Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THỊ HẢI

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THỊ HẢI

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH LẠNG SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật kinh tế


Mã số
: 8 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hiền Phương

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hoàng Thị Hải


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP

6


1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp

6

1.2. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp

11

1.3. Sơ lược quá trình phát triển pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
Việt Nam

20

Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TẠI TỈNH LẠNG SƠN

2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về bảo hiểm thất nghiệp

25
25

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh
Lạng Sơn

45

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM

THẤT NGHIỆP TẠI TỈNH LẠNG SƠN

63

3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp

64

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp

65

3.3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm
thất nghiệp tại tỉnh Lạng Sơn

68

KẾT LUẬN

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHXH

: Bảo hiểm xã hội


BHTN

: Bảo hiểm thất nghiệp

NLĐ

: Người lao động

NSDLĐ

: Người sử dụng lao động


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm
phân theo thành phần kinh tế tại Lạng Sơn

2.2

46


Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền
kinh tế đã qua đào tạo phân theo giới tính và theo thành
thị, nông thôn tại Lạng Sơn

2.3

Tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi
theo giới tính và theo thành thị, nông thôn tại Lạng Sơn

2.4

47

Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi phân
theo giới tính và theo thành thị, nông thôn tại Lạng Sơn

2.5

47

48

Tỷ lệ thiếu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp trong tuổi lao
động cả nước

48

2.6


Tình hình tham gia BHTN giai đoạn 2013-2018

50

2.7

Tình hình thực hiện bảo hiểm y tế cho người hưởng BHTN

53


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Tên biểu đồ

Số hiệu

Trang

biểu đồ
2.1

Số lượng người nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất
nghiệp và số người có quyết định hưởng trợ cấp thất
nghiệp giai đoạn 2013-2017

2.2

51


Số lượng người được tư vấn, giới thiệu việc làm giai đoạn
2013-2017

52

2.3

Số thu BHTN giai đoạn 2013-2017

54

2.4

Số chi trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề giai đoạn
2013-2017

54


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thất nghiệp là một hiện tượng luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường
và là hiện tượng kinh tế - xã hội nan giải, có ảnh hưởng và tác động đến nhiều
mặt của đời sống kinh tế - xã hội của quốc gia. Trong rất nhiều các chính sách
và biện pháp để khắc phục tình trạng thất nghiệp thì bảo hiểm thất nghiệp có
vị trí quan trọng. Đến nay, trên thế giới đã có khoảng 80 nước triển khai thực
hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, độ bao phủ bảo hiểm thất nghiệp ở khu
vực Châu Á là 7% và trên thế giới là 12% so với lực lượng lao động. Càng

ngày bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) càng thể hiện vai trò tích cực, là chính
sách an sinh xã hội quan trọng, không chỉ giải quyết vấn đề thất nghiệp trong
xã hội mà còn giúp ổn định xã hội một cách hiệu quả.
Việt Nam là quốc gia có lực lượng lao động đông đảo, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo quy luật chung, không thể tránh
được hiện tượng thất nghiệp và những tác động của nó đối với đời sống kinh
tế xã hội là vấn đề đặt ra đòi hỏi Đảng và Nhà nước luôn phải quan tâm, giải
quyết. BHTN ở nước ta được chính thực thực hiện từ ngày 01/01/2009, khi
Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2008 có hiệu lực và cho đến nay chính
sách BHTN đã ngày càng hoàn thiện hơn, đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, những tác động tích cực của
các quy định pháp luật về BHTN trên thực tế, vẫn còn những bất cập, trở ngại
nhất định trong thực hiện cần phải được nghiên cứu, hoàn thiện.
Là một tỉnh ở miền núi phía Bắc nước ta, Lạng Sơn tuy có nhiều khó
khăn nhưng với lợi thế về khu kinh tế cửa khẩu, hệ thống giao thông thuận
lợi, áp dụng nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy thương mại - dịch vụ phát triển
nên nền kinh tế đã có những thay đổi mạnh mẽ, mức sống của nhân dân được
nâng lên. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các hoạt động sản xuất, kinh
doanh thương mại, sự đa dạng của lao động trên địa bàn tỉnh, tình trạng thất


2
nghiệp giải quyết việc làm cho lao động cũng ngày càng gay gắt hơn. Pháp
luật về BHTN khi đi vào thực tiễn thực hiện ở địa bàn tỉnh đã cho thấy những
kết quả tích cực, giúp ổn định tình hình việc làm và đời sống người dân hơn
nhưng còn những khó khăn, bất cập. Chính vì vậy tác giả lựa chọn đề tài
"Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Theo tìm hiểu của tác giả, cho đến nay đã có các công trình nghiên

cứu về BHTN ở nước ta có thể kể đến:
* Các đề tài khoa học:
- "Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường" (2000), TS Nguyễn Văn Định và các cộng sự của bộ môn Kinh tế
Bảo hiểm - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
- "Nghiên cứu xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo Luật Lao
động sửa đổi, bổ sung" (2002), Vụ Bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội;
- "Nghiên cứu những nội dung cơ bản của bảo hiểm thất nghiệp hiện đạivấn đề lựa chọn hình thức trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam" (2004), TS. Nguyễn
Huy Ban và các cộng sự ở BHXH Việt Nam;
- "Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam" (2008), PGS.TS. Nguyễn
Văn Định, Trường Đại học Kinh tế quốc dân;
- "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật việc làm" (2009), Cục
Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
* Các luận án tiến sĩ:
- "Chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam" (2004), Lê Thị Hoài Thu, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- "Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật an sinh xã hội ở Việt Nam" (2009), Nguyễn Hiền Phương, Đại học Luật
Hà Nội.


