Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về đương sự và thực tiễn áp dụng tại tòa án nhân dân thành phố lạng sơn, tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.7 KB, 91 trang )

B GIO DC V O TO

B T PHP

TRNG I HC LUT H NI

NGễ THO NGUYấN

Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành
về đ-ơng sự và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân
thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


B GIO DC V O TO
B T PHP
TRNG I HC LUT H NI

NGễ THO NGUYấN

Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành
về đ-ơng sự và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân
thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn

LUN VN THC S LUT HC

Chuyờn ngnh : Lut dõn s v T tng dõn s
Mó s



: 8 38 01 03

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Nguyn Minh Hng

H NI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Ngô Thảo Nguyên


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐƢƠNG SỰ TRONG PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

7


1.1. Khái niệm, đặc điểm của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự

7

1.2. Năng lực chủ thể của đương sự trong tố tụng dân sự

17

1.3. Các quy định về một số quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố
tụng dân sự

20

Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ ĐƢƠNG SỰ TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

2.1.

52

Ưu điểm và nguyên nhân của ưu điểm trong việc áp dụng quy định
pháp luật tố tụng về đương sự tại Tòa án nhân dân thành phố Lạng
Sơn, tỉnh Lạng Sơn

52

2.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong việc áp dụng quy định

của pháp luật hiện hành về đương sự tại Tòa án nhân dân thành phố
Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn

54

2.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự và đảm bảo hiệu quả
áp dụng pháp luật tố tụng về đương sự tại Tòa án nhân dân thành
phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn

66

KẾT LUẬN

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

BPKCTT


: Biện pháp khẩn cấp tạm thời

PLTTDS

: Pháp luật tố tụng dân sự

QHPL

: Quan hệ pháp luật

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

VADS

: Vụ án dân sự


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Để thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, cải cách tư pháp vẫn tiếp
tục được duy trì và là một yêu cầu không thể thiếu trong công cuộc xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, hoạt động xét xử của Tòa án được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, cải
cách tư pháp sẽ khắc phục những bất cập, hạn chế của công tác tư pháp nhằm bảo
vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân.
Thực tế, vấn đề quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể ngày càng được
chú trọng trong xu hướng hội nhập hiện nay. Từ trước đến nay Nhà nước ta đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện tốt nhất
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, song song với sự phát triển của
nền kinh tế, những biến đổi của đời sống xã hội, các văn bản pháp luật được ban
hành đã bộc lộ nhiều bất cập, chưa đáp ứng kịp thời những yêu cầu của xã hội trong
thời kỳ mới.
Đương sự là một chủ thể quan trọng nhất trong quan hệ pháp luật (QHPL)
dân sự. Đương sự có mối quan hệ chặt chẽ với Tòa án và là trung tâm của hoạt động
tố tụng. Nếu thiếu chủ thể này thì vụ án dân sự (VADS) không thể phát sinh. Việc
ban hành Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011
thay thế cho Pháp lệnh thủ tục giải quyết các VADS năm 1989, Pháp lệnh thủ tục
giải quyết vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động
năm 1996 là một bước tiến đáng ghi nhận trong lịch sử hình thành và phát triển của
pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) Việt Nam, trong đó có các quy phạm quy định khá
rõ ràng và toàn diện về đương sự. Điều này có ý nghĩa quan trọng khi xác định
thành phần, tư cách đương sự trong vụ việc dân sự, góp phần vào việc bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của họ và là cơ sở quan trọng cho quá trình giải quyết vụ việc
dân sự được chính xác, khách quan. Sau hơn 10 năm thực hiện, BLTTDS năm
2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 vẫn còn bộc lộ những hạn chế, còn tồn tại những



2
quy định chưa phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và một số luật mới ban hành. Vì
vậy, việc ban hành BLTTDS năm 2015 là cần thiết, thể hiện được chủ trương đường
lối chính sách của Đảng về cải cách tư pháp, cụ thể hóa các quy định của Hiến
pháp, đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật, tăng cường tranh tụng, đảm
bảo tính công khai, dân chủ, công bằng, tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện
tốt quyền và nghĩa vụ của mình.
Thực tiễn giải quyết các vụ, việc dân sự tại hệ thống Tòa án nhân dân (TAND)
nói chung và tại TAND thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn nói riêng vẫn còn
những tồn tại, vướng mắc trong quá trình giải quyết các VADS, đặc biệt là liên
quan đến việc xác định tư cách của đương sự, việc hiểu các quy định của pháp luật
về vấn đề này đôi khi không đúng đã dẫn đến quá trình xét xử tại Tòa án còn nhiều
hạn chế, sai sót. Kết quả giải quyết các VADS của Tòa án chưa cao, vẫn còn nhiều
trường hợp bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới bị cấp trên sửa, hủy. Các VADS
phải giải quyết lại nhiều lần làm lãng phí về thời gian, tiền bạc, gây khó khăn cho
đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Do đó, để góp
phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, tác giả
đã lựa chọn đề tài: "Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về đương
sự và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng
Sơn" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện thực
trạng pháp luật tố tụng dân sự (PLTTDS) hiện hành quy định về đương sự và việc
xác định tư cách của đương sự, đánh giá thông qua thực tiễn xét xử tại TAND thành
phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, kết quả nghiên cứu đề tài nhằm đề xuất được các giải
pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về đương sự và việc xác định tư cách của
đương sự, cũng như giải pháp để thực thi một cách hiệu quả các quy định của pháp
luật trong thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua nghiên cứu các tài liệu có liên quan, tác giả nhận thấy đã có một số tài
liệu, công trình, bài viết nghiên cứu về đương sự trong VADS ở nhiều khía cạnh

khác nhau, chẳng hạn như:
Nhóm các luận án, luận văn luật học đã bảo vệ thành công:


