Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

PHÁP LUẬT ưu đãi xã hội và THỰC TIỄN THỰC HIỆN tại TỈNH LẠNG sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THỊ TUYẾT NHUNG

PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI XÃ HỘI
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THỊ TUYẾT NHUNG

PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI XÃ HỘI
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH LẠNG SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số


: 8 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hữu Chí

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hoàng Thị Tuyết Nhung


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI XÃ HỘI VÀ NỘI
DUNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ƯU ĐÃI
XÃ HỘI

7


1.1. Khái niệm pháp luật ưu đãi

7

1.2. Nội dung quy định pháp luật hiện hành về ưu đãi xã hội ở Việt Nam

17

Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI XÃ HỘI
TẠI TỈNH LẠNG SƠN

32

2.1. Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn

32

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật ưu đãi xã hội trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

34

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI XÃ HỘI TẠI
TỈNH LẠNG SƠN

55

3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội


56

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội

61

3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ưu đãi
xã hội trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

68

KẾT LUẬN

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Các đối tượng hiện nay đã tổ chức xác nhận và thực hiện chính

sách ưu đãi xã hội tại tỉnh Lạng Sơn

43


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật ưu đãi xã hội (ưu đãi đối với người có công) chiếm một vị trí vô
cùng quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam. Pháp luật ưu đãi xã
hội là minh chứng hùng hồn cho truyền thống: "Uống nước nhớ nguồn", "Đền ơn
đáp nghĩa", "Ăn quả nhớ người trồng cây" của dân tộc ta, là nghĩa tình, là sự biết ơn
và kính trọng của lớp lớp thế hệ sau đối với những lớp người đã hy sinh xương máu
vì độc lập tự do của Tổ quốc trong mọi thời đại.
Thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi thương binh, liệt sĩ, người có công với
cách mạng và nhân thân luôn được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm. Chủ
tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng và nêu lên những quan điểm về ưu đãi người
có công với cách mạng. Người đã khẳng định: "Thương binh, bệnh binh, gia đình
quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân.
Cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu giúp đỡ họ...".
Người đã chỉ thị lấy ngày 27 tháng 7 hàng năm là ngày để đồng bào cả nước thể
hiện tình nghĩa đối với những người có công, những gia đình chính sách. Một khi
chính sách ưu đãi người có công được quan tâm đúng mức và được thực hiện tốt, có
hiệu quả, đảm bảo được sự công bằng và công khai sẽ tạo ra niềm tin vào một chế
độ xã hội tốt đẹp cho mọi thành viên trong xã hội, là sự động viên, khích lệ người
có công tiếp tục cống hiến, hy sinh vì Tổ quốc phồn vinh và bền vững. Qua đó cũng
là động lực cho lớp trẻ cũng như mọi thành viên trong xã hội phấn đấu, hy sinh
không mệt mỏi vì một đất nước Việt Nam độc lập, phồn vinh và thịnh vượng.
Phát huy truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", "Đền ơn đáp nghĩa", "Ăn

quả nhớ người trồng cây" trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành
nhiều chính sách, chế độ để chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của người có
công, giải quyết có hiệu quả những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh. Các
chính sách của Nhà nước đóng vai trò là nền tảng, hỗ trợ những yêu cầu cơ bản và
quan trọng nhất trong cuộc sống của người có công. Sự hỗ trợ đó thay đổi theo thời


2

gian với xu hướng ngày càng tăng cùng với sự phát triển nền kinh tế, mức tăng
trong cuộc sống của toàn dân.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII trình
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng ghi rõ: "Thực hiện chính
sách ưu đãi xã hội và vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa,
uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với
nước, Bà mẹ Việt nam anh hùng, thương binh và cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình
chính sách". Nghị quyết Đại hội IX, X, XI, XII của Đảng đã nêu rõ mục tiêu chăm
lo tốt hơn đời sống đối với gia đình người có công với cách mạng, đảm bảo tất cả
các gia đình chính sách có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình của
cộng đồng.
Từ những quan điểm đó, qua các thời kỳ chính sách, chế độ ưu đãi người có
công với cách mạng và thân nhân của họ từng bước được bổ sung, hoàn thiện căn
bản, đã phát triển tương đối toàn diện cả về công tác chăm sóc đời sống, sắp xếp
việc làm, ưu đãi vật chất và tinh thần, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội,
của các ngành các cấp.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế đã có sự tăng trưởng vượt
bậc, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao đáng kể, do đó
chính sách dành cho người có công cũng từ đó có những bước tiến rõ rệt, góp phần
làm ổn định đời sống mọi mặt của người có công, đảm bảo sự công bằng xã hội. Cải

cách hành chính trong thực hiện chính sách ưu đãi người có công ngày càng có
nhiều tiến bộ. Địa phương, cơ sở được phân cấp rõ ràng. Đối tượng hưởng chính
sách sẽ thuận lợi hơn rất nhiều khi làm các thủ tục hành chính nhận sự hỗ trợ của
Nhà nước.
Trong những năm qua, chính sách ưu đãi người có công với cách mạng
được triển khai thực hiện trên khắp các vùng miền của đất nước. Ở mỗi địa phương,
việc thực hiện chính sách có sự điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với đặc điểm, tình
hình riêng. Lạng Sơn là một trong những tỉnh luôn quan tâm trong công tác thực