3
* Các luận văn thạc sĩ luật học:
- "Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn áp dụng ở Nghệ An"
(2012), Ngô Thị Thu Hoài, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- "Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp sau 04 năm thực hiện - Những
vấn đề đặt ra và giải pháp hoàn thiện" (2013), Trần Vân Khánh, Trường Đại
học Luật Hà Nội.
- "Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay"

(2013), Ngô Thị Thủy, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- "Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại tỉnh
Thái Bình" (2016), Lương Thị Hòa, Viện Đại học Mở Hà Nội...
Các công trình nghiên cứu đã đề cập khá toàn diện các vấn đề liên
quan đến thất nghiệp và pháp luật về BHTN, trong đó có một công trình nghiên
cứu về thực tiễn thực hiện tại địa phương. Tuy nhiên chưa có công trình nào
nghiên cứu pháp luật về BHTN và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là tiếp tục làm rõ một số vấn đề
chung về BHTN, đánh giá các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về
BHTN và thực tiễn thực hiện BHTN tại tỉnh Lạng Sơn. Qua đó chỉ ra những
bất cập trong quy định pháp luật, những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực
hiện tại tỉnh Lạng Sơn nói riêng, cả nước nói chung. Trên cơ sở đó, luận văn
đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về BHTN, nâng
cao hiệu quả thực hiện BHTN tại tỉnh Lạng Sơn.
Những nhiệm vụ nghiên cứu chính của luận văn:
- Tìm hiểu một số vấn đề lý luận chung về BHTN, pháp luật BHTN.
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về BHTN ở
nước ta. Tìm hiểu, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về BHTN tại tỉnh
Lạng Sơn, chỉ ra những hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện pháp luật về về
BHTN tại tỉnh Lạng Sơn.


4
- Đề xuất các giải pháp để hoàn thiện một số quy định pháp luật về
BHTN của nước ta giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
BHTN tại tỉnh Lạng Sơn.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về
BHTN; nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về BHTN và

thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn. Những đề xuất, kiến nghị được trình
bày trong luận văn được đưa ra trên cơ sở sự nghiên cứu về lý luận và thực
tiễn, có giá trị tham khảo cho các cơ quan hữu quan trong quá trình xây dựng
chính sách, hoàn thiện pháp luật về BHTN tại Việt Nam. Đồng thời luận văn
còn có thể là tài liệu hữu ích cho các cán bộ, nhân viên các cơ quan hữu quan
về quản lý lao động, BHTN.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về BHTN, các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về BHTN, chủ yếu là quy định tại Luật Việc làm năm 2013 và các
văn bản hướng dẫn thi hành. Luận văn nghiên cứu về việc tổ chức thực hiện
các quy định của pháp luật về BHTN tại tỉnh Lạng Sơn.
Trên cơ sở các nội dung nghiên cứu thực trạng pháp luật BHTN Việt
Nam và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn, luận văn đưa ra những kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BHTN và nâng cao hiệu quả thực hiện các
quy định của pháp luật về BHTN tại tỉnh Lạng Sơn.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước trong
quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện luận văn,
có sự kết hợp sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các
phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, thống kê.
Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin bao gồm phép biện
chứng duy vật và phương pháp duy vật lịch sử. Các vấn đề về BHTN được


5
nghiên cứu ở trạng thái vận động và phát triển trong mối quan hệ với các yếu
tố kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Đồng thời, dựa trên cơ sở quan điểm, định
hướng của Đảng và Nhà nước về chính sách việc làm, giả quyết thất nghiệp
hiện nay. Phương pháp phân tích, tổng hợp phân chia cái tổng thể, phức tạp
thành những yếu tố giản đơn hơn, nhằm luận giải nguyên nhân, cơ sở của

những quy định, những thay đổi, đánh giá sự tiến bộ, phù hợp của các quy
định với thực tế, từ đó có sự nhận thức cụ thể, sâu sắc vấn đề.
Tại Chương 1 của luận văn, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp hệ
thống, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận chung về BHTN, pháp luật
BHTN. Tại Chương 2 của luận văn, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp
phân tích, so sánh, đối chiếu và cả khảo cứu thực tế nhằm làm rõ các quy định
pháp luật BHTN Việt Nam hiện hành, nhận diện tổng quát, đánh giá tình hình
thực hiện trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Tại Chương 3, tác giả sử dụng các
phương pháp giả định, suy đoán và so sánh nhằm đưa ra những đề xuất, kiến
nghị phù hợp với cơ sở thực tiễn, xu hướng tình hình lao động, việc làm nước
ta nói chung và tình hình, điều kiện thực tế của tỉnh Lạng Sơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo hiểm thất nghiệp và pháp luật
bảo hiểm thất nghiệp.
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về bảo hiểm thất
nghiệp và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Lạng Sơn.