3
- "Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam",
Luận án tiến sĩ luật học, của Nguyễn Công Bình, thực hiện năm 2006;
- "Đương sự trong tố tụng dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn",
Luận án tiến sĩ luật học, của Nguyễn Triều Dương, thực hiện năm 2010.
- "Quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự Việt Nam năm 2004", Luận văn thạc sĩ luật học, của Nguyễn Phương Hạnh, thực
hiện năm 2010;
Giáo trình và các sách chuyên khảo đã xuất bản: Giáo trình Luật tố tụng
dân sự Việt Nam, của Trường Đại học Luật Hà Nội, do Nhà xuất bản Công an nhân
dân xuất bản năm 2009; Giáo trình Luật tố tụng dân sự, của Học viện Tư pháp, do
Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2007; Pháp luật tố tụng dân sự và
thực tiễn xét xử, của Tưởng Duy Lượng, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất
bản năm 2009.
Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý chuyên
ngành như bài viết "Cơ sở pháp lý của quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự", của Nguyễn Tiến Trung, đăng trên Tạp chí Luật học, số 02 năm 1999;
"Ai có tư cách là nguyên đơn trong vụ án dân sự", của Nguyễn Thị Hương, đăng
trên Tạp chí TAND, số 01 năm 2000; "Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt
của đương sự trong Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam", của Nguyễn Ngọc Khánh,
đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 05 năm 2005; "Người tham gia tố tụng
dân sự", của Nguyễn Việt Cường, đăng trên Tạp chí TAND, số 8 năm 2005;
"Đương sự trong vụ án dân sự", của Nguyễn Việt Cường, đăng trên Tạp chí Nghề
Luật, số 2 năm 2006; "Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng",
của TANDTrần Anh Tuấn, đăng trên Tạp chí TAND, số 23 năm 2008; "Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong Bộ luật tố tụng dân sự", của Nguyễn Thái Phúc,

đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10 năm 2005 v.v...
Các công trình nghiên cứu khoa học, giáo trình, các sách chuyên khảo, bài
tạp chí nêu trên nhìn chung đã phần nào giải quyết được các vấn đề về đương sự
trong TTDS nhưng chủ yếu nghiên cứu về chế định đương sự trong PLTTDS trước
thời điểm BLTTDS năm 2015 được ban hành. Cho đến nay, chưa có công trình
khoa học nào nghiên cứu toàn diện các quy định của pháp luật về đương sự theo quy


4
định của BLTTDS năm 2015, đặc biệt tiếp cận với thực tiễn áp dụng tại TAND thành
phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Do đó, đề tài "Quy định của pháp luật tố tụng dân
sự hiện hành về đương sự và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân thành phố
Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn" có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Đề tài không trùng lặp
với các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài: là nghiên cứu các quy định của
PLTTDS Việt Nam hiện hành về đương sự và thực tiễn áp dụng tại TAND thành
phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Quá trình nghiên cứu nhằm làm rõ tầm quan trọng
của việc xác định đúng đương sự và tư cách của đương sự trong quá trình giải quyết
các vụ việc dân sự. Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập,
mâu thuẫn, chồng chéo về quy định pháp luật còn tồn tại để đề ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: đề tài nghiên cứu các quy định của
BLTTDS năm 2015 về đương sự và thực tiễn áp dụng trong các VADS tại thành
phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn
Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của một bản luận văn thạc sĩ, tác
giả giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
* Về nội dung nghiên cứu:
Nghiên cứu về đương sự và một số quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
VADS theo PLTTDS Việt Nam hiện hành.

* Về thời gian, không gian:
Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật tại TAND thành phố Lạng
Sơn, tỉnh Lạng Sơn trong thời gian từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 6 năm 2018.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Triết học Mác Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên cơ sở đó,
sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, phân tích tổng hợp, lịch sử - cụ thể, logic, kết hợp với các phương pháp khác như phương
pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp quan sát; so sánh, đối chiếu.


5
Phương pháp phân tích, tổng hợp: đây là phương pháp chủ yếu được tác
giả sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu. Phương pháp này được tác giả sử dụng
để phân tích và tổng hợp các cơ sở lý luận, việc áp dụng các quy định pháp luật về
đương sự trên thực tiễn. Phương pháp này sẽ được sử dụng ở Chương 1 và Chương 2
của luận văn.
Phương pháp lịch sử: để tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển các quy
định của pháp luật về đương sự. Phương pháp này được tác giả sử dụng chủ yếu tại
Chương 1 của luận văn.
Phương pháp so sánh: dùng để so sánh quy định của BLTTDS năm 2015
với quy định của các văn bản ban hành trước đó và các nguồn tài liệu có liên quan.
Tác giả cũng sử dụng phương pháp này để so sánh các quy định trong BLTTDS
năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 với BLTTDS năm 2015 về đương sự để làm
rõ nội dung của đề tài cần nghiên cứu.
Phương pháp kế thừa: tác giả tiếp thu một cách có chọn lọc những kết quả
nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến đương sự của các tác giả trước. Phương
pháp này sẽ được sử dụng ở Chương 1 và Chương 2 của luận văn.
Phương pháp nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn: dựa trên các quy
định của pháp luật, đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật về đương sự trong
VADS để tìm ra những điểm bất cập, hạn chế, thiếu sót. Phương pháp này được tác
giả sử dụng chủ yếu ở Chương 2 của đề tài.

Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp giải
thích, bình luận để hoàn thành đề tài.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Qua việc nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn góp phần cung cấp cho
khoa học pháp lý những nền tảng lý luận và thực tiễn về đương sự trong vụ việc dân
sự, đồng thời đề ra những kiến nghị , giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế , bất
cập về mặt pháp lý còn tồn tại trong pháp luật về đương s ự theo quy định của pháp
luật hiện hành.
Tác giả hy vọng đ ề tài này s ẽ là một tài liệu khoa học hữu ích cho việc
giảng dạy, học tập, nghiên cứu pháp luật dân sự liên quan đến đương sự trong
PLTTDS Việt Nam hiện hành. Đối với các cơ quan nhà nước, kết quả của đề tài này


6
có thể sử dụng để tham khảo trong quá trình xây dựng, áp dụng pháp luật dân sự
một cách thống nhất.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành về đương sự tại Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn và một
số kiến nghị.


7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐƢƠNG SỰ
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM


1.1. Khái niệm, đặc điểm của đƣơng sự trong pháp luật tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự
Đương sự theo PLTTDS thông thường là các chủ thể độc lập trong một
hoặc nhiều QHPL đang được xem xét, giải quyết trong vụ việc hoặc quan hệ phát
sinh từ việc xem xét, giải quyết vụ việc đó. Do đó, muốn xác định được đầy đủ
đương sự trong vụ việc thì cần phải xác định được những mối quan hệ phải được
giải quyết trong vụ việc đó và những mối quan hệ có liên quan đến việc giải quyết
vụ việc. Một vụ việc mà có nhiều mối quan hệ đan xen của nhiều chủ thể thì vụ việc
đó có thể có nhiều đương sự tham gia và ngược lại trong vụ việc đó chỉ phải giải
quyết một mối quan hệ giữa hai chủ thể thì chỉ hai bên chủ thể đó được xác định là
đương sự.
Ngoài ra, đương sự trong TTDS phải là những chủ thể có quyền, lợi ích liên
quan trực tiếp với việc xem xét, giải quyết vụ việc đó. Vì vậy, để xác định được đầy
đủ những ai là đương sự, trước hết cần xác định rõ bản chất của vụ việc mới có thể
xác định được ai là chủ thể có quyền, lợi ích liên quan trực tiếp với việc giải quyết
vụ việc đó. Tùy thuộc vào từng vụ việc mà thành phần các chủ thể được xác định là
đương sự sẽ khác nhau: có những vụ việc mà việc giải quyết vụ việc này có liên
quan trực tiếp đến quyền lợi của nhiều chủ thể, tuy nhiên có vụ việc thì việc giải
quyết chỉ liên quan trực tiếp đến quyền lợi của hai bên chủ thể. Thông thường
đương sự có quyền, lợi ích được giải quyết ngay trong vụ việc đó. Tuy nhiên,
đương sự cũng còn bao gồm cả những người mà quyền và lợi ích không được giải
quyết ngay trong vụ việc nhưng kết quả giải quyết vụ việc này có ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền, lợi ích của họ. Vì vậy, họ cũng phải được tham gia vào việc giải
quyết vụ việc. Như vậy, theo nghĩa rộng thì đương sự trong một vụ việc là cá nhân,
pháp nhân hoặc các chủ thể khác tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc vì có
quyền, lợi ích liên quan đến việc giải quyết vụ việc.


8

Trong Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học được xuất bản năm 1999 thì
"đương sự là người có quyền, nghĩa vụ được giải quyết trong một khiếu nại hoặc
một vụ án"1. Ngoài ra, theo cuốn Từ điển Luật học của Viện Nghiên cứu khoa học
pháp lý (Bộ Tư pháp) thì đương sự được giải thích như sau:
Cá nhân, pháp nhân tham gia TTDS với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn,
hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự là một trong các nhóm
người tham gia TTDS tại TAND trong các vụ kiện về dân sự, kinh doanh, thương
mại, hôn nhân gia đình và lao động. Những người tham gia TTDS đó bao gồm
đương sự, người đại diện cho đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung, Viện kiểm sát, người làm
chứng, người phiên dịch2.
Qua đó, có thể thấy các nhà luật học đều có một quan niệm chung, đương
sự là những người tham gia vào quá trình giải quyết VADS vì có quyền, nghĩa vụ
được giải quyết trong VADS, bao gồm bên nguyên đơn, bên bị đơn, bên người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Trước khi có BLTTDS việc giải quyết các tranh
chấp ở Tòa án theo các thủ tục tố tụng khác nhau và được quy định trong các văn
bản khác nhau qua các giai đoạn lịch sử khác nhau:
Pháp luật TTDS Việt Nam được hình thành và phát triển ngay sau khi Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch chính phủ lâm
thời đã ra Sắc lệnh số 47/SL cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành của chế độ cũ,
viện dẫn đến việc áp dụng các quy định tố tụng thủ tục tại Nghị định của toàn quyền
Đông Dương và Bộ luật tố tụng thủ tục Pháp. Ngoài ra, Nhà nước ta còn ban hành
hàng loạt các Sắc lệnh trong đó cho phép Tòa án áp dụng thủ tục tố tụng để giải
quyết tranh chấp dân sự, ví dụ: Sắc lệnh 13/S ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa
án và các ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh số 112/SL ngày 28/6/1946 bổ sung Sắc lệnh
51/SL; Sắc lệnh số 130/SL ngày 19/7/1946 quy định thể thức thi hành án; Sắc lệnh số
85/SL ngày 22/5/1950 cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng; Sắc lệnh số 159/SL
ngày 07/11/1950 quy định vấn đề ly hôn. Tuy nhiên, có một thực tế trong giai đoạn đầu
các văn bản TTDS chủ yếu quy định chung về thủ tục TTDS mà không quy định cụ
1. Trường Đại học luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.165.

2. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 278.


9
thể về đương sự. Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, năm 1954 Miền Bắc
hoàn toàn giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước ta cũng rất
quan tâm tới việc xây dựng pháp luật. Đáng kể là sau khi Hiến pháp năm 1959 và
Luật tổ chức TAND năm 1960 được ban hành, TANDTC đã cho xây dựng nhiều
văn bản hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, ví dụ:
Thông tư số 614/DS ngày 24-4-1963 hướng dẫn một số thủ tục tố tụng cho Tòa án
địa phương, Thông tư số 03/NCPL ngày 03-3-1966 về trình tự giải quyết việc ly
hôn, Thông tư số 25/TATC ngày 30-11-1974 hướng dẫn về hòa giải trong TTDS.
Trong số các văn bản pháp luật này, ở mức độ khác nhau đều có quy định về đương
sự trong VADS. Qua đó có thể thấy các quy định về đương sự trong VADS trước năm
1989 còn tản mạn, chưa được hệ thống hóa thành điều khoản riêng quy định về thành
phần đương sự và thiếu cụ thể. Năm 1989 Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
PLTTDS như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989. Đây là văn bản
pháp luật đầu tiên pháp điển hóa những quy định về thủ tục giải quyết VADS, đặc biệt
là đã đề cập trực tiếp đến khái niệm đương sự: "Công dân, pháp nhân tham gia tố tụng
với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong
trường hợp Viện kiểm sát khởi tố hoặc tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung thì
người có quyền lợi được bảo vệ có thể tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn3.
Đến năm 1994, Nhà nước ta đã ban hành PLTTGQCVAKT quy định
"đương sự là cá nhân, pháp nhân"4; năm 1996 ban hành PLTTGQCTCLĐ quy định
"đương sự là cá nhân, tập thể lao động, tổ chức sử dụng lao động".5 Với quy định
như vậy, các tổ chức không có tư cách pháp nhân như tổ hợp tác xã, doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp hợp doanh… không phải là đương sự. Do đó, quy định như
trên không bao quát được tất cả các chủ thể tham gia quan hệ dân sự đã được ghi nhận
trong Bộ luật dân sự (BLDS). Đồng thời chưa liệt kê hết các chủ thể và chưa diễn đạt
chính xác về thành phần đương sự. BLTTDS năm 2015 ra đời đã đánh dấu một

bước tiến trong sự phát triển của ngành luật TTDS. BLTTDS năm 2015 đã khắc phục
được những thiếu sót trong các pháp lệnh và BLTTDS năm 2004 sửa đổi bổ sung
3. Điều 19, Hội đồng nhà nước (1989), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Hà Nội.
4. Điều 20, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1994), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Hà Nội.
5. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1996), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, Hà Nội.


10
năm 2011, đồng thời bao quát được các chủ thể tham gia quan hệ dân sự được quy
định trong BLDS, phạm vi các chủ thể có thể được xác định là đương sự trong VADS
đã có sự mở rộng hơn bao gồm: cơ quan, tổ chức, cá nhân (Điều 68 BLTTDS).
Đối với trường hợp đương sự là "cá nhân" có thể xác định bao gồm công
dân Việt Nam, người không quốc tịch, người nước ngoài. Còn đối với đương sự là
"cơ quan" để xác định khi đương sự là các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, để các cơ
quan nhà nước có thể xác định là đương sự thì cơ quan đó phải có tư cách pháp
nhân. Các bộ phận trực thuộc các cơ quan này hay văn phòng đại diện không có tư
cách pháp nhân thì không được xác định là đương sự trong TTDS.
Trong trường hợp, đương sự trong tố tụng là "tổ chức" thì tổ chức đó phải
có tư cách pháp nhân hoặc những tổ chức không có tư cách pháp nhân nhưng các tổ
chức này tham gia các quan hệ một cách độc lập, không phụ thuộc vào cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác về tài sản, nhân danh mình tham gia các quan hệ một cách độc
lập. Các tổ chức không có tư cách pháp nhân mà hoạt động phụ thuộc vào tổ chức
có tư cách pháp nhân thì tổ chức này không được xác định là đương sự.
Bộ luật TTDS quy định "Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức,
cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu cầu
giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan"6. BLTTDS năm
2015 đã có sự phân định giữa đương sự trong VADS và đương sự trong việc dân sự.
Việc phân định này giúp Tòa án xác định rõ tư cách của đương sự khi tham gia tố
tụng và đảm bảo cho đương sự bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của họ 7.

Tuy nhiên, trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ đề cập đến
đương sự trong quá trình Tòa án giải quyết VADS. Vì vậy, chúng tôi không bình
luận và đánh giá về đương sự trong việc dân sự.
* Nguyên đơn
Trong quá trình giải quyết VADS, nguyên đơn là chủ thể có vai trò khởi
động hoạt động tố tụng và là chủ thể chủ động tham gia vào hoạt động tố tụng. Theo
quy định tại khoản 2 Điều 68 BLTTDS năm 2015 thì: "Nguyên đơn trong vụ án dân
6. Khoản 1 Điều 68, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
7. TS. Bùi Thị Huyền (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nxb Lao động, tr. 112.