3

hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Tỉnh Lạng Sơn nói chung, Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội, phòng Lao động - Thương binh và Xã hội các
huyện, thành phố nói riêng, luôn thực hiện chi trả trợ cấp đúng thời hạn, đầy đủ,
cùng các chương trình chăm sóc người có công khác, với thái độ phục vụ tốt nhất,
đáp ứng nhu cầu cần thiết của đối tượng người có công. Hiện nay, công tác thực
hiện chính sách ưu đãi người có công của tỉnh là rất tốt, song vẫn còn tồn tại những
hạn chế nhất định.
Tuy nhiên, pháp luật về ưu đãi xã hội hiện nay còn một số mặt hạn chế. Có
thể thấy như mức trợ cấp còn thấp so với tốc độ gia tăng giá cả của đời sống xã hội
đã dẫn đến tình trạng đời sống của nhiều người, nhiều gia đình chính sách chưa
được bảo đảm. Thủ tục để được công nhận là đối tượng chính sách (liệt sĩ, thương
binh...) nhìn chung là đầy đủ, khá đơn giản nhưng lại không linh hoạt; thực tiễn tồn
tại rất nhiều trường hợp do thời gian hay những lý do khác đã không đáp ứng được
những yêu cầu về mặt thủ tục, giấy tờ mà pháp luật yêu cầu nên đã không được
công nhận là đối tượng chính sách để được hưởng ưu đãi xã hội...
Với mục đích tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật ưu
đãi xã hội và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn để từ đó tìm ra những
hạn chế của pháp luật ưu đãi xã hội, nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật

này. Đó chính là lý do mà tôi đã lựa chọn đề tài "Pháp luật ưu đãi xã hội và thực
tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn" để nghiên cứu, làm luận văn thạc sĩ Luật học
của mình.
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Thực hiện chính sách pháp luật, chế độ ưu đãi đối với người có công hiện
nay là vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Từ trước đến nay có rất nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm đến đề tài pháp luật đối với người có công như: Đổi mới chính sách
xã hội - Luận cứ và giải pháp, của GS. Phạm Xuân Nam (Chủ biên) năm 1993;
Một số suy nghĩ hoàn thiện pháp luật ưu đãi người có công, của TS. Nguyễn Đình
Liêu năm 2000; Những nguyên tắc cơ bản của an sinh xã hội, của TS. Lưu Bình
Nhưỡng năm 2004; Một số vấn đề cơ bản về chính sách xã hội ở Việt Nam hiện


4

nay, năm 2013 của GS.TS Mai Ngọc Cường (Chủ biên); Thực hiện chính sách ưu
đãi xã hội đối với người có công, của Hoàng Công Thái, Tạp chí Quản lý nhà nước,
số 7/ 2005; Chế độ trợ cấp ưu đãi mới đối với người có công, của Tạ Vân Thiều,
Tạp chí Lao động & Xã hội, số 278, tháng 1/2006; Chính sách xã hội của đảng
trong hơn hai mươi năm đổi mới, của TS. Nguyễn Thị Thanh (Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh); Nâng cao năng lực của cơ quan hành chính nhà nước
trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng ở nước ta hiện nay,
của Phạm Hải Hưng, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành
chính Quốc gia, 2007; Hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội ở Việt Nam, của Nguyễn
Thị Tuyết Mai, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; Pháp
luật ưu đãi xã hội qua thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, của Lê Minh Sơn, Luận văn thạc
sĩ Luật học, Viện Đại học Mở Hà Nội, 2015; Pháp luật ưu đãi người có công từ thực
tiễn tỉnh Lạng Sơn, của Cầm Thúy Vân, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Đại học Mở
Hà Nội, 2016...
Luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật về ưu đãi

xã hội, người có công. Trong nội dung của đề tài, tác giả đã đưa ra những nhận xét,
đánh giá thực tiễn cũng như những hạn chế của pháp luật ưu đãi xã hội, người có
công; từ đó nêu lên những kiến nghị có thể được áp dụng để hoàn thiện hơn pháp
luật về ưu đãi xã hội, người có công.
Kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận văn này từ việc
nghiên cứu, phân tích thực tiễn pháp luật ưu đãi người có công ở tỉnh Lạng Sơn đã
đưa ra những phương hướng và kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa những quy định
của pháp luật về lĩnh vực này.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hoàn thành luận văn, chưa có một công trình
nghiên cứu, đánh giá chuyên sâu về pháp luật ưu đãi người có công trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về
pháp luật ưu đãi người có công trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Trong nội dung của


5

đề tài, tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn cũng như những hạn
chế của pháp luật ưu đãi xã hội, người có công từ đó nêu lên những kiến nghị có
thể được áp dụng để hoàn thiện hơn pháp luật về ưu đãi xã hội, người có công
góp phần nâng cao đời sống, đảm bảo công bằng cho các đối tượng được hưởng
ưu đãi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chế độ ưu đãi người có công.
Phạm vi nghiên cứu, đề tài nghiên cứu về chế độ ưu đãi xã hội, người có
công ở tỉnh Lạng Sơn. Do vậy chế độ ưu đãi người có công được nghiên cứu ở đây
gồm: chính sách chăm sóc người có công, cơ chế bảo đảm việc hưởng quyền cho
người có công, thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ ưu đãi người có công trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp nghiên cứu lý thuyết và tổng
kết thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống, so sánh,
điều tra, thống kê phân tích, đánh giá trên cơ sở báo cáo tổng hợp, điều tra về tình
hình kinh tế xã hội và hoạt động thực hiện chế độ ưu đãi người có công để làm rõ
các vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của Luận văn
Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề khái quát chung
về pháp luật ưu đãi xã hội, người có công.
Phân tích vai trò, ý nghĩa cũng như những nguyên tắc điều chỉnh xuyên suốt
pháp luật ưu đãi xã hội, người có công.
Phân tích thực trạng pháp luật ưu đãi người có công từ thực tiễn tỉnh Lạng
Sơn, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội,
người có công.
Đưa ra những vấn đề cơ bản cũng như mô hình để xây dựng pháp luật ưu
đãi xã hội, người có công ở Việt Nam.