6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1. Định nghĩa bảo hiểm thất nghiệp
Mỗi người muốn sống, tồn tại thì phải lao động hay nói cách khác là
phải có việc làm và lao động đã trở thành nhu cầu cơ bản, chính đáng của con

người. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhu cầu làm việc của mỗi người đều
được đáp ứng. Có những người dễ dàng tìm kiếm được việc làm và làm việc
gắn bó, ổn định tại một số nơi trong suốt thời gian tham gia quan hệ lao động
trong cuộc đời mình. Tuy nhiên cũng có những người có khả năng lao động
và mong muốn được làm việc nhưng lại khó khăn trong việc tìm kiếm việc
làm, thậm chí họ không thể tìm được việc làm cho mình. Khi tổng cung về lao
động của những người lao động (NLĐ) muốn làm việc với mức tiền lương
danh nghĩa tại một thời điểm lớn hơn khối lượng việc làm hiện có thì xảy ra
tình trạng thất nghiệp1. Tổ chức Lao động Quốc tế đưa ra định nghĩa thất
nghiệp tại Công ước số 102 năm 1952: Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi
một số người trong độ tuổi lao động, muốn làm việc nhưng không thể tìm
được việc làm với mức lương phổ biến trong thị trường lao động.
Theo Tổ chức lao động quốc tế, người thất nghiệp là NLĐ không có
việc làm, không làm việc dù chỉ là một giờ trong tuần lễ điều tra, đang đi tìm
việc làm và có điều kiện là họ đi làm ngay. Ở mỗi quốc gia lại có quan điểm
khác nhau về người thất nghiệp. Ở Cộng hòa liên bang Đức, người thất
nghiệp được quy định trong Luật BHXH là NLĐ tạm thời không có quan hệ
lao động hoặc chỉ thực hiện những công việc ngắn hạn. Ở Thái Lan, người
thất nghiệp là NLĐ có năng lực làm việc, muốn làm việc nhưng không có
việc làm. Như vậy, ở Thái Lan, NLĐ thực hiện những công việc ngắn hạn
1. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2000), Giáo trình Bảo hiểm, Nxb Thống kê, Hà Nội.


7
không bị coi là người thất nghiệp. Còn ở Nhật Bản, người thất nghiệp là
người không có việc làm trong tuần lễ điều tra, có khả năng làm việc, đang
tích cực tìm việc làm hoặc chờ kết quả xin việc làm2. Tựu chung lại, có những
quan niệm không hoàn toàn giống nhau nhưng có thể thấy người thất nghiệp
có đầy đủ các đặc điểm: i) là NLĐ, có khả năng lao động; ii) NLĐ đó đang
không có việc làm; iii) NLĐ đó đang đi tìm việc làm. Người thất nghiệp trước

hết phải là NLĐ, tức là người trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp
luật, có khả năng lao động và đang không có việc làm, thực sự mong muốn có
việc làm, sẵn sàng làm việc. Sự sẵn sàng làm việc thể hiện ở việc NLĐ đi tìm
việc làm, họ tìm kiếm các công việc phù hợp với khả năng lao động và nhu
cầu làm việc của mình. Những người không còn trong độ tuổi lao động, người
có khả năng lao động nhưng không muốn lao động, không đi tìm việc làm thì
không được coi là người thất nghiệp. Những người đang có việc làm nhưng
tạm thời không đi làm vì lý do nào đó như nghỉ phép, nghỉ ốm, nghỉ tạm thời
vì tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, người trong độ tuổi lao động nhưng là
học sinh, sinh viên chưa tốt nghiệp, những người ở nhà làm công việc nội
trợ… thì không được coi là người thất nghiệp.
Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế - xã hội xuất hiện do nhiều nguyên
nhân như khi các doanh nghiệp bước vào giai đoạn làm ăn kém hiệu quả, phải
thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc trình độ khoa học kỹ thuật phát
triển dẫn đến công nghệ sản xuất được đổi mới dẫn đến dư thừa lao động, dân
số tăng nhanh bổ sung lượng lớn người trong độ tuổi lao động cho thị trường
vượt quá nhu cầu thị trường về lao động… Thất nghiệp tác động mạnh mẽ
đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia, tình trạng NLĐ thất
nghiệp làm gia tăng áp lực giải quyết việc làm ở các quốc gia, vốn là một vấn
đề lớn Chính phủ các nước đều phải quan tâm giải quyết. Đối với nền kinh tế,
thất nghiệp là sự lãng phí nguồn lực xã hội vì sản xuất thực tế chưa phát huy
2. "Kinh nghiệm trợ cấp thất nghiệp ở các nước Châu Á", truy cập ngày 20/3/2018.


8
được hết các tiềm năng của nó, trong đó tiềm năng quan trọng là sức lao động
của con người. Đối với NLĐ, khi rơi vào tình trạng thất nghiệp, họ bị mất thu
nhập dẫn đến đời sống khó khăn, khoảng thời gian không có việc làm khiến
tinh thần đi xuống, các mối quan hệ xã hội thay đổi và có thể sa vào các tệ
nạn xã hội. Ngoài ra, đời sống của những người thân sống phụ thuộc vào

NLĐ, cả những người phụ thuộc về kinh tế và những người có mối quan hệ
tình cảm gắn bó cũng bị ảnh hưởng do NLĐ bị thất nghiệp. Một trong các
biện pháp, chính sách để khắc phục những tác động, ảnh hưởng tiêu cực của
thất nghiệp mà các quốc gia thực hiện là BHTN. BHTN trợ giúp về mặt tài
chính cho người thất nghiệp để họ ổn định cuộc sống của mình và gia đình
trong một chừng mực nhất định, tạo điều kiện để họ quay trở lại, tham gia vào
thị trường lao động.
Với ý nghĩa an sinh xã hội to lớn của mình, khi mới được triển khai
thực hiện, BHTN là một bộ phận của BHXH nhưng sau đó nó được tách ra
khỏi BHXH, được coi là một trong những chính sách có vai trò, ý nghĩa to lớn
khắc phục tình trạng thất nghiệp. BHTN nhằm trợ giúp về mặt tài chính cho
người thất nghiệp để họ ổn định cuộc sống của mình và gia đình trong một
chừng mực nhất định, từ đó tạo điều kiện để họ tham gia vào thị trường lao
động, có những cơ hội mới về việc làm. Có thể hiểu: Bảo hiểm thất nghiệp là
chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập cho người thất nghiệp và hỗ trợ người
thất nghiệp tìm việc làm trên cơ sở sự đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp
Ngoài những đặc điểm chung của bảo hiểm như bản chất đó là sự
phân phối lại tổng sản phẩm xã hội trong nước một cách không đều, hoạt
động trên nguyên tắc số đông bù số ít, vừa mang tính bồi hoàn lại vừa không
bồi hoàn3, BHTN còn có những đặc điểm riêng như sau:
Một là, BHTN không nhằm mục đích lợi nhuận. BHTN là một nội
dung thuộc chính sách an sinh xã hội, nó không phải là một loại hình bảo
3. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2000), Giáo trình Bảo hiểm, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr. 13.


