêu cầu xin ly hôn, thì giải quyết như sau:
+ Trong trường hợp chưa thụ lý vụ án thì Toà án áp dụng điểm 1 Điều
36 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trả lại đơn kiện cho người
nộp đơn.
+ Trong trường hợp đã thụ lý vụ án thì Toà án cần giải thích cho người
nộp đơn biết là họ chưa có quyền yêu cầu xin ly hôn. Nếu người nộp đơn rút
đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án áp dụng điểm 2 Điều 46 Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu
người nộp đơn không rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án tiến hành giải
quyết vụ án theo thủ tục chung và quyết định bác yêu cầu xin ly hôn của họ.
Như vậy, theo Luật HN&GĐ năm 2000 thì hạn chế quyền yêu cầu ly hôn
của người chồng căn cứ vào hai yếu tố: 1) Người vợ đang có thai và 2) Người
vợ đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi. Phân tích yếu tố thứ hai có thể

nhận thấy nhà làm luật dường như không chú ý đến sự kiện sinh mà chỉ quan
tâm đến việc người vợ đang nuôi con. Như vậy đối với trường hợp “có sinh
mà không có dưỡng” thì người chồng vẫn có quyền yêu cầu ly hôn. Điều này
chưa thực sự phù hợp với nguyên tắc bảo vệ bà mẹ, trẻ em.
Tóm lại, ở cả ba văn bản pháp luật này để có điểm chung là khi người vợ
đang mang thai thì người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn. Nhưng khác
nhau ở chỗ, theo Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986 thì bắt
buộc người vợ phải có sự kiện sinh đẻ, sau khi sinh đẻ được một năm thì
người chồng mới có quyền yêu cầu ly hôn, bất kể người con sinh ra còn sống
hay đã chết. Trong khi đó Luật HN&GĐ năm 2000 lại bắt buộc phải có hành


18

vi “ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”, tức là có thể không tồn tại việc sinh
đẻ của người vợ, miễn là người vợ đang có hành vi nuôi con dưới 12 tháng
tuổi (có thể là con nuôi) thì người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn.
Nhưng trong trường hợp người vợ sinh con, không may đứa trẻ bị chết thì
người vợ lại đang không nuôi con, vì vậy, người chồng không bị hạn chế
quyền yêu cầu ly hôn. Việc pháp luật quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn
của người chồng là xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, tạo điều
kiện cho người phụ nữ thực hiện tốt thiên chức của mình. Bởi vì trong thời kì
người vợ đang mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ, thường có sự thay đổi nhất
định về tâm lý theo chiều hướng tiêu cực, mặt khác, việc sinh con và nuôi con
nhỏ ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe của người vợ. Vì vậy, trong thời gian
này người vợ rất cần sự quan tâm chia sẻ của người chồng. Tuy nhiên theo
cách quy định tại Luật như vậy, nếu người vợ sinh con mà đứa trẻ bị chết,
người chồng được quyền yêu cầu ly hôn thì có thể coi đây là “ cú sốc kép” sẽ
ảnh hưởng nghiêm trọng đến người vợ cả về thể chất và tinh thần.8
Khắc phục khiếm khuyết đó, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định chồng

không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con
hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi9. Có thể nhận thấy, Luật HN&GĐ năm
2014 đã kế thừa quy định của cả ba luật trước đó về vấn đề hạn chế quyền yêu
cầu ly hôn của người chồng. Theo đó, việc xác định quyền yêu cầu ly hôn của
người chồng dựa vào trạng thái có thai, nuôi con và sự kiện sinh con của
người vợ.
1.4.3 Cơ sở thực tiễn của quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn
Theo số liệu thống kê phụ nữ chiếm 51% dân số của cả nước, về lực
lượng lao động, phụ nữ cũng chiếm gần 50% và tham gia lao động trong hầu
8

Xem 3. Ngô Thị Hường, Quyền yêu cầu ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Tạp chí Luật học
số 12/2015, trang 40-43
9

Trích tại khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014.


19

hết các lĩnh vực . Trong Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính
trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới,
đã xác định:“ Phụ nữ Việt Nam có truyền thống vẻ vang, có những tiềm năng
to lớn, là một động lực quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển, kinh
tế, xã hội. Phụ nữ vừa là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ,
người thầy đầu tiên của con người. Mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là
thiết thực cải thiện đời sống vật chất tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã
hội của phụ nữ, thực hiện tốt nam nữ bình đẳng…”. Nhiều văn kiện và văn
bản pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam cũng đã xác định và đề
cao quyền của phụ nữ, coi đó như là một trách nhiệm của văn minh nhân loại.

Một trong những quy định của Luật HN và GĐ đề cao và bảo vệ quyền
của người phụ nữ đó là quy định về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người
chồng trong trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con
dưới 12 tháng tuổi thì người chồng không được yêu cầu Tòa án giải quyết ly
hôn. Mục đích của quy định này là gắn trách nhiệm của người chồng trong
việc tạo điều kiện cho người vợ thực hiện chức năng làm mẹ. Liên hệ với thực
tiễn có thể thấy có những lý do cơ bản đặt ra yêu cầu cần thiết phải quy định
bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ khi ly hôn như sau:
Thứ nhất, xuất phát từ cơ sở sinh học xã hội, phụ nữ và trẻ em là hai đối
tượng cần thiết được bảo vệ trong xã hội. Phụ nữ phải thực hiện chức năng
làm mẹ - là một thiên chức vô cùng cao quý trong việc duy trì nòi giống của
gia đình và toàn nhân loại; trẻ em được sinh ra được hưởng đầy đủ các quyền
và lợi ích hợp pháp, vì vậy, nhà nước, xã hội và gia đình luôn phải có trách
nhiệm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ và trẻ em. Theo đó:
- Quyền được làm mẹ là một trong những quyền nhân thân đặc biệt trong
quan hệ HN&GĐ, gắn liền với thiên chức đặc trưng của từng giới. Người đàn
ông có chức năng truyền giống, người phụ nữ có chức năng thụ tinh, mang
thai và sinh con. Đó là toàn bộ quá trình sinh đẻ mà người mẹ phải thực hiện.


×