Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Thực hiện quy định pháp luật về đình công trong doanh nghiệp ở việt nam hiện nay và kiến nghị hoàn thiện bộ luật lao động năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THẾ ANH

THỰC HIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG
TRONG DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN BỘ LUẬT LAO ĐỘNG
NĂM 2012

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THẾ ANH

THỰC HIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG
TRONG DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN BỘ LUẬT LAO ĐỘNG
NĂM 2012


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Vũ Minh Tiến

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Thực hiện quy định pháp luật về đình
công trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay và kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Lao
động năm 2012” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ
Minh Tiến. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Ngƣời cam đoan

Nguyễn Thế Anh


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn “Thực hiện quy định pháp luật về đình công
trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay và kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Lao động
năm 2012”, tuy có những khó khăn trong quá trình nghiên cứu bởi vì chúng tôi là

những học viên đầu tiên theo học hệ cao học theo định hướng ứng dụng của Trường
Đại học Luật Hà Nội, nhưng tôi đã hoàn thành luận văn với sự hỗ trợ, hướng dẫn, giúp
đỡ của nhiều thầy cô giáo, gia đình và bạn bè. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô
giáo thuộc Khoa Pháp luật kinh tế, Bộ môn Luật Lao động của Trường Đại học Luật
Hà Nội. Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn sự chỉ dạy và hướng dẫn nhiệt tình của
giảng viên hướng dẫn là TS. Vũ Minh Tiến đã đồng hành cùng tôi trong suốt quá trình
thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ này.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Học viên

Nguyễn Thế Anh


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
STT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

TỪ VIẾT TẮT

BLLĐ
BLTTDS
ILO
LĐ-TB&XH
NLĐ
NSDLĐ
TCLĐ
QHLĐ

VIẾT ĐẦY ĐỦ
Bộ luật lao động
Bộ luật tố tụng dân sự
Tổ chức Lao động quốc tế
Lao động - Thương binh và Xã hội
Người lao động
Người sử dụng lao động
Tranh chấp lao động
Quan hệ lao động


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CÔNG VÀ PHÁP LUẬT ĐÌNH
CÔNG ............................................................................................................................. 7
1.1. Một số khái niệm cơ bản.......................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm tranh chấp lao động ............................................................................. 7
1.1.2. Khái niệm đình công ............................................................................................ 8
1.2. Các dấu hiệu cơ bản của đình công ....................................................................... 14
1.2.1. Đình công là sự phản ứng của những người lao động thông qua hành vi ngừng
việc tạm thời ................................................................................................................. 14

1.2.2. Đình công phải có sự tự nguyện của người lao động ......................................... 14
1.2.3. Đình công luôn có tính tập thể ........................................................................... 14
1.2.4. Đình công được thực hiện một cách có tổ chức ................................................. 15
1.2.5. Mục đích của đình công là nhằm đạt được các yêu sách của tập thể người lao
động thông qua việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại về kinh tế, đạt được những
yêu sách gắn với lợi ích của tập thể lao động với người sử dụng lao động ................. 15
1.3. Phân loại đình công ............................................................................................... 15
1.4. Nội dung điều chỉnh pháp luật đối với đình công ................................................. 16
1.4.1. Sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề đình công ............... 16
1.4.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về đình công .......................................... 17
1.5. Khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế và kinh nghiệm của một số quốc gia
trên thế giới về đình công ............................................................................................. 20
1.5.1. Khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế ........................................................ 20
1.5.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới.................................................. 21
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................... 24
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................ 25
2.1. Nội dung quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về đình công ................... 25
2.1.1. Đối tượng được đình công và chủ thể tổ chức, lãnh đạo đình công ................... 25
2.1.2. Thời điểm, trình tự, thủ tục đình công ................................................................ 28
2.1.3. Đình công bất hợp pháp...................................................................................... 31
2.1.4. Trường hợp không được đình công, hoãn, ngừng đình công ............................. 37
2.1.5. Quyền của các bên trước và trong quá trình đình công ...................................... 38
2.1.6. Xử phạt vi phạm hành chính về đình công ......................................................... 39


2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về đình công trong doanh nghiệp ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay ......................................................................................................... 41
2.2.1. Khái quát tình hình đình công trong doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay......................................................................................................................... 41

2.2.2. Một số vấn đề thực tiễn nổi bật trong thực hiện pháp luật về đình công trong
doanh nghiệp ở Việt Nam ............................................................................................. 45
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về đình công trong doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay ......................................................................................... 56
2.3.1. Đánh giá chung ................................................................................................... 56
2.3.2. Nguyên nhân của thực trạng ............................................................................... 58
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................... 62
CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH
CÔNG TRONG BỘ LUẬT LAO ĐỘNG NĂM 2012 VÀ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG TRONG
DOANH NGHIỆP ...................................................................................................... 63
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đình
công .............................................................................................................................. 63
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Lao động năm 2012 về đình công .............. 64
3.2.1. Về xác định đối tượng và phạm vi của cuộc đình công ..................................... 64
3.2.2. Về trình tự, thủ tục đình công ............................................................................. 65
3.2.3. Về quy định người sử dụng lao động có quyền đóng cửa tạm thời nơi làm việc65
3.2.4. Về quy định xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về đình công ............ 66
3.3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đình công và giải quyết
đình công trong doanh nghiệp ở Việt Nam .................................................................. 66
3.3.1. Nhóm giải pháp đối với người lao động ............................................................. 66
3.3.2. Nhóm giải pháp đối với người sử dụng lao động ............................................... 71
3.3.3. Nhóm giải pháp đối với Nhà nước và các cơ quan quản lý ............................... 75
3.3.4. Nhóm giải pháp đối với tổ chức Công đoàn ....................................................... 76
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................... 80
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 83