9
hiểm kinh doanh thương mại, vì thế BHTN không nhằm mục đích lợi nhuận.
Theo thông lệ quốc tế, chính sách BHTN nhằm mục tiêu cung cấp thu nhập
thay thế, giúp bù đắp một phần thu nhập, ổn định đời sống cho những người

thất nghiệp thông qua chi trả trợ cấp thất nghiệp và triển khai các giải pháp
nhằm nhanh chóng đưa người thất nghiệp quay trở lại thị trường lao động
thông qua đào tạo chuyển đổi nghề, tư vấn giới thiệu việc làm hoặc hỗ trợ duy
trì việc làm, tránh sa thải lao động. BHTN cũng là công cụ quản trị thị trường
lao động, giúp thị trường lao động vận hành hiệu quả hơn. BHTN cũng giảm
gánh nặng cho ngân sách nhà nước và doanh nghiệp. Khi NLĐ rơi vào tình
trạng thất nghiệp, nhờ có các khoản trợ cấp thất nghiệp được chi trả từ quỹ
BHTN đã góp phần bảo đảm an sinh cho NLĐ và gia đình họ. Do đó Nhà
nước và doanh nghiệp giảm được chi phí hỗ trợ cho NLĐ ổn định cuộc sống.
Hai là, BHTN có đối tượng áp dụng là người thất nghiệp, trợ cấp
mang tính ngắn hạn. Người được hưởng trợ cấp thất nghiệp là NLĐ bị thất
nghiệp, tức là họ đã kết thúc một quan hệ lao động và đang chờ để tiếp tục
tham gia vào một quan hệ lao động mới. BHTN nằm ngoài quan hệ lao động
nhưng đó chỉ là tạm thời, ngắn hạn và có chừng mực nhất định. Nó khác hoàn
toàn so với bảo hiểm hưu trí là chế độ bảo hiểm dài hạn, áp dụng cho người
nghỉ hưu, tức là người đã kết thúc quá trình làm việc, không tham gia quan hệ
lao động nữa.
Là một chính sách an sinh xã hội quan trọng nhưng BHTN luôn là một
chế độ ngắn hạn, hỗ trợ cho NLĐ bị thất nghiệp trong thời gian tạm thời chưa
tìm được việc làm khác. Do tính chất tạm thời này, NLĐ chỉ được hưởng trợ
cấp trong một khoảng thời gian giới hạn sau khi bị mất việc làm hoặc chấm
dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc.
Ba là, BHTN không chỉ hỗ trợ vật chất để NLĐ ổn định cuộc sống mà
còn hỗ trợ để NLĐ tìm kiếm được việc làm. Bên cạnh việc trợ cấp bằng tiền,
BHTN còn bao gồm các biện pháp tạo điều kiện, tìm kiếm cơ hội để NLĐ tìm
được việc làm phù hợp, tiếp tục tham gia quan hệ lao động. Các biện pháp


10
này vừa giúp NLĐ có khả năng nhanh chóng trở lại tham gia quan hệ lao

động vừa giúp giảm chi phí quỹ bảo hiểm y tế chi trả trợ cấp BHTN. Các biện
pháp đào tạo nghề cho NLĐ thất nghiệp cũng có ý nghĩa giúp phòng ngừa
thất nghiệp cho NLĐ khi họ đã tham gia quan hệ lao động. Nhờ được đào tạo
nghề nghiệp theo chính sách của BHTN, NLĐ có khả năng duy trì việc làm
tốt hơn, thậm chí có thể tìm kiếm được việc làm với thu nhập cao hơn. Như
vậy, BHTN vừa bù đắp thu nhập, vừa tạo động lực tích cực cho người thất
nghiệp chủ động tìm cơ hội trở lại làm việc.
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp
* Đối với người lao động
Nhờ có khoản trợ cấp thất nghiệp bù đắp vào phần thu nhập bị mất
của NLĐ, NLĐ và gia đình họ tạm thời ổn định cuộc sống. Ngoài ra, BHTN
không chỉ bù đắp thu nhập để duy trì cuộc sống hàng ngày cho NLĐ mà
BHTN còn giúp họ có cơ hội quay trở lại thị trường lao động, tham gia vào
một quan hệ lao động mới thông qua các hoạt động hỗ trợ như tìm kiếm việc
làm, đào tạo nghề, nâng cao tay nghề.... Nhờ việc tham gia BHTN, NLĐ đã
có tâm lý được an toàn phần nào cho bản thân và gia đình, giúp NLĐ yên tâm
làm việc, đây là yếu tố quan trọng giúp NLĐ ổn định tâm lý trong quá trình
làm việc và cuộc sống hàng ngày. NLĐ sẽ yên tâm hơn với các khoản trợ cấp
BHTN và các hoạt động hỗ trợ NLĐ tìm kiếm việc làm mới, giúp họ hạn chế
sốc tâm lý khi bị mất việc làm, ổn định tinh thần và đời sống gia đình.
* Đối với người sử dụng lao động
Bảo hiểm thất nghiệp thực sự hỗ trợ doanh nghiệp Việc thực hiện chế
độ BHTN đã giúp san sẻ gánh nặng tài chính của doanh nghiệp, thay vì phải
chi trả các khoản trợ cấp thôi việc cho NLĐ, BHTN sẽ chi trả khoản trợ cấp
cho NLĐ trong thời gian họ chưa tìm được việc làm mới. Nhờ có BHTN,
NLĐ sẽ yên tâm làm việc do đó người sử dụng lao động (NSDLĐ) ổn định
được lực lượng nhân công, phát triển được hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình, quan hệ lao động giữa NLĐ và NSDLĐ cũng trở nên gắn bó hơn qua
sự thể hiện trách nhiệm với nhau.