6

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về pháp luật ưu đãi xã hội và nội dung quy định pháp
luật hiện hành về ưu đãi xã hội.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật ưu đãi xã hội tại tỉnh Lạng Sơn.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật ưu đãi xã hội tại tỉnh Lạng Sơn.



7

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI XÃ HỘI VÀ NỘI DUNG
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ƯU ĐÃI XÃ HỘI
1.1. Khái niệm pháp luật ưu đãi
1.1.1. Khái niệm ưu đãi xã hội
Ở Việt Nam khái niệm ưu đãi xã hội gắn liền với khái niệm người có công
với cách mạng. Ngay sau khi giành được chính quyền, từ những ngày đầu của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh số 20/SL ngày
16/02/1947 về "Ưu đãi người có công", nhưng đến khi Nhà nước ban hành Pháp
lệnh người có công với cách mạng, thì khái niệm người có công với cách mạng mới
được nêu đầy đủ theo hai nghĩa sau:
Theo nghĩa rộng: Người có công là những người không phân biệt tôn giáo, tín
ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ,
hiến dâng cả cuộc đời mình cho sự nghiệp dựng nước, giữ nước và kiến thiết đất nước.
Họ là những người có thành tích đóng góp, những cống hiến xuất sắc phục vụ cho
lợi ích của đất nước, của dân tộc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận
theo quy định của pháp luật. Ở đây có thể thấy rõ những tiêu chí cơ bản của người
có công, đó là phải có đóng góp, cống hiến xuất sắc và vì lợi ích của dân tộc. Những
đóng góp, cống hiến của họ có thể là trong các cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do
cho Tổ quốc và cũng có thể là trong công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước.
Theo nghĩa hẹp: Người có công là những người không phân biệt tôn giáo,
tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc
trong thời kỳ cách mạng tháng Tám năm 1945, trong các cuộc kháng chiến giải
phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận
theo quy định của pháp luật. Ở khái niệm này, Người có công bao gồm những người
đã hy sinh xương máu hoặc một phần thân thể của mình trong hoạt động giúp đỡ
cách mạng, hoặc cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng và được các

cơ quan tổ chức có thẩm quyền công nhận.


8

Phạm trù người có công rất rộng, trong phạm vi hẹp đối tượng người có
công là những người có công trong các cuộc kháng chiến trường kỳ giải phóng dân
tộc và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 2 Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng số
26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29/6/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI
(Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005) và Pháp lệnh số
04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIII
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng
năm 2005, đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi gồm:
- Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945;
- Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi
nghĩa Tháng Tám năm 1945;
- Liệt sĩ;
- Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân;
- Anh hùng lao động thời kì kháng chiến;
- Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;
- Bệnh binh;
- Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;
- Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày;
- Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế;
- Người có công giúp đỡ cách mạng.
- Thân nhân của người có công với cách mạng.
Tất cả những đối tượng được coi là người có công bao giờ cũng được Nhà

nước và xã hội dành cho những ưu tiên, những đãi ngộ hơn mức bình thường so với
các đối tượng khác trong mọi mặt của đời sống xã hội. Những ưu tiên, đãi ngộ hơn
mức bình thường ấy chính là ưu đãi xã hội.


9

1.1.2. Định nghĩa pháp luật ưu đãi xã hội
Ở bất kỳ thời kỳ nào của một quốc gia, một dân tộc đều có những con người
cống hiến hết mình cho hòa bình, ổn định và sự phát triển bền vững của đất nước.
Những sự cống hiến đó đều được Đảng, Nhà nước và xã hội ghi nhận, tôn vinh và
biết ơn thông qua những ưu đãi về cả vật chất lẫn tinh thần mà Đảng, Nhà nước, xã
hội dành cho họ.
Trải qua hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, với các chế độ chính trị xã
hội khác nhau, với những quan niệm về con người, xã hội, chính trị… khác nhau,
nhưng có thể khẳng định dù ở bất kỳ thời kỳ nào, giai đoạn lịch sử nào, chế độ nào
của đất nước thì những người có công với đất nước đều được suy tôn và chính
quyền luôn có chính sách ưu đãi đối với họ. Ở mỗi thời kỳ, chế độ khác nhau thì
chính sách đối với người có công cũng khác nhau. Nhưng suy cho cùng thì chính
sách ưu đãi đối với người có công là sự ghi nhận những công lao của họ cho đất
nước, là những chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần, là sự bày tỏ lòng biết ơn đến
những người đã hy sinh, đã cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.
Với đặc điểm lịch sử của dân tộc Việt Nam, lịch sử của những cuộc đấu
tranh dựng nước, giữ nước và giành độc lập cho dân tộc nên những người có công
là một bộ phận lớn những người đã hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc, đó là những Bà mẹ Việt Nam anh hùng, những thương binh, liệt sĩ, người có
công giúp đỡ cách mạng,… Họ là những người có công với cách mạng, với đất
nước, được Nhà nước và nhân dân ghi nhận, biết ơn sâu sắc. Do vậy, ưu đãi xã hội
xét ở một góc độ nào đó chính là những ưu đãi đối với người có công với cách
mạng (pháp luật ưu đãi xã hội Việt Nam hiện nay chỉ quy định về đối tượng này).