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đình công ở Việt Nam những năm qua ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp.
Theo Bộ LĐ-TB&XH: Từ năm 1995 đến tháng 5 năm 2017, cả nước đã có 6.533 cuộc
đình công. Trong đó, số lượng các cuộc đình công tập trung ở các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài nhiều nhất, đình công ở các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ
thấp nhất, còn trung bình ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Từ năm 2010 đến năm
2017 có 3.146 cuộc đình công, tập trung ở 40 tỉnh, thành phố.
Đình công là hiện tượng xã hội xuất hiện và tồn tại khách quan trong nền kinh tế
thị trường. NLĐ có quyền được đình công khi gặp phải những vướng mắc cơ bản
trong quá trình lao động. Quyền đình công được ghi nhận ở pháp luật Việt Nam và
nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, kể từ khi BLLĐ năm 1994 được ban hành,
đình công cũng được chính thức ghi nhận là quyền của NLĐ, NLĐ được sử dụng đình
công như một vũ khí sắc bén để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong
QHLĐ. Tổ chức ILO Cho rằng quyền đình công là một trong những biện pháp thiết
yếu NLĐ và các tổ chức của họ có thể sử dụng để xúc tiến và bảo vệ các lợi ích kinh tế
và xã hội của mình.
Tuy nhiên, khi xảy ra đình công sẽ gây ra một số hậu quả cho doanh nghiệp, xã
hội, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, trật tự quản lý doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có đình công sẽ bị giảm năng suất chất lượng sản phẩm, nghiêm trọng
hơn có thể gây mất uy tín trên thị trường. Đồng thời, hoạt động đình công thường gây
thiệt hại về máy móc và thiết bị sản xuất, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội.
Chính vì vậy, pháp luật lao động Việt Nam (từ BLLĐ năm 1994 (sửa đổi năm
2002, 2006, 2007) cho đến BLLĐ năm 2012) và quốc tế đều quy định chặt chẽ các vấn
đề về chủ thể, trình tự, thủ tục khi tiến hành đình công để nhằm giảm thiểu những rủi
ro tiêu cực từ hoạt động đình công gây ra.
Dưới sự tác động của thời kỳ mở cửa và hội nhập, sự ảnh hưởng bởi các cuộc
khủng hoảng kinh tế ở trong nước và thế giới, cũng như hoạt động cạnh tranh ngày
càng phát triển, thì hoạt động đình công đã xảy ra ngày càng nhiều với quy mô và tính
chất phức tạp, ở các thành phố lớn hoặc các khu công nghiệp tập trung nhiều doanh

nghiệp sản xuất lớn. Bên cạnh đó, đình công cũng thường xảy ra ở quy mô doanh
nghiệp vừa và lớn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó việc thực
hiện pháp luật là một nguyên nhân quan trọng.
Theo số liệu báo cáo của Bộ LĐ-TB&XH thì 100% các cuộc đình công đều diễn
ra không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, các cuộc đình công xảy ra
bất ngờ, không báo trước khiến NSDLĐ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải
quyết đình công không chủ động trong công tác đối phó để giảm thiểu thiệt hại. Giải
quyết đình công thông qua hoạt động Tòa án nhân dân xét tính hợp pháp của cuộc đình
công không được thi hành trên thực tế, chưa cuộc đình công nào được Tòa án thụ lý và


2
giải quyết. Để giải quyết các cuộc đình công không đúng trình tự thủ tục, nhiều địa
phương đã thành lập tổ công tác giải quyết đình công không theo trình tự thủ tục, tuy
nhiên chưa phù hợp với Điều 222 BLLĐ năm 2012, việc giải quyết chỉ mang tính chất
thời điểm, không mang lại giá trị lâu dài.
Những hiện tượng này một phần là do NLĐ không có ý thức thực hiện pháp luật,
chưa nắm rõ các quy định pháp luật về đình công để áp dụng vào thực tế, không chỉ
NLĐ mà NSDLĐ và những cơ quan khác cũng không tích cực thực hiện pháp luật về
đình công. Chính vì vậy, cần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về đình công và giải quyết đình công trong doanh nghiệp để phù hợp với thực tế.
Đồng thời cần có những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật đình công và giải
quyết đình công, để giảm thiểu đình công không theo trình tự thủ tục, đình công bất
hợp pháp và hoạt động giải quyết đình công phát huy được vai trò đảm bảo cân bằng
giữa lợi ích về kinh tế xã hội và lợi ích của NLĐ.
Chính vì lý do trên, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Thực hiện quy định
pháp luật về đình công trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay và kiến nghị
hoàn thiện Bộ luật Lao động năm 2012” để làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đình công là một chế định quan trọng của pháp luật lao động nói riêng và là vấn

đề quan trọng trên thị trường lao động và QHLĐ nói chung. Chính vì vậy, nhiều tác
giả, nhóm tác giả đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề đình công hoặc nghiên cứu về một
số góc độ của vấn đề thực hiện pháp luật về đình công. Có thể kể đến các công trình
nghiên cứu như sau:
Về dự án và đề tài nghiên cứu:
- Dự án “Xây dựng QHLĐ ở Việt Nam” do ILO thực hiện từ năm 2007 đến năm
2009. Dự án đã tiến hành nghiên cứu và đưa ra đánh giá, nhận định về tình hình
QHLĐ ở Việt Nam hiện nay: Hệ thống pháp luật lao động ở Việt Nam được đánh giá
là có nhiều điểm “tiến bộ” nhất khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, đặc trưng của
QHLĐ ở Việt Nam lại là “sự thiếu tuân thủ pháp luật lao động”; Các bên trong QHLĐ
sử dụng kém hiệu quả các những công cụ như “đàm phán, thương lượng”; vấn đề có
tính chất đặc thù trong QHLĐ ở Việt Nam là tình trạng đình công tự phát.
- Một số nghiên cứu của TS. Chang-Hee Lee (chuyên gia cao cấp của ILO) từ
năm 2006 - 2008: “QHLĐ và giải quyết TCLĐ tại Việt Nam”; “Từ QHLĐ mang đậm
nét đình công tự phát đến QHLĐ hài hòa dựa trên thương lượng tập thể tại Việt Nam Xác định các vấn đề và thử tìm kiếm những giải pháp khả thi”; “Hướng tới một hệ
thống QHLĐ lành mạnh ở Việt Nam”... Những nghiên cứu của tác giả đã khẳng định
rằng: đặc điểm tiêu biểu trong TCLĐ, đình công ở Việt Nam là tự phát, không thông
qua thương lượng, đàm phán; nặng về “mệnh lệnh hành chính”, sử dụng “đoàn công
tác liên ngành” của cơ quan quản lý nhà nước về lao động ở địa phương, vai trò Công
đoàn cơ sở “mờ nhạt”, Công đoàn cơ sở không đủ năng lực lãnh đạo và tổ chức đình