11
* Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
BHTN là một loại hình "tự động ổn định" hỗ trợ tiêu dùng trong tình
trạng kinh tế suy thoái. Ngay cả khi rơi vào tình trạng mất việc làm, thất
nghiệp, nhờ có khoản trợ cấp thất nghiệp mà NLĐ và gia đình họ vẫn được
đảm bảo một phần thu nhập cho cuộc sống hàng ngày. Các chế độ BHTN do
đó góp phần duy trì sức tiêu dùng ở cả góc độ cá thể và kinh tế vĩ mô. Với ý
nghĩa thể hiện sự san sẻ cộng đồng sâu sắc, BHTN còn góp phần quan trọng
vào xây dựng, tạo dựng sự gắn kết xã hội. Việc tham gia vào BHTN là sự chia
sẻ lần nhau giữa NSDLĐ và NLĐ, giữa những NLĐ với nhau và giữa những
NSDLĐ đã tạo nên mối quan hệ gắn kết ấy.
Bảo hiểm thất nghiệp phát huy vai trò là công cụ quản trị thị trường
lao động thông qua chi trả trợ cấp thất nghiệp được coi là chính sách thị
trường lao động chủ động (passive labour maket policies) và chính sách đào
tạo chuyển đổi nghề, nâng cao tay nghề, tư vấn hỗ trợ việc làm tránh sa thải
lao động được coi là chính sách thị trường lao động tích cực (active labour
maker policies) có tác dụng rút ngắn thời gian thất nghiệp của NLĐ, giảm
thiệt hại cho xã hội do việc làm trống không có người đảm nhận hoặc lao
động không được sử dụng vì không có việc làm. BHTN nhờ đó tác động vào
cân bằng cung -cầu thị trường lao động.
1.2. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
Có thể hiểu pháp luật về BHTN là hệ thống các quy tắc xử sự chung
do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện về việc đóng góp
và sử dụng quỹ BHTN, chi trả trợ cấp thất nghiệp và thực hiện các biện pháp
đưa người thất nghiệp trở lại làm việc. BHTN là một chính sách thuộc hệ
thống các chính sách về an sinh xã hội, do đó pháp luật về BHTN cũng là một
bộ phận của hệ thống pháp luật an sinh xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình tham gia và thụ hưởng BHTN.



12

1.2.2 Các nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp là một trong những chính sách an sinh xã hội
quan trọng do đó các nguyên tắc của BHTN vừa thể hiện những nét chung của
các nguyên tắc an sinh xã hội vừa có những nét đặc thù riêng có của BHTN.
Đó là những tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt và chi phối việc xây dựng chính
sách BHTN, toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật về BHTN. Các nguyên
tắc của BHTN bao gồm:
Thứ nhất, bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHTN.
Bảo hiểm thất nghiệp dựa trên sự tương trợ giữa các cá nhân trong xã
hội, số đông bù số ít. Đối tượng của BHTN là thu nhập bị mất do NLĐ bị
mất việc làm, chưa tìm được việc làm mới, trợ cấp thất nghiệp được chi trả
khi NLĐ rơi vào tình trạng thất nghiệp và đáp ứng các điều kiện luật định.
Tuy nhiên không phải NLĐ nào tham gia BHTN cũng sẽ rơi vào tình trạng
thất nghiệp, đáp ứng các điều kiện luật định và được hưởng các chế độ trợ
cấp của BHTN. Có thể có những NLĐ không bao giờ bị rơi vào tình trạng
thất nghiệp nhưng cũng có những NLĐ bị rơi vào tình trạng thất nghiệp
không chỉ một lần, nguy cơ mất việc làm của mỗi NLĐ cũng khác nhau.
Nguy cơ mất việc làm của mỗi NLĐ là khác nhau trong khi NLĐ có trình độ
cao, mức lương cao lại ít khi phải hưởng trợ cấp thất nghiệp còn NLĐ có
trình độ thấp, mức lương thấp lại có khả năng hưởng trợ cấp thất nghiệp
nhiều hơn. Đối với NSDLĐ cũng vậy, doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp
nhỏ cũng có nguy cơ rủi ro khác nhau nhưng lại cùng chung một mức đóng
BHTN. Do đó mức đóng BHTN, mức hưởng BHTN phải được tính toán quy
định hợp lý và bảo đảm mọi NLĐ tham gia BHTN khi rơi vào tình trạng thất
nghiệp, đáp ứng các điều kiện luật định cần thiết thì được hưởng trợ cấp
BHTN. Ngoài ra, việc đóng góp kinh phí vào quỹ BHTN không chỉ có NLĐ

mà còn có cả NSDLĐ, họ cũng tham gia đóng góp vào quỹ BHTN. Việc
tham gia BHTN cũng chính là sự hỗ trợ lẫn nhau giữa những doanh nghiệp
lớn và doanh nghiệp nhỏ.