Tuy nhiên, những người có công với đất nước không chỉ bao gồm những
người có công với cách mạng, những người đã xả thân vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc,
vì độc lập dân tộc. Bên cạnh đó còn một bộ phận những người đã cống hiến, hy sinh
hết sức mình để bảo vệ, xây dựng và giữ vững đất nước không phải chỉ trong thời
chiến mà cả trong thời bình, họ đã đem lại những thành tích, sự vinh quang cho đất
nước, góp phần vào sự phát triển của đất nước cũng như khẳng định vị thế của quốc


10

gia dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế… Vì thế, đối tượng người có công được
hưởng ưu đãi xã hội không chỉ bó hẹp trong phạm vi những người có công với cách
mạng mà còn được hiểu theo nghĩa rộng, đó là những người đã cống hiến sức lực,
năng lực, trí tuệ và mạng sống của mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, phát triển
đất nước mà không có bất kỳ sự đòi hỏi, yêu cầu bù đắp nào. Họ là những người có
thành tích xuất sắc bảo vệ cho sự bình an của xã hội, làm rạng danh đất nước, cống
hiến, hy sinh vì lợi ích của đất nước, của dân tộc, được sự công nhận của pháp luật
mà không có sự phân biệt tôn giáo, dân tộc, tín ngưỡng, tuổi tác, giới tính, nghề
nghiệp…, như nhà giáo nhân dân, nghệ sĩ nhân dân, thầy thuốc ưu tú, nhà kinh tế,
nhà khoa học có đóng góp xuất sắc…
Lịch sử đã chứng minh, dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng. Gần một
thế kỷ qua dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân
ta đã đồng lòng quyết tâm thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Không có
gì quý hơn độc lập tự do"; "Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu
làm nô lệ". Với quyết tâm ấy, dân tộc Việt Nam đã giành được thắng lợi trước kẻ thù
xâm lược. Để có được thắng lợi to lớn ấy, hàng triệu đồng bào, chiến sĩ ta đã vượt qua
bao gian lao, vất vả, hàng triệu người đã hy sinh, bị thương, hay bệnh tật, không biết
bao nhiêu người đã mất đi người thân, những hậu quả to lớn, những dấu ấn tàn khốc
của chiến tranh vẫn còn in đậm trong tâm trí bao thế hệ người Việt Nam. Khi chiến
tranh đã đi qua, những đối tượng này và cả người thân của họ đã gặp không ít khó khăn

trong cuộc sống. Sức khỏe của họ đã bị suy giảm, tuổi tác cũng gây ra khó khăn không
kém, những di chứng của chiến tranh làm cho họ khó có thể phấn đấu, học tập, rèn
luyện, làm việc để có thể thích nghi với cuộc sống đang ngày phát triển. Hơn nữa, họ
không có điều kiện để chăm lo cho gia đình, con cái, người thân của họ bị thiệt thòi,
cuộc sống gia đình bị ảnh hưởng. Họ là những đối tượng cần tới sự trợ giúp của
Nhà nước, sự giúp đỡ của xã hội. Những hy sinh, mất mát, cống hiến, công lao của
họ cũng như thân nhân của họ xứng đáng được Nhà nước, xã hội ghi nhận và trợ giúp.
Chính sách ưu đãi xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta.
Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, kế hoạch phát triển, tình hình kinh tế - chính trị - xã


11

hội ở mỗi thời kỳ mà Đảng, Nhà nước đưa ra những chính sách ưu đãi khác nhau
đối với người có công để ghi nhận những đóng góp, công lao to lớn của người có
công; thể hiện sự quan tâm, biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân đân đối với sự hy
sinh, cống hiến của họ cho đất nước; bù đắp một phần nào đó cho họ về đời sống
vật chất cũng như tinh thần. Ngay từ những ngày đầu giành được chính quyền (năm
1945), tuy còn nhiều khó khăn, phải đương đầu với thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm
lược nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn rất chú trọng đến công tác xây dựng cũng như
thực hiện chính sách này. Chính sách ưu đãi đối với người có công là một chính
sách đặc biệt giành cho những đối tượng đặc biệt. Vì thế, Nhà nước với vai trò và
chức năng của mình, sử dụng các biện pháp khác nhau để xây dựng và triển khai
đưa các chính sách ưu đãi đối với người có công vào cuộc sống. Không những vậy,
Đảng và Nhà nước còn vận động, kêu gọi và khuyến khích mọi người dân, các tổ
chức tham gia các phong trào thiết thực nhằm mục đích thực hiện tốt nhất chính
sách ưu đãi đối với người có công.
Thực hiện tốt chính sách đối với người có công là việc làm có ý nghĩa quan
trọng, nó không chỉ giúp ổn định đời sống của các đối tượng đặc biệt này, giúp họ
hòa nhập với cộng đồng mà còn góp phần vào sự ổn định và phát triển của xã hội.

Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công không chỉ thể hiện trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước mà còn thể hiện sự biết ơn đối với những cống hiến của
họ, hơn nữa nó còn góp phần giáo dục thế hệ đi sau nhận thức được trách nhiệm của
mình, tiếp tục phát huy hơn nữa tinh thần xả thân vì đất nước, lòng dũng cảm,
những thành quả mà thế hệ cha anh đã ra sức bảo vệ, vun đắp nên. Do đó, chính
sách ưu đãi xã hội đối với người có công mang tính nhân văn sâu sắc, nó góp phần
tạo ra môi trường lành mạnh, nâng cao ý thức trách nhiệm cho mỗi công dân trong
xã hội.
Ở Việt Nam chính sách ưu đãi xã hội là một bộ phận quan trọng của chính
sách an sinh xã hội. Chính sách an sinh xã hội là sự bảo vệ của Nhà nước, xã hội đối
với các thành viên của mình thông qua các chính sách và chương trình cụ thể nhằm
giúp cho họ có cuộc sống ổn định, phát triển lành mạnh. Hệ thống chính sách an