3
công... Một trong những đề xuất đáng lưu ý của TS. Chang-Hee Lee là: Công đoàn cấp
trên cơ sở phải hỗ trợ trực tiếp hoặc đứng ra tổ chức và lãnh đạo đình công.
- Lưu Bình Nhưỡng, Nguyễn Xuân Thu và Đỗ Thị Dung (2015), Bình luận khoa
học BLLĐ, NXB Lao động, Hà Nội. Cuốn sách đã chỉ ra những cách hiểu thấu đáo về
các quy định của pháp luật lao động nói chung, của BLLĐ nói riêng chính là sự giác
ngộ về quyền, lợi ích của bản thân, của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Trong đó các
quy định pháp luật về vấn đề đình công cũng được làm rõ trên cơ sở phân tích, bình

luận sâu từng Điều luật, giải thích từ ngữ phù hợp với quy định có tính chuyên ngành
thuộc lĩnh vực pháp luật lao động rất dễ hiểu.
Về tạp chí, đề tài nghiên cứu: Nhiều tác giả đã có những bài nghiên cứu trên các
tạp chí chuyên ngành như: Phạm Công Bảy (2012), Thực trạng TCLĐ, đình công và
kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung trong Dự thảo BLLĐ sửa đổi, bổ sung, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 10/2012; Trần Thị Thúy Lâm (2012), Những điểm mới về đình công
trong BLLĐ năm 2012, Tạp chí Luật học; Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Bình
luận khoa học BLLĐ, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, tháng 3/2015;…
Về luận án, luận văn, có một số công trình như sau:
- Chử Thị Xuyên (2013), Những điểm mới về TCLĐ và đình công trong BLLĐ
năm 2012, Luận văn thạc sĩ luật học. Tác giả nghiên cứu về TCLĐ nói chung có sự so
sánh và phân biệt với đình công.
- Hà Thị Hoa Phượng (2013), Đình công và giải quyết đình công theo BLLĐ năm
2012, Luận văn thạc sĩ luật học.
- Trần Thị Trúc Chi (2015), Quy định về thủ tục đình công trong pháp luật Việt
Nam – Thực trạng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Luận văn thạc sĩ
luật học. Tác giả tập trung chủ yếu và thủ tục đình công và đưa ra thực trạng tại một số
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà không nghiên cứu về thực trạng thực hiện
ở các doanh nghiệp trong nước nói chung.
- Cao Xuân Dũng (2016), Đình công bất hợp pháp theo quy định pháp luật Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học. Tác giả trình bày một số vấn đề lý luận về đình công
và pháp luật về đình công bất hợp pháp. Nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về đình công bất hợp pháp và thực tiễn thi hành, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
- Nguyễn Thùy Trang (2016), Pháp luật về đình công, giải quyết đình công và
thực tiễn thi hành tại tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học. Tác giả đã trình bày
những vấn đề lý luận và pháp luật về đình công, giải quyết đình công. Nghiên cứu các
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về đình công, giải quyết đình công và thực
trạng đình công, giải quyết đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Đề xuất giải pháp
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về vấn đề này tại tỉnh Bắc

Ninh.
- Nguyễn Hồng Nhung (2017), Những hạn chế đối với quyền đình công trong
pháp luật Việt Nam – Tiêu chuẩn quốc tế và những vấn đề đặt ra, luận văn thạc sỹ luật


4
học. Tác giả đã trình bày khái quát về đình công và hạn chế quyền đình công. Nghiên
cứu các quy định của pháp luật lao động Việt Nam và tiêu chuẩn lao động quốc tế về
hạn chế quyền đình công. Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về hạn chế đình
công tại Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này ở nước ta hiện nay.
Để tiến hành sửa đổi, bổ sung một số Điều của BLLĐ năm 2002 và đặc biệt sửa
đổi, bổ sung Chương XIV (Chương về giải quyết TCLĐ và đình công) của BLLĐ
năm 2006, Bộ LĐ-TB&XH, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam, Văn phòng Tổ chức Lao động quốc tế tại Việt Nam, Viện
FES, Oxfam Bỉ và nhiều tổ chức phi chính phủ khác đã tổ chức nhiều hội nghị, hội
thảo, nghiên cứu về TCLĐ, đình công. Tiêu biểu như:
- Báo cáo nghiên cứu “Công đoàn với vấn đề đình công, giải quyết đình công và
một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đình công” của TS. Đặng Ngọc Tùng (Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam, năm 2006); “Một số nét tình hình đình công của NLĐ,
vai trò của tổ chức Công đoàn và những kiến nghị, giải pháp” của Nguyễn Hòa Bình
(Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, năm 2005) đã khẳng định một trong những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến TCLĐ, đình công là sự vi phạm pháp luật lao động và
việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật lao động còn nhiếu yếu kém,
hạn chế. Các tác giả cũng đề xuất một số giải pháp xây dựng QHLĐ hài hòa, ổn định,
không để xảy ra đình công như: sửa đổi, bổ sung pháp luật lao động; nâng cao năng lực
cán bộ Công đoàn, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và có chế tài, xử lý kiên quyết
những vi phạm pháp luật lao động.
- Báo cáo “Mục tiêu, quan điểm và những vấn đề đặt ra trong xây dựng Pháp lệnh
đình công và giải quyết đình công” của TS. Lê Duy Đồng (Bộ LĐ-TB&XH, năm

2004) đã phân tích, đánh giá tình hình đình công từ năm 1995 - 2003. Trên cơ sở đó đề
xuất những giải pháp cụ thể và kiến nghị sửa đổi pháp luật lao động về đình công.
- Nghiên cứu “Vấn đề đình công và giải quyết đình công từ góc độ NSDLĐ” của
Nguyễn Hữu Hải (năm 2005) đã có “góc nhìn” khác đối với vấn đề đình công - từ phía
NSDLĐ. Những đề xuất đáng lưu ý như: cần hoàn thiện pháp luật lao động về giải
quyết TCLĐ và đình công; cần có chế tài xử lý những hành vi vi phạm khi đình công,
đình công bất hợp pháp...
- Một trong những công trình tiêu biểu gần đây là đề tài cấp Nhà nước "TCLĐ và
đình công trong các công ty liên doanh và công ty có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta"
do Viện Tâm lý (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) thực hiện 2010 - 2012. Đề tài đã hệ
thống hóa, phát triển lý luận về TCLĐ, đình công trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn hiện nay; đánh giá thực trạng, phân tích,
chỉ ra những đặc trưng, xác định đúng các nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm
về việc giải quyết TCLĐ và đình công trong các công ty liên doanh và công ty có vốn
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong 10 năm (2001 – 2010); đề xuất các giải pháp,
kiến nghị tổng thể nhằm xây dựng QHLĐ hài hòa, ổn định, tiến bộ, hạn chế TCLĐ; đề