13
Thứ hai, mức đóng BHTN được tính trên cơ sở tiền lương của NLĐ.
Việc tham gia BHTN có ý nghĩa quan trọng đối với NLĐ nhưng quy
định pháp luật về mức tham gia phải phù hợp để không được ảnh hưởng quá
nhiều đến thu nhập hiện tại của NLĐ. Đảm bảo sự công bằng và bình đẳng
giữa những người tham gia BHTN, kể cả NLĐ và NSDLĐ thì mức đóng
BHTN phải được tính toán trên cơ sở tiền lương của NLĐ. Thị trường lao
động có nhiều phân khúc với NLĐ ở nhiều trình độ với mức tiền lương khác
nhau do đó số tiền đóng góp vào quỹ BHTN tính trên cơ sở tiền lương cũng sẽ
khác nhau. Điều này còn có ý nghĩa quan trọng khi kết hợp với nguyên tắc
mức hưởng BHTN được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHTN.
Thứ ba, mức hưởng BHTN được tính trên cơ sở mức đóng và thời gian
đóng BHTN.
Nếu mức trợ cấp thất nghiệp quá cao, NLĐ sẽ không tích cực tìm việc
làm mới mà chấp nhận tình trạng thất nghiệp để hưởng trợ cấp trong khi
không phải làm việc hoặc kén chọn công việc mà họ cho rằng có lợi hơn là
hưởng trợ cấp thất nghiệp. Mức trợ cấp thất nghiệp không chỉ ảnh hưởng
quyết tâm tìm việc làm của NLĐ mà nó còn có thể ảnh hưởng đến mức lương
mà NLĐ yêu cầu khi tìm kiếm công việc mới. Do đó, mức hưởng BHTN cần
được tính toán phù hợp, về nguyên tắc, mức trợ cấp thất nghiệp không được
cao hơn mức thu nhập của NLĐ trước khi thất nghiệp nhưng vẫn phải đảm
bảo đời sổng tối thiểu cho người thất nghiệp4. Nếu mức hưởng BHTN quá
thấp thì không đảm bảo được mục đích, ý nghĩa an sinh xã hội tốt đẹp của
BHTN. Đồng thời, mức hưởng BHTN quá thấp sẽ không đáp ứng được mục
đích, nhu cầu của NLĐ khi tham gia BHTN dẫn đến họ không tha thiết tham

gia, đóng góp vào quỹ BHTN.
Thứ tư, BHTN phải được thực hiện đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo
đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia.
Bảo hiểm thất nghiệp có đối tượng tham gia là NLĐ thuộc nhiều loại
hình lao động khác nhau, để mọi NLĐ có thể tham gia mà không gặp trở ngại
4. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.


14
vì những thủ tục quá rắc rối, phức tạp thì việc thực hiện BHTN phải đơn giản,
dễ dàng, thuận tiện. Về phía NSDLĐ cũng vậy, tham gia BHTN còn là trách
nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ, do đó với nhiều NSDLĐ vì những lý do như
điều kiện kinh tế, nhận thức về ý nghĩa của BHTN đối với NSDLĐ chưa thực
sự đầy đủ, cho rằng đây hoàn toàn là quyền lợi,lợi ích của NLĐ nên không
thực sự tự nguyện tham gia BHTN. Trường hợp các thủ tục BHTN không
thực dự thuận tiện cũng là lý do để họ từ chối, trì hoãn thực hiện tham gia
BHTN cho NLĐ.
Đối với NLĐ khi bị rơi vào tình trạng thất nghiệp, họ không còn thu
nhập từ tiền lương, đặc biệt là đối với những NLĐ không có tài chính tích lũy
dự phòng thì trợ cấp thất nghiệp ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của họ
và gia đình. Do đó việc xem xét giải quyết và chi trả các chế độ BHTN phải
đảm bảo kịp thời, đầy đủ quyền lợi của người tham gia để đảm bảo ổn định
cuộc sống gia đình họ và hơn nữa là góp phần ổn định đời sống xã hội.
Thứ năm, quỹ BHTN được quản lý tập trung, thống nhất, công khai,
minh bạch, bảo đảm an toàn và được Nhà nước bảo hộ.
Quỹ BHTN có ý nghĩa quan trọng, yếu tố quyết định đối với việc duy
trì thực hiện chính sách BHTN. Quỹ BHTN được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau và để đảm bảo duy trì quỹ, đảm bảo niềm tin đối với người tham
gia đóng góp vào quỹ BHTN thì nó phải được quản lý thống nhất và hạch
toán theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo phản ánh đúng và đầy đủ các

khoản thu, chi của quỹ. Việc thu chi, quản lý quỹ phải được thực hiện công
khai và minh bạch để đảm bảo sự giám sát quản lý và đảm bảo quyền lợi của
những người tham gia BHTN.
Với ý nghĩa là sự chia sẻ giữa những NLĐ, NSDLĐ, nguồn chủ yếu
để hình thành quỹ BHTN trước hết phải từ sự đóng góp của những NLĐ,
NSDLĐ tham gia BHTN. Mặc dù nguyên tắc mức đóng phải được tính toán
trên cơ sở mức tiền lương và mức hưởng phải được tính toán trên cơ sở mức
đóng và thời gian đóng nhưng không phải lúc nào sự tính toán này cũng có