12

sinh xã hội của nước ta chủ yếu điều chỉnh ba nhóm quan hệ chủ yếu là bảo hiểm xã
hội, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Trong đó, chính sách bảo hiểm xã hội nhằm
mục đích bảo vệ cho người lao động ở mọi thành phần kinh tế khi họ gặp phải
những rủi ro không may trong quá trình lao động làm cho khả năng lao động của họ
bị giảm sút, hay trong trường hợp người lao động già yếu không có khả năng lao
động. Chính sách cứu trợ xã hội là sự trợ giúp của Nhà nước đối với các thành viên
của xã hội khi họ bị rơi vào hoàn cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, khó khăn, hiểm
nghèo… nhằm giúp họ tồn tại, ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng. Còn
chính sách ưu đãi xã hội như đã phân tích ở trên chính là chính sách ưu đãi người có
công. Tuy nhiên, khác với các chính sách còn lại trong hệ thống an sinh xã hội thì
chính sách ưu đãi xã hội không chỉ là sự bảo vệ, trợ giúp của Nhà nước mà nó còn
là nghĩa vụ, là trách nhiệm của Nhà nước, của cộng đồng đối với người có công, thể
hiện sự biết ơn sâu sắc đến họ. Vì thế, chính sách ưu đãi xã hội có vị trí quan trọng
trong hệ thống chính sách an sinh xã hội. Đó không chỉ là vấn đề truyền thống, đạo

lý mà còn là vấn đề chính trị, giáo dục, là vấn đề kinh tế, xã hội có ý nghĩa lâu dài.
Để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, Nhà nước đặt ra pháp luật, quy định
những quy tắc xử sự chung nhất cho các mối quan hệ xã hội và đảm bảo việc thực
thi bằng những biện pháp giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế của mình. "Pháp luật là
hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và đảm
bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ
xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội".
Pháp luật ưu đãi xã hội là sự thể chế hóa các chính sách ưu đãi của Đảng,
Nhà nước đối với người có công, các quyền ưu đãi của người có công và những
đảm bảo về mặt pháp lý cho việc thực hiện các quyền đó. Pháp luật ưu đãi người có
công quy định những nguyên tắc, cách thức, phương pháp thực hiện các chế độ ưu
đãi đối với người có công; quy định quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện ưu đãi đối với người có công; điều chỉnh tất cả các hoạt
động ưu đãi đối với người có công nhằm mục đích đảm bảo thực hiện một cách tốt
nhất, hữu hiệu nhất các chế độ, ưu đãi đối với đối tượng đặc biệt này.


13

Từ những phân tích trên có thể rút ra kết luận, pháp luật ưu đãi xã hội (ưu
đãi người có công) là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
nhằm điều chỉnh các quan hệ hình thành trong việc tổ chức và thực hiện chính sách
ưu đãi đối với người có công trên tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Pháp luật ưu đãi xã hội là sự thể hiện rõ nhất tính dân tộc, tính xã hội của
pháp luật. Pháp luật ưu đãi xã hội là công cụ quản lý hữu hiệu mọi mặt đời sống,
tinh thần của người có công, giúp phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội và góp phần làm cho xã hội phát triển bền vững.
1.1.3. Đặc điểm của pháp luật ưu đãi xã hội
Pháp luật ưu đãi xã hội là một bộ phận cấu thành quan trọng của pháp luật
an sinh xã hội, cùng tồn tại bên cạnh 3 bộ phận pháp luật khác là pháp luật bảo hiểm

xã hội, pháp luật bảo hiểm y tế, pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và pháp luật trợ giúp
xã hội. Dù cùng thuộc hệ thống pháp luật an sinh xã hội, nhưng pháp luật ưu đãi xã
hội vẫn chứa đựng một số đặc điểm riêng biệt so với các bộ phận pháp luật khác
trong hệ thống pháp luật an sinh xã hội. Có thể khái quát sơ bộ một số đặc điểm sau
đây của pháp luật ưu đãi xã hội.
Một là, căn cứ chủ yếu để xác định các đối tượng áp dụng chế độ ưu đãi xã
hội là sự đóng góp đặc biệt của các đối tượng này hoặc của thân nhân, thành viên
gia đình họ cho dân tộc, cho đất nước.
Trong pháp luật bảo hiểm xã hội hoặc trợ giúp xã hội, căn cứ để xác định
đối tượng được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội hoặc trợ giúp xã hội về cơ bản là
trường hợp họ gặp những rủi ro, biến cố bất thường trong lao động hoặc trong cuộc
sống mà họ cần được đảm bảo an toàn. Tuy nhiên, trong pháp luật ưu đãi xã hội,
việc xác định đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi chủ yếu dựa trên những cống
hiến, hy sinh về sức lực, xương máu, tuổi trẻ của họ cho đất nước. Có thể coi đó là
sự đóng góp đặc biệt của các chủ thể này, bởi nó không giống như những đóng góp
của các chủ thể trong pháp luật bảo hiểm xã hội trong việc đóng góp quỹ bảo hiểm
xã hội. Sự khác biệt này thể hiện cả ở hình thức đóng góp và mục đích đóng góp.
Những người có công với cách mạng đóng góp sức lực, tuổi trẻ, máu xương, thậm