11
sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này
quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và
lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy
định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của
Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn".
Theo cách hiểu chung nhất nguyên đơn là người đứng đơn khởi kiện và có
vai trò quan trọng trong VADS so với các đương sự khác. Tuy nhiên, người khởi
kiện và nguyên đơn có thể khác nhau. Thông thường thì người khởi kiện chính là
nguyên đơn nhưng cũng có những trường hợp người được bảo vệ quyền lợi do việc
khởi kiện của chủ thể khác mới được xác định là nguyên đơn. Quyền, nghĩa vụ của
nguyên đơn được thực hiện theo quy định tại Điều 71 BLTTDS năm 2015.
Như vậy, nguyên đơn trong vụ án dân sự là người giả thiết quyền và lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc tranh chấp tự mình khởi kiện hoặc được
người người khác có thẩm quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
* Bị đơn
Bị đơn là chủ thể không thể thiếu trong quá trình Tòa án giải quyết VADS,
theo đó bị đơn là chủ thể bao giờ cũng đi kèm với nguyên đơn. Khi đã xác định tư

cách nguyên đơn thì cũng đồng thời với việc xác định tư cách bị đơn. Việc tham gia
tố tụng của nguyên đơn mang tính chất chủ động, còn việc tham gia tố tụng của bị
đơn mang tính chất bị động do bị bắt buộc tham gia tố tụng.
Khoản 3 Điều 68 BLTTDS năm 2015 quy định: "Bị đơn trong vụ án dân sự
là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật
này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm".
Cá nhân, cơ quan, tổ chức được xác định là bị đơn trong VADS khi có đặc
điểm sau: là người bị nguyên đơn hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
theo quy định của BLTTDS khởi kiện. Khi các chủ thể khởi kiện thực hiện việc
khởi kiện đối với đích danh ai ghi rõ trong đơn khởi kiện thì người đó được xác
định là bị đơn. Thông thường bị đơn chính là chủ thể trực tiếp trong mối QHPL nội
dung với nguyên đơn. Tuy nhiên, để xác định bị đơn Tòa án cần phải căn cứ vào các


12
quy định của pháp luật nội dung để xác định trong mỗi trường hợp cụ thể ai mới là
chủ thể trong QHPL nội dung với nguyên đơn. Thông thường, khi nguyên đơn khởi
kiện và để được Tòa án thụ lý giải quyết thì nguyên đơn hoặc chủ thể khởi kiện đã
cung cấp được các chứng cứ để chứng minh yêu cầu của mình là hợp pháp. Do đó,
đa số các trường hợp thực tế bị đơn là người có xâm phạm hoặc tranh chấp với
nguyên đơn. Trong thực tiễn có thể xuất hiện trường hợp nguyên đơn hoặc các chủ
thể khởi kiện đã khởi kiện không đúng chủ thể có vi phạm hoặc tranh chấp với
nguyên đơn nhưng Tòa án vẫn thụ lý. Sau khi Tòa án thụ lý, Tòa án vẫn xác định
chủ thể bị kiện trong trường hợp này là bị đơn, Tòa án sẽ giải quyết VADS và
không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Nguyên đơn sẽ phải khởi kiện đối với bị
đơn đích thực ở một VADS khác. Quyền, nghĩa vụ của bị được được thực hiện theo
quy định tại điều 71 BLTTDS năm 2015.
Như vậy, bị đơn là người bị nguyên đơn hoặc bị người khác có thẩm quyền
khởi kiện theo quy định của pháp luật khi cho rằng đã vi phạm hoặc tranh chấp với

nguyên đơn.
* Đồng nguyên đơn, đồng bị đơn
Theo quy định tại Điều 188 BLTTDS năm 2015, trong một VADS có thể có
nhiều nguyên đơn, nhiều bị đơn. Đối với những vụ án mà giữa các nguyên đơn, giữa
các bị đơn không mâu thuẫn với nhau về quyền và lợi ích, các lợi ích của họ không
chống lại nhau, các yêu cầu phản tố hay phản yêu cầu (ý kiến phản đối) của họ không
loại trừ nhau thì cần quy định họ là đồng nguyên đơn, đồng bị đơn. Các đồng nguyên
đơn, đồng bị đơn thường gắn liền với tính nhiều chủ thể của các QHPL nội dung đang
tranh chấp (quan hệ nghĩa vụ, quan hệ sở hữu chung; quan hệ hôn nhân...). Đối với
những VADS có nhiều nguyên đơn, nhiều bị đơn nhưng giữa các nguyên đơn, giữa
các bị đơn với nhau có mâu thuẫn về quyền và lợi ích hoặc nhiều nguyên đơn kiện một
bị đơn theo nhiều vấn đề khác nhau thì không phải là đồng nguyên đơn, đồng bị đơn.
Việc phân chia này sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định quyền, nghĩa vụ tố
tụng của mỗi đương sự trong từng trường hợp này. Tuy nhiên, BLTTDS năm 2015
lại không có quy định như thế nào là đồng nguyên đơn, đồng bị đơn trong VADS và
quyền, nghĩa vụ của đồng nguyên đơn, đồng bị đơn. Trong khi đó thực tiễn đòi hỏi
phải có những quy định về chủ thể này làm cơ sở cho việc giải quyết tại Tòa án.