5
xuất các giải pháp, kiến nghị về giải quyết TCLĐ và đình công trong các công ty liên
doanh và công ty có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Những nghiên cứu nêu trên mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, tuy
nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu cả cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về
thực hiện pháp luật về đình công và đề xuất giải pháp trực tiếp để đảm bảo thực hiện
các quy định của pháp luật về đình công, đặc biệt là nghiên cứu việc thực hiện pháp
luật đình công trong doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định pháp luật và thực tiễn về thực
hiện pháp luật đình công trong doanh nghiệp và đưa ra những kiến nghị cho vấn đề.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Luận văn nghiên cứu về vấn đề thực hiện đình

công theo quy định của pháp luật Việt Nam trong doanh nghiệp trong giai đoạn gần
đây, đặc biệt là trong thời gian BLLĐ năm 2012 có hiệu lực thi hành. Phạm vi nghiên
cứu tập trung vào việc làm sáng tỏ các quy định pháp luật năm 2012 đồng thời đánh
giá thực tiễn thực hiện pháp luật về đình công để đưa ra những kiến nghị nâng cao
hiệu quả thực hiện vấn đề. Phạm vi nghiên cứu đề tài không đi sâu vào việc đình công
và TCLĐ theo quy mô rộng lớn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là: trên cơ sở lý luận, pháp luật và thực trạng thực
hiện pháp luật về đình công ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay sẽ đưa ra một góc
nhìn sâu sắc, đa chiều về thực hiện pháp luật về đình công trong doanh nghiệp, từ đó
đề xuất và kiến một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật đình công trong BLLĐ
năm 2012 và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đình công.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể sau: (i) Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về đình công, thực hiện
pháp luật đình công; (ii) Phân tích các quy định của BLLĐ năm 2012 về đình công;
(iii) Nghiên cứu và đánh giá thực tiễn những vụ việc đình công trong doanh nghiệp ở
Việt Nam xảy ra trong giai đoạn hiện nay; (vi) Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp luật về đình công.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp luận duy vật biện chứng. Trong từng
chương cụ thể có sử dụng các phương pháp: phương pháp lịch sử, logic, phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh.
Phương pháp nghiên cứu của từng chương như sau:
Chương 1: Tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử cụ thể, liệt kê, phân tích
và tổng hợp, phương pháp hệ thống để đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản về đình
công và thực hiện pháp luật đình công.
Chương 2: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp luật
học so sánh và phương pháp thống kê để làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành
và thực tiễn thực hiện pháp luật đình công trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.



6
Chương 3: Tác giả sử dụng phương pháp liên hệ, tổng hợp, hệ thống và đối chiếu
để đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đình
công trong doanh nghiệp ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Luận văn làm rõ các vấn đề pháp lý cơ bản về thực hiện pháp luật đình công
trong doanh nghiệp, từ đó, có cơ sở khoa học để nghiên cứu sâu hơn về lý luận về đình
công. Đề tài có thể sử dụng trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học tại các cơ
sở đào tạo luật.
Luận văn có ý nghĩa thực tiễn. Luận văn đánh giá thực tiễn thi hành quy định về
đình công của doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, tác
giả đưa ra một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả thực hiện quy định pháp luật về đình
công trong doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 Chương với 10
mục:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đình công và pháp luật đình công
- Chương 2: Quy định pháp luật về đình công và thực tiễn thực hiện pháp luật
đình công trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
- Chương 3: Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về đình công trong doanh nghiệp


7

CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CÔNG VÀ PHÁP LUẬT ĐÌNH CÔNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm tranh chấp lao động

Theo Điều 3 khoản 7 BLLĐ năm 2012: “TCLĐ là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ
và lợi ích phát sinh giữa các bên trong QHLĐ. TCLĐ bao gồm TCLĐ cá nhân giữa
NLĐ với NSDLĐ và TCLĐ tập thể giữa tập thể lao động với NSDLĐ."
Từ khái niệm trên có thể rút ra đặc điểm của TCLĐ như sau:
TCLĐ phát sinh tồn tại gắn liền với QHLĐ. Mối quan hệ này thể hiện ở hai điểm
cơ bản: Các bên tranh chấp bao giờ cũng là chủ thể của QHLĐ và đối tượng tranh
chấp chính là nội dung của QHLĐ đó. Trong quá trình thực hiện QHLĐ, có nhiều lý
do để các bên không thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đã được thống
nhất ban đầu. Ví dụ một trong hai bên chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của mình, hoặc
điều kiện thực hiện hợp đồng, thoả ước đã thay đổi làm cho những quyền và nghĩa vụ
đã xác định không còn phù hợp, hoặc cũng có thể do trình độ xây dựng hợp đồng và sự
hiểu biết về pháp luật còn hạn chế dẫn đến các bên không hiểu đúng các quy định của
pháp luật, các thoả thuận trong hợp đồng …
TCLĐ không chỉ là những tranh chấp về quyền mà còn bao gồm cả những tranh
chấp về lợi ích của các bên trong QHLĐ. Thực tế, hầu hết các tranh chấp khác (như
tranh chấp dân sự) thường xuất phát từ sự vi phạm pháp luật, vi phạm hợp đồng hoặc
do không hiểu đúng quyền và nghĩa vụ đã được xác lập mà dẫn đến tranh chấp. Riêng
TCLĐ có thể phát sinh trong trường hợp không có vi phạm pháp luật. Đặc điểm này bị
chi phối bởi bản chất QHLĐ và cơ chế điều chỉnh của pháp luật. Trong nền kinh tế thị
trường các bên của QHLĐ được tự do thương lượng, thoả thuận hợp đồng, thoả ước
phù hợp với quy luật của pháp luật cũng như khả năng đáp ứng của mỗi bên. Quá trình
thoả thuận thương lượng đó không phải bao giờ cũng đạt kết quả. Ngay cả khi đạt kết
quả thì những nội dung đã thoả thuận được cũng có thể trở thành không phù hợp do
các yếu tố mới phát sinh tại thời điểm tranh chấp.
Tính chất và mức độ của TCLĐ luôn phụ thuộc vào quy mô và số lượng tham gia
của một bên tranh chấp là NLĐ. TCLĐ nếu chỉ phát sinh giữa một NLĐ và NSDLĐ
(đối tượng tranh chấp là quyền, nghĩa vụ, lợi ích chỉ liên quan đến một cá nhân NLĐ)
thì tranh chấp đó đơn thuần là tranh chấp cá nhân. Sự ảnh hưởng của TCLĐ cá nhân
đến hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ ở mức độ hạn chế nên thường được xem là ít
nghiêm trọng. Nhưng nếu trong một thời điểm, có nhiều NLĐ cùng tranh chấp với

NSDLĐ, những tranh chấp đó lại cùng nội dung và nhất là khi những NLĐ này cùng
liên kết với nhau thành một tổ chức thống nhất để đấu tranh đòi quyền lợi chung thì
những TCLĐ đó đã mang tính tập thể. Mức độ ảnh hưởng của tranh chấp tập thể tuỳ
thuộc vào phạm vi xảy ra tranh chấp. TCLĐ có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của
bản thân, gia đình NLĐ, nhiều khi còn tác động đến an ninh công cộng.