14

chí cả tính mạng của họ cho sự nghiệp của toàn dân tộc. Họ đóng góp không nhằm
mục đích và không thể tính toán giá trị để có thể hoàn trả, bù đắp một cách ngang
bằng. Tuy nhiên, ngoài căn cứ chủ yếu này, việc xác định đối tượng hưởng chế độ
ưu đãi xã hội cũng có thể dựa vào hoàn cảnh cụ thể của đối tượng như các bộ phận
pháp luật an sinh xã hội khác để đảm bảo sự công bằng, song đó không phải là căn
cứ chính để xác định đối tượng hưởng chế độ ưu đãi xã hội trong pháp luật ưu đãi
xã hội.
Hai là, mục đích của pháp luật ưu đãi xã hội không chỉ nhằm thực hiện

tương trợ cộng đồng mà quan trọng hơn là nhằm thực hiện sự ưu đãi của Nhà nước
đối với những người có công với cách mạng.
Về tổng thể, pháp luật an sinh xã hội nói chung đều nhằm mục đích chính là
thực hiện tương trợ cộng đồng trong xã hội. Pháp luật ưu đãi xã hội cũng thể hiện
mục đích này thông qua việc xác định đối tượng hưởng chủ yếu là những người gặp
khó khăn như người bị thương tật, người già, trẻ mồ côi…Tuy nhiên, như trên đã đề
cập, đây chưa phải là mục đích chính của lĩnh vực pháp luật này. Nếu chỉ nhằm trợ
giúp những đối tượng đó thì chỉ với bộ phận pháp luật hiểm xã hội hoặc trợ giúp xã
hội cũng có thể thực hiện được mục tiêu này. Mục tiêu chủ yếu của pháp luật ưu đãi
xã hội là thực hiện sự ưu tiên, ưu đãi của Nhà nước và xã hội đối với một bộ phận
cư dân đặc biệt, đó là người có công với cách mạng. Điều này cũng thể hiện tính
đặc thù của pháp luật an sinh xã hội của nước ta so với pháp luật an sinh xã hội của
nhiều quốc gia khác.
Sự ưu tiên, ưu đãi được thể hiện ở nhiều khía cạnh trong nội dung các quy
định pháp luật về ưu đãi xã hội. Một mặt, mức trợ cấp thông thường được quy định
cao hơn các mức trợ cấp trong hệ thống pháp luật an sinh xã hội khác. Nhà nước
chủ trương đảm bảo mức trợ cấp ưu đãi xã hội cao hơn mức sống trung bình của
người dân. Mặt khác, phạm vi các chế độ ưu đãi xã hội cũng rộng hơn so với các
chế độ an sinh xã hội khác. Nếu như trong chế độ bảo hiểm xã hội hoặc chế độ trợ
giúp xã hội đối tượng hưởng chỉ được hưởng khoản trợ cấp bằng tiền (vật chất) thì
đối tượng hưởng trong pháp luật ưu đãi xã hội không chỉ được hưởng các khoản trợ


15

cấp vật chất để đảm bảo cuộc sống mà còn được hưởng toàn diện các chế độ về giáo
dục, nhà ở, việc làm và các ưu đãi về đời sống tinh thần…, bao hàm hầu hết các nhu
cầu thiết yếu của cuộc sống con người trong xã hội. Tuy vậy, điều này cũng không làm
mất đi tính chất an sinh xã hội của bộ phận pháp luật này, bởi vì chỉ những người có
công gặp khó khăn hoặc có thể gặp khó khăn hơn do những cống hiến của mình cho

đất nước (sức khỏe giảm sút do thời gian chiến đấu, phục vụ chiến đấu; tuổi trẻ phải
phục vụ kháng chiến nên mất cơ hội học hành…) mới được xác định là đối tượng
được hưởng chế độ ưu đãi. Những người có công trong các lĩnh vực như giáo dục, y
tế, văn hóa, khoa học, nghệ thuật, thể thao…tuy cũng có nhiều cống hiến, đem lại
vinh quang cho đất nước, nhưng họ không gặp khó khăn trong cuộc sống vì những
gì đã cống hiến cho đất nước nên không phải là đối tượng được xác định là người
hưởng ưu đãi xã hội. Tuy nhiên, họ vẫn được Nhà nước và xã hội ghi nhận công lao
thông qua việc tôn vinh các danh hiệu như Nhà giáo ưu tú, Thầy thuốc ưu tú…
1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật ưu đãi xã hội
Pháp luật ưu đãi xã hội có vai trò to lớn và mang ý nghĩa nhiều mặt khác nhau.
Thứ nhất, về chính trị, pháp luật ưu đãi xã hội góp phần tạo niềm tin vào
chế độ chính sách tốt đẹp của Nhà nước cho những người có công với cách mạng
nói riêng và những người dân khác nói chung. Họ sẽ thấy rằng, sự hy sinh đóng góp
của họ được Nhà nước và xã hội nhìn nhận, đánh giá đúng mức, gia đình được Nhà
nước và cộng đồng chăm lo. Do vậy, sự ưu đãi đối với những người có công không
chỉ là sự hỗ trợ về đời sống vật chất và tinh thần cho họ mà còn tạo niềm tin vào chế
độ xã hội tốt đẹp, là nguồn động viên, khích lệ đối với các thành viên khác trong xã
hội sẵn sàng cống hiến, hy sinh cho đất nước trong những hoàn cảnh cần thiết. Do
đó có thể nói pháp luật ưu đãi xã hội góp phần ổn định xã hội, giữ vững thể chế, tạo
điều kiện cho sự phát triển của đất nước trong thế ổn định, bền vững. Nếu không có
pháp luật ưu đãi xã hội hoặc thực hiện không tốt pháp luật này sẽ làm mất lòng tin
không chỉ của một thế hệ đã từng cống hiến, hy sinh, mà còn của cả các thế hệ sau.
Đó là nguy cơ dẫn đến mất ổn định chính trị xã hội, ảnh hưởng đến sự tồn vong của
chế độ chính trị, của Nhà nước.