15
thể đảm bảo duy trì quỹ BHTN. Để đảm bảo an toàn cho quỹ BHTN, Nhà
nước có chính sách bảo hộ cho quỹ bằng các phương thức, cơ chế khác nhau
như bù đắp cho quỹ khi quỹ có khả năng thâm hụt, mất cân đối, hỗ trợ phí
BHTN cho NLĐ, tạo cơ chế huy động nguồn khác ngoài khoản đóng góp của
người tham gia BHTN cho quỹ BHTN một cách thuận lợi và có những ưu đãi,
đảm bảo cho cơ chế huy động đó được thực hiện.
1.2.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
* Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Đối tượng tham gia BHTN là các bên có nghĩa vụ đóng phí vào quỹ
BHTN cho NLĐ hưởng chế độ, quyền lợi BHTN khi bị thất nghiệp. Đối
tượng tham gia BHTN bao gồm NLĐ và NSDLĐ song đối tượng này rộng
hay hẹp còn tùy thuộc vào điều kiện cụ thể và quy định của từng nước.Với ý
nghĩa là chính sách an sinh xã hội, đối tượng tham gia BHTN càng mở rộng
càng đảm bảo an sinh xã hội cho nhiều đối tượng hơn tuy nhiên phạm vi đối
tượng tham gia BHTN được cân nhắc dựa trên nhiều yếu tố như xác định nhu
cầu được bảo vệ của các đối tượng trên cơ sở quan niệm của mỗi quốc gia,
điều kiện triển khai thực hiện ở mỗi quốc gia. Đối với NLĐ, có thể giới hạn
phạm vi đối tượng tham gia BHTN ở những điều kiện về ngành nghề, tính
chất công việc, thời hạn tham gia quan hệ lao động vì nó ảnh hưởng đến nhu

cầu được bảo vệ của NLĐ bởi chính sách BHTN, thời gian có thể tham gia
đóng phí BHTN và tính ổn định của việc tham gia BHTN.
Điều 2 Công ước số 44 được thông qua ngày 23/4/1934 của Tổ chức
lao động quốc tế quy định đối tượng áp dụng BHTN là chỉ có những người
làm công ăn lương cho chủ mới được hưởng BHTN còn những NLĐ độc lập
thì không thuộc BHTN. Tuy nhiên tùy hoàn cảnh mỗi nước có thể đặt thêm
các trường hợp ngoại lệ là các gia nhân giúp việc nhà, những người làm việc
ở nhà, công chức nhà nước, NLĐ có thu nhập cao có thể tự mình phòng
chống rủi ro thất nghiệp, NLĐ theo mùa vụ, NLĐ trẻ sát cận tuổi lao động,
NLĐ quá tuổi quy định,… Do đó mỗi quốc gia lại có những quy định khác


16
nhau về đối tượng tham gia BHTN, ở Đan Mạch, đối tượng tham gia BHTN
còn có thêm sinh viên mới tốt nghiệp đang tìm kiếm việc làm hoặc Bahrain là
những người lần đầu đi tìm việc5. Ở Mỹ, đối tượng tham gia BHTN gồm
NLĐ trong các doanh nghiệp công nghiệp và thương mại, NLĐ trong các tổ
chức phi lợi nhuận có từ 4 lao động trở lên, thời gian làm việc 20 tuần/1năm
trở lên, các doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp có sử dụng từ 10 lao động
trở lên, thời gian làm việc 20 tuần/1 năm, quỹ lương 20.000USD/quý, ở một
số bang cán bộ công chức Nhà nước cũng được tham gia chế độ BHTN. Các
đối tượng không thuộc diện áp dụng chế độ BHTN là lao động tự do, lao động
khoán việc, người giúp việc gia đình, lao động thuộc các tổ chức tôn giáo6.
* Chế độ bảo hiểm thất nghiệp
Chế độ BHTN là tổng hợp các quy định về đối tượng hưởng, điều kiện
hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng BHTN. Tùy vào điều kiện kinh tế xã
hội trong từng giai đoạn mà các quốc gia quy định khác nhau về chế độ
BHTN bởi nó ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của NLĐ, tình hình an toàn của
quỹ BHTN, có tác động đến vấn đề việc làm và tình trạng thất nghiệp của
quốc gia.

Đối tượng hưởng BHTN là NLĐ đã tham gia BHTN và đáp ứng đầy
đủ các điều kiện luật định. Căn cứ chính sách kinh tế xã hội và nguồn quỹ
BHTN, tình trạng NLĐ mất việc làm trong thời gian bảo đảm trợ cấp, hỗ trợ
mà quy định về đối tượng hưởng BHTN có thể khác nhau, được điều chỉnh để
đảm bảo an toàn quỹ và thực tế nhu cầu hỗ trợ của NLĐ.
Các quy định về điều kiện hưởng BHTN được đặt ra nhằm "sàng lọc"
những đối tượng thực sự phù hợp với mục đích, ý nghĩa của BHTN, là cơ sở
pháp lý để đối tượng tham gia BHTN đòi hỏi quyền lợi của mình. Các điều
kiện này cũng có ý nghĩa đảm bảo việc thực hiện BHTN một cách công bằng,
bình đẳng giữa những người tham gia BHTN, giữa những NLĐ tham gia
5. "So sánh bảo hiểm thất nghiệp Việt Nam với các nước trên thế giới" />Pages/chitiettin.aspx?IDNews=16368, truy cập ngày 11/4/2018
6. />