13
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Theo quy định khoản 4 Điều 68 BLTTDS 2015 "người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan trong VADS là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc
giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự
mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan". Như vậy,
để có thể xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì trước hết các chủ thể
này phải có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến VADS mà Tòa án đang giải quyết, đồng
thời phải được Tòa án đưa họ vào tham gia tố tụng do thấy cần thiết hoặc theo yêu
cầu của chính họ hay của đương sự khác. Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi

nghĩa vụ liên quan được thực hiện theo quy định tại Điều 73 BLTTDS năm 2015.
So với nguyên đơn, bị đơn thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có các
đặc điểm sau đây:
- Về thời điểm tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
tham gia vào VADS đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
- Kết quả Tòa án giải quyết tranh chấp giữa nguyên đơn, bị đơn có thể ảnh
hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Sự liên quan về quyền và lợi ích với
việc giải quyết mối quan hệ giữa nguyên đơn và bị đơn là lý do tham gia của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Họ có thể bảo vệ lợi ích của mình bằng cách đưa ra yêu cầu độc lập hoặc
không đưa ra yêu cầu độc lập, đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn để chống lại
đương sự phía bên kia.
Như vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người tham gia vào
VADS đã phát sinh giữa nguyên đơn, bị đơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp của
mình bằng việc đưa ra yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn
hoặc bị đơn.
Khoản 2, 3, 4 Điều 68 của BLTTDS năm 2015 đã đề cập đến khái niệm về
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng không có quy
định rõ về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và không có
yêu cầu độc lập. Trong khi đó, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 73 BLTTDS


14
thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan "có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia
tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn", được phân biệt như sau:
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người tham
gia vào VADS đã xảy ra giữa nguyên đơn, bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình và việc tham gia tố tụng của họ độc lập với nguyên đơn, bị đơn. Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cho rằng đối tượng, phần đối

tượng tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là thuộc về họ, chứ không phải thuộc
về nguyên đơn hay bị đơn, do vậy yêu cầu của họ có thể chống lại cả nguyên đơn,
bị đơn hoặc trong một số trường hợp yêu cầu của họ chỉ chống nguyên đơn hoặc chỉ
chống lại bị đơn. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp yêu cầu của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không phụ thuộc vào yêu cầu của nguyên đơn, bị
đơn. Vì có yêu cầu độc lập với cả nguyên đơn và bị đơn nên thông thường người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có đủ điều kiện pháp lý để khởi kiện
VADS để Tòa án giải quyết yêu cầu của mình, nhưng do VADS đã phát sinh giữa
nguyên đơn và bị đơn, nên họ phải tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, nếu không tham gia ngay vào VADS đã phát sinh giữa nguyên đơn
và bị đơn mà khởi kiện thành VADS khác để bảo vệ quyền lợi cho mình thì việc
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ sau đó sẽ gặp khó khăn, phức tạp hơn.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía
nguyên đơn hoặc bị đơn là người tham gia vào vụ án đã xảy ra giữa nguyên đơn, bị
đơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, việc tham gia tố tụng của họ
luôn phụ thuộc vào việc tham gia tố tụng của nguyên đơn hoặc bị đơn. Quyền, lợi
ích luôn gắn liền với quyền, lợi ích của nguyên đơn hoặc bị đơn nên họ không thể
đưa ra yêu cầu độc lập với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn. Vì vậy, họ không thể
khởi kiện để Tòa án giải quyết ở vụ án riêng, mà bản án, quyết định của Tòa án giải
quyết vụ án ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của họ trong mối quan hệ với bên
nguyên đơn hoặc bị đơn.
Pháp luật hiện hành lại không có quy định rõ ràng về khái niệm người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn đã dẫn đến một thực
tế tại các Tòa án khi giải quyết các VADS chỉ xác định tư cách một chủ thể nào đó là


15
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chung chung mà không xác định cụ thể chủ thể
đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hay không có yêu

cầu độc lập. Vì vậy, BLTTDS cũng cần bổ sung quy định tại về khái niệm người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và khái niệm người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn.
Tóm lại, đương sự trong VADS là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể
khác có quyền, nghĩa vụ hoặc cần phải xác định tham gia vào quá trình Tòa án giải
quyết VADS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.1.2. Đặc điểm của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự
Đương sự trong VADS là người tham gia TTDS. Do vậy, đương sự có đầy
đủ các đặc điểm của người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, mục đích đương sự tham
gia tố tụng là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình, những người
tham gia tố tụng khác tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
hoặc để hỗ trợ cho hoạt động tố tụng. Vì vậy, so với những người tham gia tố tụng
khác, đương sự còn có những đặc điểm khác biệt sau đây:
- Đương sự trong VADS là chủ thể của QHPL nội dung có quyền, lợi ích bị
xâm phạm hoặc cần được xác định trong VADS. Sự liên quan về quyền, lợi ích của
đương sự đối với quá trình giải quyết VADS có thể trực tiếp hoặc gián tiếp.
Tiền đề của việc trở thành đương sự trong VADS là trước đó các chủ thể đã
tham gia vào một QHPL nội dung (quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân và gia đình,
quan hệ kinh doanh thương mại, quan hệ lao động); họ đều có quyền, lợi ích gắn
liền với các quan hệ đó. Lợi ích đó có thể là lợi ích vật chất phát sinh từ tài sản hoặc
là các lợi ích tinh thần phát sinh từ các giá trị nhân thân như danh dự, uy tín, nhân
phẩm… Khi có tranh chấp phát sinh từ các quan hệ nội dung, các chủ thể tham gia
vì để bảo vệ quyền, lợi ích của mình đã đưa ra các yêu cầu thông qua việc khởi kiện
đề nghị Tòa án giải quyết. Đương sự muốn khởi kiện thì trước hết họ phải chứng
minh rằng họ có quyền, lợi ích cần được giải quyết trong vụ án đó. Vì vậy, về
nguyên tắc, cá nhân và tổ chức để trở thành đương sự trong VADS thì phải có
quyền và lợi ích liên quan đến việc giải quyết VADS.
Quyền, lợi ích của đương sự đối với quá trình giải quyết VADS có thể liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp. Khi Tòa án giải quyết VADS thì Tòa án sẽ xem xét