16

Thứ hai, về kinh tế, pháp luật ưu đãi xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc đảm bảo và nâng cao đời sống mọi mặt của người có công. Những người

này khi tuổi đã già, sức đã yếu (đặc biệt những người tham gia họat động cách mạng
hoặc trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc) hoặc không có điều kiện
học tập để nâng cao trình độ do đã cống hiến tuổi trẻ cho đất nước sẽ gặp không ít
khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt, những người không còn khả năng lao động
hoặc không còn nơi nương tựa (Bà mẹ Việt Nam anh hùng, cha mẹ liệt sĩ…) sẽ rất
cần một nguồn sống ổn định. Điều này được đảm bảo bằng các chế độ ưu đãi xã hội.
Không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo đời sống, pháp luật ưu đãi xã hội còn
giúp người có công có cơ hội phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của bản thân và gia đình. Các chế độ ưu đãi trong lĩnh vực giáo dục, việc làm,
nhà ở… trên thực tế đã phát huy tác dụng tích cực. Nhiều gương sáng điển hình
trong hoạt động kinh tế của các cựu chiến binh đã xuất hiện, do họ có ý chí, tâm
huyết và giàu nghị lực, cùng với sự ưu đãi về vốn, thuế của Nhà nước đã góp phần
tạo nên thành công cho họ. Từ đó cũng góp phần tạo nên động lực phấn đấu cho các
thành viên khác trong xã hội trong công cuộc phát triển kinh tế của đất nước.
Thứ ba, về xã hội, pháp luật ưu đãi xã hội thể hiện truyền thống "uống nước
nhớ nguồn", "đền ơn đáp nghĩa", là sự báo đáp công ơn của những người đã xả thân
vì đất nước. Đây không chỉ là sự biết ơn, kính trọng mà còn là trách nhiệm, nghĩa
vụ của Nhà nước, của cộng đồng và toàn xã hội với một bộ phận cư dân đặc biệt.
Những người đã cống hiến hết tuổi xuân, sức khỏe, thậm chí cả tính mạng cho đất
nước bản thân và gia đình thường sẽ gặp khó khăn trong cuộc sống. Đặc biệt khi
sống trong cơ chế thị trường, nơi có sự cạnh tranh khốc liệt vì lợi nhuận, thu
nhập…thì những người có công càng ít có cơ hội mưu sinh và phát triển. Chính vì
vậy, pháp luật ưu đãi xã hội càng có ý nghĩa về mặt xã hội và mang nặng tính nhân
văn. Nó không chỉ góp phần đảm bảo và nâng cao đời sống vật chất cho những
người có công mà còn giúp họ hòa nhập vào xã hội. Những chế độ ưu đãi về giáo
dục, đào tạo, ưu đãi về việc làm, chăm sóc sức khỏe… thể hiện sự quan tâm đặc biệt
của Nhà nước và cộng đồng đến mọi mặt đời sống của người có công.


17


Pháp luật ưu đãi xã hội ngoài ra còn góp phần giáo dục đạo đức cho thế hệ
trẻ, tạo cơ hội để mỗi công dân nhận thức sâu sắc và phát huy truyền thống tốt đẹp
của cha ông là "uống nước nhớ nguồn". Từ đây, lòng tự hào dân tộc, lòng biết ơn
của thế hệ trẻ đối với thế hệ cha ông được khơi dậy và phát huy. Pháp luật ưu đãi xã
hội cũng góp phần tạo nên cách sống của con người với sự cảm thông, chia sẻ, trách
nhiệm… giữa các cá nhân, giữa các thế hệ trong cộng đồng.
Thứ tư, về pháp lý, pháp luật ưu đãi xã hội một mặt là sự thể chế hóa các
chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước đối với người có công, đồng thời là sự
đảm bảo về mặt pháp lý cho các quyền được ưu đãi của họ được thực hiện trên thực
tế. Những người có công là một bộ phận cư dân đặc biệt, họ cần được tôn vinh và
được đảm bảo cuộc sống không chỉ dựa vào lòng hảo tâm của cộng đồng, của xã hội
mà cần phải quy định bằng pháp luật của Nhà nước thành các quyền của họ. Khi đã
được quy định thành pháp luật, một mặt các quyền của người có công trở thành
quyền pháp lý, nghĩa là nó sẽ được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà
nước trong trường hợp cần thiết. Người có công có thể tự hào khi hưởng các quyền
này, không tạo ra tâm lý của người được ban ơn. Mặt khác, tương ứng với quyền
pháp lý của người có công là nghĩa vụ pháp lý của các cơ quan, tổ chức, công chức
liên quan trong việc thực hiện, đảm bảo các quyền đó trên thực tế. Nếu bị vi phạm,
không những người có công có thể sử dụng các biện pháp pháp lý để thực hiện
quyền của mình (chẳng hạn khởi kiện ra Tòa án hành chính) mà công chức vi phạm
còn có thể phải chịu các chế tài tương ứng. Điều này cũng đảm bảo không tạo ra
tâm lý ban ơn, cơ chế xin - cho của các chủ thể thực hiện.
1.2. Nội dung quy định pháp luật hiện hành về ưu đãi xã hội ở Việt Nam
1.2.1. Đối tượng được hưởng ưu đãi
Đối tượng điều chỉnh của Luật ưu đãi xã hội là những quan hệ xã hội hình
thành trong lĩnh vực ưu đãi đối với người có công. Đó là quan hệ giữa một bên là
Nhà nước và một bên là người có công cùng với gia đình của họ trong nhiều lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội như: quan hệ về trợ cấp, ưu đãi; quan hệ về
chăm sóc y tế; giáo dục; quan hệ về việc làm; nhà ở; trợ giúp pháp lý miễn phí…