8
Đặc điểm này xuất phát từ bản chất QHLĐ là quan hệ chứa đựng nhiều vấn đề
mang tính xã hội như thu nhập, đời sống, việc làm… của NLĐ. Vì vậy, khi TCLĐ xảy
ra, QHLĐ có nguy cơ bị phá vỡ, NLĐ có thể bị mất việc làm, mất thu nhập, mất nguồn
đảm bảo cuộc sống thường xuyên cho bản thân và gia đình nên đời sống của họ trực
tiếp bị ảnh hưởng. NSDLĐ và cả NLĐ sẽ phải tốn thời gian, công sức vào quá trình
giải quyết tranh chấp nên có thể việc sản xuất kinh doanh bị gián đoạn. Nghiêm trọng
hơn, là khi TCLĐ tập thể xảy ra ở những doanh nghiệp thiết yếu của nền kinh tế quốc
dân hoặc an ninh quốc phòng, trong một ngành hoặc một địa phương, thì còn có thể
ảnh hưởng đến sự phát triển và đời sống xã hội trong cả một khu vực, thậm chí có thể
ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Nếu không giải quyết kịp thời, những tranh chấp
đó có thể ảnh hưởng tới an ninh công cộng và đời sống chính trị xã hội của quốc gia.
1.1.2. Khái niệm đình công
Để đưa ra cách nhìn thống nhất và tương đối toàn diện về đình công, trước hết
cần xem xét đình công dưới những góc độ khác nhau. Cụ thể là đình công cần được
xem xét dưới các góc độ kinh tế, xã hội, chính trị và pháp lý với tư cách là một hiện
tượng tồn tại khách quan trong nền kinh tế thị trường.
Dưới góc độ kinh tế, đình công là biện pháp đấu tranh kinh tế được thực hiện bởi
những NLĐ, nhằm gây sức ép để đạt những yêu sách nhất định gắn với lợi ích kinh tế
hoặc lợi ích nghề nghiệp. Thực tế đình công của nhiều nước trên thế giới cho thấy chủ
thể bị gây sức ép có thể là NSDLĐ trực tiếp tham gia QHLĐ, cũng có thể là một chủ
sử dụng lao động ở nơi khác trong trường hợp đình công hưởng ứng, hoặc có thể là
Nhà nước1. Đình công là biện pháp đấu tranh mang tính tập thể nên thường có những

biểu hiện quá khích, nếu không kiểm soát kịp thời sẽ gây những hậu quả nghiêm trọng.
Chính khả năng gây thiệt hại về kinh tế hay đe doạ gây thiệt hại về kinh tế mà đình
công là phương thức có thể gây được áp lực với chủ thể đối diện, giúp tập thể lao động
đạt được các yêu sách về quyền và lợi ích. Đình công không phải là biện pháp duy
nhất để những NLĐ đạt được mục đích của mình, nhưng với sức ép mà đình công có
khả năng tạo ra, đình công thường được những NLĐ coi là cách thức có hiệu quả nhất
để bảo vệ các quyền và lợi ích của họ.
Để giải quyết những mâu thuẫn về quyền và lợi ích trong QHLĐ, tập thể lao động
có thể sử dụng các giải pháp mang tính ôn hoà như thương lượng trực tiếp với chủ sử
dụng lao động, hoặc thông qua vai trò của người trung gian giải quyết tranh chấp theo
phương thức hoà giải. Trong những trường hợp mâu thuẫn đã trở nên quá bức xúc và tập
thể lao động cho rằng họ có nhiều lợi thế hơn trong tương quan lao động, tập thể lao
động có thể tiến hành đình công. Đình công trở thành “vũ khí lợi hại” mà tập thể lao
động sử dụng trong cuộc đấu tranh kinh tế với NSDLĐ và Nhà nước (trong những
trường hợp chủ thể bị gây sức ép là Nhà nước), nhằm mục đích gây sức ép để giải quyết
những bất đồng về quyền và lợi ích theo hướng có lợi cho tập thể lao động.
1

Đại từ điển bách khoa toàn thư Xô viết (1972), Tập 9, Nxb Từ điển bách khoa Xô viết, Mátxcơva, tr.259- 271


9
Đình công để lại nhiều hậu quả cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến lợi ích của tập
thể và cá nhân NLĐ ở một mức độ nhất định, hoặc gây thiệt hại cho kinh tế xã hội nói
chung. Do vậy, đã có ý kiến cho rằng đình công có thể ví như mặt trái của kinh tế thị
trường. Đối với NSDLĐ, khi đình công xảy ra sẽ làm ngưng trệ sản xuất, đảo lộn trật
tự quản lý doanh nghiệp, làm giảm năng suất và chất lượng sản phẩm. Đây được coi là
những thiệt hại trực tiếp do đình công gây ra và có thể dễ dàng xác định trong thực tế.
Ngoài ra, sự ngừng trệ sản xuất trong đình công còn ảnh hưởng đến việc hoàn thành
các hợp đồng kinh tế, làm mất uy tín của doanh nghiệp trong kinh doanh. Đây là

những thiệt hại khó xác định và gây hậu quả không nhỏ trong thực tiễn. Vì vậy, đình
công được coi là biện pháp đấu tranh kinh tế mà NLĐ áp dụng trong cuộc đọ sức với
NSDLĐ.
Đình công có thể để lại những hậu quả lâu dài trong QHLĐ. Nếu không được giải
quyết triệt để, đình công sẽ làm xấu đi tình trạng của QHLĐ. Đối với các cuộc đình
công không trực tiếp nhằm vào chủ sử dụng lao động và có yêu sách vượt khỏi phạm
vi QHLĐ, nhằm gây áp lực với một chủ thể khác hay Nhà nước, đình công vẫn gây
hậu quả xấu cho doanh nghiệp đang diễn ra đình công. Đình công làm cho tiến độ sản
xuất bị giảm sút, bản thân NLĐ (kể cả người tham gia và không tham gia đình công) bị
thiệt hại về thu nhập và ảnh hưởng đến công việc.
Như vậy, đình công mặc dù được nhìn nhận như một biện pháp đấu tranh kinh tế
của tập thể lao động nhằm đạt những yêu sách có lợi cho chính họ, nhưng lại gây
những thiệt hại về vật chất đối với các chủ thể khác, có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến
kinh tế xã hội. Điều đó đòi hỏi các quốc gia cần có những giải pháp nhằm kiềm chế
các ảnh hưởng tiêu cực của đình công, hạn chế tình trạng đình công bất hợp pháp và
những cuộc đình công không có mục đích chính đáng.
Dưới góc độ xã hội, đình công là hành vi ngừng việc được thực hiện bởi ý chí tự
nguyện của nhiều NLĐ. Thực tế có những cuộc đình công diễn ra ở quy mô nhỏ, chỉ
thu hút sự tham gia của một số lượng rất ít NLĐ, nhưng cũng có những cuộc đình
công diễn ra trên quy mô toàn quốc, thu hút sự tham gia của hàng vạn NLĐ.
Khả năng liên kết và tập hợp đông đảo sự tham gia của những NLĐ là một trong
những nhân tố quyết định thắng lợi của một cuộc đình công. Trong nhiều cuộc đình
công, những NLĐ thường tụ tập trước cổng xí nghiệp để ngăn cản hay kích động
những công nhân khác không vào làm việc, kêu gọi sự giúp đỡ để ủng hộ những NLĐ
đang tham gia đình công, hay chiếm xưởng ngăn không cho NLĐ khác vào làm việc...
Những hành vi nhằm thu hút sự tham gia đông đảo và lôi kéo sự ủng hộ của những
NLĐ khác đối với cuộc đình công không phải lúc nào cũng được coi là hợp pháp. Tuy
nhiên, nó đã chứng tỏ tính quần chúng của đình công và là sự thể hiện rõ nét bản chất
xã hội của đình công.
Đình công xét dưới góc độ xã hội còn là hiện tượng có khả năng gây mất ổn định

đối với trật tự xã hội. Với các cuộc đình công diễn ra ở quy mô nhỏ, hành vi ngừng
việc diễn ra một cách hoà bình, mức độ ảnh hưởng đến trật tự xã hội sẽ không lớn.