16
quyết định đến quyền và nghĩa vụ cho các đương sự, đây chính là sự liên quan trực
tiếp. Có trường hợp khi giải quyết VADS, Tòa án có thể không giải quyết đến
quyền lợi của người này ngay trong VADS, nhưng kết quả giải quyết VADS là cơ
sở quan trọng xác định quyền, lợi ích của họ trong các mối QHPL có tính phái sinh
từ quan hệ đã được Tòa án giải quyết. Chẳng hạn, khi người bị thiệt hại khởi kiện
pháp nhân để đòi bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra trong khi thực
hiện nhiệm vụ của pháp nhân giao thì Tòa án chỉ giải quyết buộc pháp nhân bồi
thường cho người bị thiệt hại mà không giải quyết việc buộc người của pháp nhân
phải bồi hoàn cho pháp nhân. Tuy nhiên, việc Tòa án quyết định mức bồi thường
của pháp nhân là bao nhiêu sẽ là cơ sở xác định nghĩa vụ hoàn lại cho ngừời của
pháp nhân đối với khoản tiền mà pháp nhân đã bồi thường trước đó.
- Đương sự là chủ thể được Tòa án chấp nhận tham gia vào quá trình giải
quyết VADS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đương sự có thể mong
muốn tham gia hoặc buộc phải tham gia vào hoạt động tố tụng do việc khởi động vụ
án của nguyên đơn hoặc người yêu cầu và được Tòa án thụ lý giải quyết.
Tham gia vào quá trình tố tụng trước hết là để các đương sự bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, đương sự cần đưa ra yêu cầu, nêu ra các ý
kiến đồng thời cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của mình là hợp
pháp và có căn cứ với mong muốn để Tòa án giải quyết bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết các VADS. Đối với các cá nhân, tổ
chức hay các chủ thể khác mà khởi kiện hoặc yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác thì người khởi kiện, người yêu cầu tham gia với tư cách là
đại diện của đương sự, còn đương sự là chủ thể được bảo vệ quyền lợi.
- Đương sự là có thể tham gia tố tụng độc lập hoặc thông qua người đại
diện. Những quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự mà pháp luật quy định là cơ
sở để các đương sự có điều kiện thuận lợi như nhau khi tham gia vào VADS nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Pháp luật quy định các quyền, nghĩa vụ chung của đương sự, nhưng các

đương sự ở các tư cách tố tụng khác nhau lại có quyền, nghĩa vụ khác nhau. Khi có
đủ điều kiện về năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố
tụng thì đương sự có thể tham gia độc lập trong VADS. Tuy nhiên, trong trường


17
hợp đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức làm chủ
hành vi hoặc tổ chức có tư cách pháp nhân thì tùy từng trường hợp, người đại diện
của đương sự có thể thay mặt đương sự để tham gia vào quá trình giải quyết VADS
nhằm thực hiện những quyền và nghĩa vụ của đương sự. Trường hợp đương sự có lý
do không thể trực tiếp tham gia tố tụng, họ có thể ủy quyền cho người khác thay
mặt mình tham gia tố tụng, trừ một số trường hợp pháp luật quy định không được
ủy quyền.
- Đương sự là chủ thể có quyền tự định đoạt việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình, là cơ sở để phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quá trình giải
quyết VADS. Chỉ có đương sự mới có quyền tự định đoạt trong việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ về tố tụng. Các chủ thể tố tụng khác có nghĩa vụ tôn trọng và bảo
đảm quyền tự định đoạt của đương sự.
Tòa án giải quyết VADS thực chất là giải quyết các yêu cầu của đương sự.
Chỉ khi các chủ thể này đưa ra yêu cầu thì Tòa án mới giải quyết nên khi các chủ
thể đó thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu hay đưa ra ý kiến của mình thì hoạt động
tố tụng bị thay đổi hoặc chấm dứt.
1.2. Năng lực chủ thể của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
1.2.1. Năng lực pháp luật
Một trong những điều kiện để chủ thể tham gia độc lập vào một QHPL là
chủ thể đó phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Thông thường chủ thể có
năng lực pháp luật là đã có thể trở thành chủ thể của một QHPL. Chẳng hạn, một cá
nhân sinh ra đã có thể trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu tài sản khi cá nhân đó
được thừa kế hợp pháp hoặc được tặng cho tài sản hay nếu cá nhân này bị thiệt hại

do hành vi trái pháp luật của người khác thì cá nhân đó là bên được bồi thường
trong quan hệ bồi thường thiệt hại v.v... Tuy nhiên, trong một số trường hợp chủ thể
đã có năng lực pháp luật nhưng để trở thành chủ thể của QHPL thì phải có năng lực
hành vi ở một mức độ nhất định mới trở thành chủ thể của QHPL.
Một chủ thể chỉ có quyền tham gia tố tụng khi được pháp luật thừa nhận có
năng lực PLTTDS. Năng lực PLTTDS của cá nhân gắn liền với sự tồn tại của cá
nhân, có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi cá nhân đó chết. Như vậy, năng