18

Với đặc điểm này, pháp luật ưu đãi xã hội đã trở thành một nét đặc thù trong hệ
thống pháp luật an sinh xã hội của Việt Nam.
Điều 2 Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005 được Pháp
lệnh số 04/2012/UBTVQH13 sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi
người có công với cách mạng quy định có hai nhóm đối tượng được hưởng chế độ
ưu đãi đó là, người có công với cách mạng và thân nhân của người có công với cách
mạng, trong đó người có công với cách mạng bao gồm có 12 đối tượng:
- Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945: Là người
được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đã tham gia tổ chức cách mạng
trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 (cán bộ lão thành cách mạng).
- Người hoạt động cách mạng từ 01/01/1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng
Tám năm 1945: Là người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đứng
đầu một tổ chức quần chúng cách mạng cấp xã hoặc thoát ly hoạt động cách mạng
kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm
1945 (cán bộ tiền khởi nghĩa).
- Liệt sĩ: Là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của nhân dân
được Nhà nước truy tặng Bằng "Tổ quốc ghi công".
- Bà mẹ Việt Nam anh hùng: Những Bà mẹ được tặng hoặc truy tặng danh
hiệu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" là những bà mẹ có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế được quy định tại
Điều 2 Nghị định 56/2013/NĐ-CP ngày 22/5/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh hùng".
- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: là người được Nhà nước tặng
hoặc truy tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" vì đã có thành
tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

- Anh hùng lao động trong thời kỳ kháng chiến: là người được nhà nước
tuyên dương Anh hùng lao động vì có thành tích xuất sắc trong lao động, sản xuất
phục vụ kháng chiến (tuyên dương trước ngày 30/4/1975).


19
- Thương binh, người được hưởng chính sách như thương binh: Thương
binh là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của nhân dân được Nhà nước
truy tặng Bằng "Tổ quốc ghi công" được quy định tại Điều 19 Pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2012.
- Bệnh binh: là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên khi xuất ngũ về gia đình được cơ quan, đơn vị có
thẩm quyền cấp "Giấy chứng nhận bệnh binh"; mắc bệnh làm suy giảm khả năng
lao động từ 41% - 60% đã được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền công nhận trước
ngày 31/12/1994.
- Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học: là người được
cơ quan có thẩm quyền công nhận đã tham gia công tác, chiến đấu, phục vụ chiến
đấu tại các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hóa học, bị mắc bệnh làm suy
giảm khả năng lao động, sinh con dị dạng, dị tật hoặc vô sinh do hậu quả của chất
độc hóa học.
- Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày: là
người được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền công nhận trong thời gian bị tù, đày
không khai báo có hại cho cách mạng, cho kháng chiến, không làm tay sai cho địch.
- Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế: là người tham gia kháng chiến trong khoảng thời gian từ ngày 19
tháng 8 năm 1945 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 được Nhà nước tặng Huân
chương Kháng chiến hoặc Huân chương Chiến thắng, Huy chương Kháng chiến
hoặc Huy chương Chiến thắng.
- Người có công giúp đỡ cách mạng: là người được tặng Kỷ niệm chương

"Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước"; người được tặng Huân chương
Kháng chiến hoặc Huy chương Kháng chiến; người trong gia đình được tặng Kỷ
niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước" trước cách mạng
tháng Tám năm 1945, người trong gia đình được tặng Huân chương Kháng chiến
hoặc Huy chương Kháng chiến có đủ điều kiện xác nhận là người có công giúp đỡ
cách mạng theo quy định của pháp luật về thi đua khen thưởng.


20

1.2.2. Thủ tục làm chế độ hưởng ưu đãi của các đối tượng có công với
cách mạng
Căn cứ Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng hiện hành; Nghị
định 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn
thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; Thông tư
05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi người có
công với cách mạng và thân nhân; các đối tượng lập hồ sơ theo yêu cầu gửi đến các
cơ quan chức năng để được giải quyết chế độ ưu đãi theo quy định của pháp luật;
Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BLĐTBXH-BQP ngày 22/10/2013 của Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, Bộ Quốc phòng hướng dẫn xác nhận liệt sĩ, thương
binh, người hưởng chính sách như thương binh trong chiến tranh không còn giấy tờ.
Đối với từng trường hợp, từng đối tượng nhà nước hướng dẫn lập hồ sơ để được
hưởng các chế độ ưu đãi của người có công với cách mạng:
- Thủ tục công nhận và quyết định thực hiện ưu đãi đối với người hoạt động
cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 được thực hiện theo Điều 1 Thông tư
05/2013/TT-BLĐTBXH; Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP.
- Người hoạt động cách mạng từ 01/01/1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng
Tám năm 1945 thực hiện theo Điều 7 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP; Điều 2 Thông
tư 05/2013/TT-BLĐTBXH.

- Tùy từng đối tượng liệt sĩ có hướng dẫn cụ thể:
Đối với liệt sĩ trong chiến tranh còn giấy tờ: Thực hiện theo Điều 18 Nghị
định 31/2013/NĐ-CP và Điều 3, Điều 4 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH.
Thủ tục xác nhận liệt sĩ hy sinh thuộc lực lượng quân đội, công an trong
chiến tranh không còn giấy tờ được thực hiện theo Điều 4 Thông tư liên tịch số
28/TTLT-BLĐTBXH-BQP; Điều 17, Điều 18 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP.
Thủ tục xác nhận liệt sĩ đối với người hy sinh không thuộc lực lượng quân
đội, công an được thực hiện theo Điều 5 Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLTBLĐTBXH-BQP; Điểm c, d khoản 2 Điều 18 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP.


×