10
Nhưng với các cuộc đình công diễn ra ở phạm vi rộng, thu hút sự tham gia đông đảo
của hàng nghìn NLĐ, kèm theo hành vi ngừng việc là những biểu hiện quá khích như
la hét phản đối, đập phá máy móc hay xô xát với người của chủ sử dụng lao động
thường gây ra những bất ổn lớn về mặt xã hội. Nếu không giải quyết kịp thời, hậu quả
của đình công sẽ không dừng lại ở những thiệt hại đơn thuần về vật chất, mà sẽ kéo
theo những hậu quả nghiêm trọng về chính trị, xã hội. Sự mất ổn định về xã hội do
đình công gây ra có thể là việc tạm thời ngừng trệ hoạt động của một số ngành kinh tế
có vai trò thiết yếu trong đời sống cộng đồng, gây bất ổn đến sinh hoạt của dân cư,
hoặc gây tâm lý hoang mang cho những người dân bởi lo ngại một cuộc khủng hoảng
kinh tế có thể sẽ xảy ra nếu đình công kéo dài.
Trong một vai trò nhất định, đình công cũng góp phần bảo vệ những giá trị tiến
bộ xã hội như quyền dân chủ trong lĩnh vực lao động, quyền tự do định đoạt và một số
quyền khác. Để có được quyền đình công như hiện nay, giai cấp công nhân đã phải trải
qua quá trình đấu tranh lâu dài để giành những giá trị dân chủ trong đời sống chính trị
xã hội nói chung và trong lĩnh vực lao động nói riêng. Nếu dân chủ được hiểu là “sự
thống trị của đa số”2, thì dân chủ trong lao động được hiểu là sự thực hiện quyền lực
của số đông (những NLĐ) trong quá trình lao động.
Bản chất của QHLĐ là quan hệ mua bán sức lao động, do đó về mặt nguyên tắc
cần đảm bảo sự thoả thuận bình đẳng của NLĐ và NSDLĐ. Nhưng các yếu tố khách
quan tồn tại trong nền kinh tế thị trường đã hạn chế sự thương lượng bình đẳng của
NLĐ. Với việc tiến hành đình công, NLĐ có thể giành lại những lợi ích hợp pháp và
chính đáng mà họ có quyền được hưởng. Các yêu sách trong đình công thường có xu
hướng kết hợp giữa lợi ích kinh tế với lợi ích văn hoá, xã hội, giữa những mục tiêu
trước mắt với những vấn đề lâu dài như bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện an sinh
xã hội. Như vậy, đình công đã góp phần tạo nên không khí dân chủ hoá trong lao

động, mang lại lợi ích thiết thực, dễ thấy cho mỗi người và góp phần tạo thêm động
lực thúc đẩy NLĐ hoạt động3.
Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực do đình công gây ra đối với trật tự ổn định
xã hội, ở một mức độ nhất định, đình công đã góp phần đem lại những giá trị dân chủ
trong lĩnh vực lao động xã hội. Các cuộc đình công của giai cấp công nhân trong lịch
sử đã chứng minh vai trò quan trọng của đình công trong việc đảm bảo các giá trị nhân
văn, tạo điều kiện cho sự phát triển của cá nhân NLĐ, kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá
nhân của NLĐ với lợi ích chung của tập thể, xoá đi khoảng cách giữa lợi ích của ông
chủ với lợi ích của những NLĐ4.

2

V.I. Lê nin (1979), Toàn tập, Tập 8, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, tr. 66
Nguyễn Trọng Chuẩn (1996), “Vai trò động lực của dân chủ đối với hoạt động và sáng tạo của con người”, Tạp
chí Triết học (05), tr.5
4
Đỗ Nguyên Phương (1993), Những vấn đề chính trị xã hội của cơ cấu xã hội giai cấp ở nước ta, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr. 92-93
3


11
Dưới góc độ chính trị, đình công là hiện tượng có thể gây bất ổn đến tình hình
chính trị của quốc gia. Đình công có mục đích chủ yếu là bảo vệ các quyền và lợi ích
nghề nghiệp của những NLĐ trong QHLĐ. Nhưng đình công có thể bị lợi dụng để đưa
thêm các yêu sách chính trị. Trong trường hợp đó, hình thức đình công kinh tế sẽ biến
tướng thành các hình thức đình công chính trị (thuần tuý có yêu sách chính trị) hay
đình công hỗn hợp (kết hợp những yêu sách kinh tế và những yêu sách chính trị).
Những cuộc đình công này được coi như một loại công cụ chính trị mà giai cấp công
nhân có thể sử dụng để phản đối một quyết định của Chính phủ trong chính sách đối