18
lực PLTTDS của cá nhân chính là thuộc tính gắn liền với cá nhân suốt đời và không
bị ảnh hưởng bởi trạng thái tinh thần, tuổi tác, hoàn cảnh, tài sản… mọi cá nhân đều
bình đẳng về năng lực PLTTDS. Năng lực PLTTDS của tổ chức xuất hiện khi tổ
chức đó được thành lập và chấm dứt khi tổ chức đó không còn tồn tại.
Nội dung của năng lực PLTTDS của đương sự là toàn bộ các quyền và
nghĩa vụ TTDS mà đương sự có được theo quy định của pháp luật. Mặc dù, năng
lực PLTTDS và năng lực pháp luật dân sự có mối liên hệ mật thiết với nhau, nhưng
năng lực PLTTDS của đương sự có sự độc lập tương đối. Do vậy, khi quy định các
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS không chỉ đáp ứng yêu cầu phù hợp
và dựa trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ về nội dung mà phải đáp ứng được các yêu
cầu khác như: bảo đảm cho các đương sự có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận
công lý; bảo đảm cho các đương sự được bình đẳng và tự định đoạt trong việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; bảo đảm phù hợp với khả năng, điều kiện
thực tế để thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó; khả năng, điều kiện bảo đảm thực hiện
quyền, nghĩa vụ v.v…
Tại khoản 1 Điều 69 BLTTDS năm 2015 quy đinh "Năng lực pháp luật tố
tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật
quy định. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như
nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình".
Theo đó, nội dung của năng lực PLTTDS là các quyền và nghĩa vụ TTDS

mà pháp luật quy định cho đương sự. Nhìn chung, PLTTDS của các nước và
PLTTDS Việt Nam hiện hành đều quy định mọi cá nhân, tổ chức có năng lực
PLTTDS như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Việc pháp luật ghi nhận mỗi quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự là nhằm
bảo đảm cho đương sự có điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất để tham gia tố tụng
nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp về nội dung của mình.
Điều 69 BLTTDS không quy định về thời điểm bắt đầu, chấm dứt năng lực
PLTTDS của đương sự. Tuy nhiên, năng lực PLTTDS có liên quan mật thiết với
năng lực pháp luật dân sự. Vì vậy, năng lực PLTTDS của cá nhân cũng xuất hiện từ
khi cá nhân đó được sinh ra và mất đi khi cá nhân đó chết, năng lực pháp luật của tổ
chức xuất hiện khi tổ chức đó được thành lập và chấm dứt khi tổ chức đó chấm dứt.


19
1.2.2. Năng lực hành vi
Năng lực hành vi là một phạm trù phức tạp có liên quan đến yếu tố chủ
quan như khả năng nhận thức, khả năng hành động, ý chí và lý trí. Năng lực hành vi
của chủ thể QHPL có những thay đổi nhất định tuỳ theo tính chất của QHPL mà chủ
thể đó tham gia. Trong một số QHPL, chủ thể có năng lực hành vi hạn chế còn ở
những QHPL khác thì chủ thể lại có năng lực hành vi từng phần.
Năng lực hành vi TTDS của đương sự là khả năng bằng hành vi của mình
thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS. Năng lực hành vi TTDS khác với năng lực
PLTTDS. Trong khi năng lực pháp luật tố tụng của các đương sự là bình đẳng, thì
năng lực hành vi không bình đẳng và được xác định ở các mức độ khác nhau. Năng
lực hành vi TTDS có mối liên hệ mật thiết với năng lực hành vi dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh - thương mại, lao động.
Chủ thể có năng lực PLTTDS đã có thể trở thành đương sự trong TTDS.
Tuy nhiên, để có thể là đương sự độc lập tham gia tố tụng thì đương sự phải có năng
lực hành vi TTDS. Vì vậy, khoản 2 Điều 69 BLTTDS quy định, "Năng lực hành vi
tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc

ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự". Theo quy định của PLTTDS
hiện hành cá nhân chỉ được coi là có năng lực hành vi TTDS đầy đủ khi đã đủ từ
mười tám tuổi trở lên, không bị mất năng lực hành vi dân sự, hoặc pháp luật có quy
định khác. Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi thì năng lực hành vi TTDS của họ được xác định
theo quyết định của Tòa án (khoản 3 Điều 69 BLTTDS 2015). Đương sự là người
chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực
hành vi TTDS. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS của đương sự, việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp
pháp của họ thực hiện. Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi
thì việc thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực
hiện (khoản 4, 5 Điều 69 BLTTDS năm 2015). Đương sự là người từ đủ mười lăm
tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc
giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về


20
những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong
trường hợp này, Tòa án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia
tố tụng. Đối với những việc khác, việc thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS của đương
sự tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện (khoản 6 Điều 69
BLTTDS năm 2015).
1.3. Các quy định về một số quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự
1.3.1. Quyền tự định đoạt của đương sự
Các quyền tố tụng về tự định đoạt của đương sự được xây dựng trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của BLTTDS như quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp (Điều 4); quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5);
cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS (Điều 6); đảm bảo tranh trụng trong

xét xử (Điều 24); bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của đương sự (Điều 25). Trong
số các nguyên tắc này thì nguyên tắc quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp và nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự được coi là
nguyên tắc quan trọng là cơ sở để cho các nguyên tắc khác. Theo quy định của
BLTTDS năm 2015 thì "Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa
án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân
sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó"8. Do vậy, tất cả các quan hệ tố tụng được xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt đều dựa trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận và bình đẳng
giữa các chủ thể. Tuy nhiên, sự tự định đoạt của đương sự chỉ được thực hiện trong
khuôn khổ mà pháp luật quy định. Có như vậy mới đảm bảo tính hợp pháp, hợp
hiến, tạo tiền đề cho quyền tố tụng của đương sự được đảm bảo thực hiện. Trên cơ
sở quyền tự định đoạt của đương sự mà pháp luật hiện hành đã ghi nhận các quyền
tố tụng như quyền đưa ra yêu cầu tố tụng; quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu tố
tụng; quyền tự thỏa thuận, hòa giải; quyền kháng cáo, quyền khiếu nại bản án, quyết
định của Toà án và đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm.
8. Khoản 1, Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.


×