17
BHTN. Đối với NLĐ, các điều kiện hưởng BHTN thường gồm có điều kiện
về thời gian đóng BHTN; điều kiện về sự kiện bảo hiểm, đó là việc NLĐ bị
thất nghiệp và sự sẵn sàng, nỗ lực tìm kiếm công việc mới, nguyên nhân thất
nghiệp. Theo Công ước số 44 được Tổ chức lao động quốc tế thông qua ngày
23/4/1934, muốn được hưởng trợ cấp thất nghiệp, NLĐ phải đáp ứng các điều
kiện: có năng lực làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng hiện tại không có việc
làm; có đăng ký tìm việc tại một phòng đăng ký tìm việc làm do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xác nhận hoặc trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm
do Nhà nước quản lý; có sổ BHTN để chứng minh thời gian tham gia BHTN;
trước đó, không nghỉ việc vô cớ hoặc nghỉ việc vì bị kỷ luật hay tranh chấp
nghề nghiệp; có giấy chứng nhận mức lương trước khi nghỉ việc nếu trợ cấp
thất nghiệp được trả theo mức lương. BHTN nhằm bảo vệ NLĐ bị mất việc
làm do những nguyên nhân nằm ngoài ý muốn chủ quan của họ. BHTN là
một chế độ ngắn hạn, trợ cấp mang tính tạm thời, nếu NLĐ không có việc làm
do không có khả năng lao động thì họ không có khả năng quay trở lại tham
gia quan hệ lao động. Điều kiện chủ yếu mà pháp luật BHTN các nước đều

đặt lên hàng đầu là người thất nghiệp phải có "năng lực làm việc" (khả năng
lao động), ngoài ra họ còn phải sẵn sàng làm việc để thoát ra khỏi tình trạng
thất nghiệp càng sớm càng tốt, có như vậy mới đảm bảo được ý nghĩa, mục
đích của BHTN.
Mức hưởng BHTN bao gồm trợ cấp BHTN được chi trả từ quỹ BHTN
hoặc dịch vụ mà NLĐ tham gia BHTN nhận được. Mức trợ cấp thất được xác
định đảm bảo nguyên tắc được tính trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng
BHTN. Mức hưởng BHTN và thời gian hưởng dài hay ngắn là tùy thuộc vào
khả năng chi trả của quỹ BHTN, thời gian này càng dài càng tốt nếu quỹ còn
khả năng chi trả và NLĐ còn nhu cầu được trợ giúp. Ngoài ra, mức hưởng
BHTN còn phải được tính toán phù hợp với nguyên tắc tương ứng mức và với
thời gian tham gia BHTN. Thời gian được hưởng trợ cấp BHTN có thể được
chia thành nhiều bậc theo thời gian tham gia đóng dài hay ngắn. Ở các quốc


18
gia phát triển, thời gian hưởng trợ cấp BHTN thường dài hơn còn ở các nước
đang phát triển thời gian hưởng BHTN sẽ ngắn hơn do khả năng chi trả hạn
chế hơn trong khi số lượng NLĐ thất nghiệp thường nhiều hơn. Công ước số
102 năm 1952 của Tổ chức lao động quốc tế yêu cầu mức hưởng trợ cấp thất
nghiệp không thấp hơn 45% mức thu nhập trước khi mất việc. Công ước này
qui định thêm rằng giới hạn chuẩn của mức thu nhập tối đa để làm căn cứ
đóng bảo hiểm phải được ấn định cao đến mức sao cho có thể đảm bảo rằng
mức tối thiểu 45% sẽ được áp dụng đối với tất cả NLĐ. Đến năm 1988, Công
ước số 168 của Tổ chức lao động quốc tế về thúc đẩy việc làm và bảo vệ
chống thất nghiệp còn đưa ra một tỷ lệ cao hơn là 50% mức thu nhập trước đó.
* Thủ tục hưởng bảo hiểm thất nghiệp
Thủ tục hưởng BHTN là các công việc, trình tự công việc mà NLĐ và
cơ quan có thẩm quyền bắt buộc phải tuân theo theo quy định của pháp luật
để được hưởng BHTN. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, NLĐ hoàn chỉnh các

giấy tờ, tài liệu cần thiết theo quy định để đề nghị cơ quan bảo hiểm thực hiện
các chế độ chi trả trợ cấp thất nghiệp và các chế độ hỗ trợ đào tạo nghề, tìm
kiếm việc làm theo quy định về quyền lợi của NLĐ tham gia BHTN. Thông
thường hồ sơ gồm các tài liệu chứng minh sự kiện bảo hiểm, chứng minh
NLĐ đáp ứng các điều kiện hưởng BHTN và nhu cầu, đề nghị của NLĐ đối
với cơ quan bảo hiểm để được hỗ trợ. Căn cứ hồ sơ yêu cầu của NLĐ, cơ
quan bảo hiểm sẽ quyết định thực hiện chi trả quyền lợi bảo hiểm cho NLĐ.
Xét về phía NLĐ, thủ tục hưởng BHTN cũng là cơ sở pháp lý để NLĐ đáp
ứng các điều kiện được hưởng chế độ BHTN. Khi không thực hiện đúng các
thủ tục hưởng BHTN, NLĐ có thể không được hưởng các chế độ BHTN.
* Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Quỹ BHTN là một quỹ tài chính tập trung được hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau dùng để chi trả các chế độ cho NLĐ khi có đủ điều kiện
hưởng BHTN theo quy định pháp luật. Một trong những nguồn cơ bản hình
thành nên quỹ BHTN là đóng góp của các bên tham gia BHTN, gồm NLĐ,


×