nội hay đối ngoại mà sự thực thi chính sách đó có thể ảnh hưởng đến đời sống của
NLĐ.
Việc có thừa nhận các hiện tượng ngừng việc mang màu sắc chính trị là hợp pháp
hay không còn tuỳ thuộc vào quan điểm của từng quốc gia. Nhưng sự tồn tại của các
cuộc đình công chính trị trong thực tiễn đã cho thấy tính chất nhạy cảm của vấn đề
đình công. Đình công là một hiện tượng phản kháng thường có khuynh hướng mở
rộng phạm vi và luôn biến đổi hình thái, nó có khả năng trở thành mối đe doạ, hoặc
trực tiếp gây ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị của một quốc gia. Để gây được sức
ép, đình công có thể được thực hiện bất ngờ trong những thời điểm cần thiết, nhằm
chớp thời cơ. Đây là một trong các yếu tố góp phần tạo nên thắng lợi của mỗi cuộc
đình công. Nhưng nếu không được báo trước, chính quyền sở tại rất khó có thể biết
trước về khả năng xảy ra đình công, cũng như dự liệu trước hậu quả của đình công.
Dưới góc độ pháp lý, đình công là một quyền của NLĐ được pháp luật thừa nhận
(theo Điều 8 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá của Liên hiệp
quốc)5. Quyền đình công được hiểu là quyền ngừng việc tạm thời của những NLĐ,
nhằm buộc NSDLĐ hoặc các chủ thể khác phải thoả mãn những yêu sách về quyền và
lợi ích và được NLĐ tự nguyện tiến hành trong khuôn khổ pháp luật. Việc thừa nhận
quyền đình công của NLĐ có thể được quy định trong Hiến pháp (như ở Cộng hoà liên
bang Đức, Pháp) hoặc được quy định trong BLLĐ (như ở Liên bang Nga, Philippin,
Thái lan). Vì là một loại quyền của NLĐ nên đình công phải được thực hiện thông qua
hành vi ngừng việc của chính những NLĐ, nhằm hướng tới những lợi ích nghề nghiệp
và xuất phát từ QHLĐ. Quyền đình công chỉ được thừa nhận là quyền của những
NLĐ. Những NSDLĐ, những cá nhân không có việc làm, thành viên của các tổ chức
chính trị xã hội không được quyền đình công. Tuy nhiên, cách hiểu khái niệm NLĐ
hiện cũng rất khác nhau, dẫn đến việc xác định đối tượng có quyền đình công ở các
quốc gia cũng rất khác nhau.
Quan điểm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và đa số các quốc gia đều cho
rằng các cuộc đình công kinh tế, được thực hiện vì những lợi ích gắn với QHLĐ mới
thuộc phạm vi cho phép của quyền đình công. Những cuộc đình công chính trị đều
không thuộc phạm vi QHLĐ và vượt ra ngoài khuôn khổ của quyền đình công.

5

Đại hội đồng Liên hiệp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá


12
Không như các loại quyền khác có thể được thực hiện thông qua hành vi cá nhân
của NLĐ (như quyền được hưởng lương, quyền được bảo hiểm xã hội hay quyền khởi
kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp...), quyền đình công không thể được thực hiện
thông qua hành vi ngừng việc của cá nhân một cách đơn lẻ. Đình công chỉ được thừa
nhận là quyền của NLĐ khi đó là hành vi đồng loạt nghỉ việc của tập thể lao động một
cách có tổ chức, nhằm hướng tới những mục tiêu chung. Nét đặc trưng của quyền đình
công là quyền của cá nhân NLĐ nhưng phải được thực hiện thông qua hành vi mang
tính tập thể. Đình công vì thế là một hiện tượng tập thể. Trong thực tế, quyền đình
công thường được thực hiện thông qua hành vi ngừng việc của nhiều NLĐ. Các cuộc
đình công thường có xu hướng tìm cách thu hút sự tham gia và ủng hộ của đông đảo
NLĐ vì đó là một trong các yếu tố tăng thêm sức ép của đình công. Do vậy, đã có nhà
nghiên cứu cho rằng: “Quyền đình công là một quyền tập thể”. Quan điểm này dựa
trên cơ sở đánh giá các biểu hiện bên ngoài của hiện tượng đình công, nhưng chưa
phản ánh chính xác bản chất của loại quyền đặc biệt này. Xét về bản chất pháp lý, đình
công là một loại quyền của cá nhân NLĐ. Theo đó, NLĐ có quyền tự quyết định tham
gia hay không tham gia đình công, tự do ý chí trong việc đưa yêu sách. Nhưng việc
thực hiện quyền đình công của NLĐ lại không thể thông qua hành vi cá nhân, mà phải
được thực hiện thông qua hành động đồng loạt ngừng việc của tập thể lao động. Việc
một cá nhân NLĐ ngừng việc nhằm nêu yêu sách mang tính cá nhân, không được sự
ủng hộ của những NLĐ khác thông qua hành vi cùng ngừng việc không được coi là
biểu hiện của quyền đình công và nằm ngoài phạm vi được phép thực hiện của quyền
đình công. Như vậy, đình công là một loại quyền cho phép NLĐ được tự do lựa chọn
cách xử sự trong khuôn khổ pháp luật, nhưng việc thực hiện quyền này phải thông qua
hành vi mang tính tập thể là sự tự nguyện ngừng việc của những NLĐ.

Trên cơ sở những vấn đề nêu trên, có thể thấy bản chất chung nhất của đình công
là biện pháp đấu tranh kinh tế của những NLĐ, được thực hiện bằng cách ngừng việc
tập thể và có tổ chức, nhằm gây sức ép buộc NSDLĐ hoặc một chủ thể khác phải chấp
nhận các yêu sách gắn với lợi ích nghề nghiệp.
Tham khảo pháp luật về đình công của một số nước, có thể thấy không phải quốc
gia nào khi thừa nhận quyền đình công cũng đưa ra khái niệm đình công. ILO cũng chỉ
đưa ra nhận định như sau về đình công: Đình công là một trong những biện pháp thiết
yếu mà NLĐ và các tổ chức của họ có thể sử dụng để xúc tiến và bảo vệ các lợi ích
kinh tế và xã hội của mình, không chỉ nhằm đạt tới những điều kiện làm việc tốt hơn
hoặc có những yêu cầu tập thể mang tính nghề nghiệp, mà còn nhằm tìm ra những giải
pháp cho các vấn đề chính sách kinh tế - xã hội và các vấn đề lao động bất kỳ loại nào
mà NLĐ trực tiếp quan tâm6.

6

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1997), Công đoàn bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người lao động
trước Toà án, Hà Nội, tr.31


13
Với quan điểm này, ILO bước đầu chỉ rõ đình công là một trong các biện pháp để
bảo vệ NLĐ, đình công phải nhằm đạt các mục đích kinh tế - xã hội vì quyền đình
công thuộc loại quyền kinh tế xã hội. Tuy nhiên nhận định này chưa chỉ ra được các
dấu hiệu để nhận dạng đình công, cũng như phân biệt đình công với các hiện tượng xã
hội gần giống nó, do đó chưa thể coi là định nghĩa về đình công. Tại Cộng hoà Pháp,
mặc dù đã thừa nhận quyền đình công của NLĐ từ năm 1946, song trong BLLĐ hiện
hành có hiệu lực từ ngày 23/11/19737 và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn chưa có
khái niệm chính thức, đầy đủ và thống nhất về đình công. Tác giả của một số học
thuyết pháp lý, cũng như các Thẩm phán trong quá trình giải quyết đình công đã nêu
lên quan điểm riêng về đình công. Cuốn Bách khoa toàn thư của Cộng hoà Pháp nhận

định: “Đình công là ngừng việc có bàn tính, nhằm nhấn mạnh những yêu sách mà
NSDLĐ không muốn làm thoả mãn”8. Còn theo quan điểm của Helene Siney: “Đình
công là sự từ chối công việc tập thể và có bàn tính, thể hiện ý định của NLĐ tự đặt
mình tạm thời ra ngoài hợp đồng lao động, để đảm bảo thành công cho các yêu sách
của họ”9. Nhìn chung, các quan điểm khoa học pháp lý ở Cộng hoà Pháp đã nêu được
các dấu hiệu cơ bản của đình công là sự ngừng việc có tính tập thể và nhằm gây sức ép
với NSDLĐ. Có thể các khái niệm này chưa đầy đủ và chi tiết, song chúng ta cũng có
thể tham khảo khi đưa ra khái niệm chính thức về đình công trong pháp luật Việt Nam.
Việc đưa ra một khái niệm tương đối chuẩn về đình công trong pháp luật thực
định là vấn đề cần thiết để nhận dạng đình công, cũng như xác định các quy chế pháp
lý cho việc giải quyết đình công. Ngoài ra, do đình công là một hiện tượng mang tính
khách quan trong kinh tế thị trường, nên trong quá trình nhận thức về đình công,
không thể bỏ qua việc xem xét đặc điểm của đình công gắn với bối cảnh kinh tế xã hội
nơi đình công phát sinh và tồn tại.
Trên cơ sở những vấn đề nêu trên, có thể đưa ra khái niệm đình công như sau:
Đình công là hiện tượng ngừng việc hoàn toàn (ngừng việc triệt để), có tổ chức của
tập thể lao động nhằm gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại về kinh tế để buộc
NSDLĐ hay một chủ thể khác phải thoả mãn những yêu sách gắn với lợi ích của tập
thể lao động. Khái niệm này bao quát đầy đủ những thuộc tính phổ biến nhất của mọi
trường hợp đình công phát sinh và tồn tại trong kinh tế thị trường, có thể vận dụng để
nhận dạng đình công trong thực tiễn, cũng như phân biệt đình công với các hiện tượng
tương tự khác. Tuy nhiên, việc vận dụng khái niệm này trong quá trình ban hành pháp
luật cần rất thận trọng bởi việc giữ nguyên khái niệm trên hay thu hẹp khái niệm đình
công dưới góc độ pháp lý khi quy định trong văn bản pháp luật còn phụ thuộc vào
quan điểm lập pháp và sự định hướng của Nhà nước.

7

Cộng hoà Pháp, Đạo luật số 79-634 ngày 26/7/1979
Lenouveau Mémo (1999), Presses larousse, tr.4060

9
Helene Siney ((1981), Que sais-je. Presses Universitaire de France, tr.35
8


14
1.2. Các dấu hiệu cơ bản của đình công
1.2.1. Đình công là sự phản ứng của những người lao động thông qua hành vi
ngừng việc tạm thời
Sự phản ứng của những NLĐ thông qua ngừng việc tạm thời là dấu hiệu cơ bản
giữ vị trí quan trọng để phân biệt đình công với các dấu hiệu khác. NLĐ khi ngừng
việc tạm thời khác với sự ngừng việc thông thường là cần có sự đồng ý của NSDLĐ
hoặc có lý do bất khả kháng nào khác mà NSDLĐ cho phép nghỉ. Ngừng việc tạm thời
và hoàn toàn này xuất phát từ ý chí chủ quan của tập thể NLĐ nhằm tạo một áp lực lên
NSDLĐ thông qua ý chí chủ quan của tập thể NLĐ.
Vấn đề tạm thời ngừng việc trong một thời gian ngắn nhưng triệt để và hoàn toàn,
trong quá trình đó NLĐ không làm bất kỳ công việc gì khác có liên quan đến QHLĐ,
trừ trường hợp phải tiến hành công việc do phạm vi luật định hoặc an toàn xã hội.
Sự ngừng việc này diễn ra ở mức độ khác nhau trong mỗi QHLĐ, việc ngừng
việc hoàn toàn sau khi tuyên bố đình công cho đến khi có được đáp ứng nhu cầu hay
không thường diễn ra đến khi có lệnh quay trở lại làm việc do đã đáp ứng được yêu
cầu hoặc quay trở lại làm việc do người lãnh đạo đình công quyết định.10
1.2.2. Đình công phải có sự tự nguyện của người lao động
Sự tự nguyện của NLĐ chính là tự bản thân NLĐ có mong muốn tham gia đình
công thông qua ý chí của họ, NLĐ tham giao vào đình công mà trong khi vẫn có
những cách giải quyết khác cho vấn đề đang phải đối mặt. Họ hoàn toàn không bị
người khác bắt buộc, cưỡng ép ngừng việc. Nếu tập thể lao động hay NLĐ bị cưỡng
ép phải ngừng việc hoặc ngừng việc do thiếu nguyên liệu sản xuất kinh doanh thì
trường hợp đó cũng không coi là đình công11.
1.2.3. Đình công luôn có tính tập thể

Tính tập thể là một trong những dấu hiệu cơ bản của đình công. Đình công là sự
phản ứng nhằm gây sức ép với NSDLĐ nên thường có xu hướng thu hút và kêu gọi sự
tham gia của đông đảo NLĐ nhằm làm tăng sức mạnh của cuộc đình công, những
người tham gia đình công thường tìm cách vận động hoặc thậm chí ép buộc những
NLĐ khác tham gia đình công. Hành vi ép buộc NLĐ khác ngừng việc hoặc ngăn cản
NLĐ khác vào làm việc thực chất đã vi phạm nguyên tắc tự do ý chí trong việc thực
hiện quyền đình công. Do đó, pháp luật của đa số các nước (Thái Lan, Philippin, Pháp,
Nga...) đều quy định cấm thực hiện hành vi đe dọa, lừa dối hay ép buộc trong quá trình
đình công. Với mục đích hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đình công do khả năng mở
rộng phạm vi và gây mất ổn định trật tự xã hội, một số quốc gia (Thái Lan,
Philippin...) còn có những quy định hạn chế quy mô đình công. Quy định này thực tế
rất ít tính khả thi.12 Hơn nữa, tính tập thể là dấu hiệu không thể thiếu, luôn gắn liền với
hiện tượng đình công. Dấu hiệu này là căn cứ cơ bản để phân biệt đình công với sự
10

Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.547
Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.548
12
Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.549
11


15
ngừng việc của cá nhân NLĐ. Chính vì vậy, quyền đình công dù là quyền của cá nhân
NLĐ nhưng thực hiện đình công bao giờ cũng là hành vi mang tính tập thể. Việc thực
hiện quyền đình công của NLĐ không thể thông qua hành vi cá nhân mà phải được
thực hiện thông qua hành động ngừng việc của tập thể lao động; thông qua sự kết hợp
nhau lại, cùng chung ý chí, mục đích và hành động ngừng việc của các cá nhân NLĐ.
1.2.4. Đình công được thực hiện một cách có tổ chức13
Đình công là phản ứng mang tính tập thể của nhiều NLĐ. Để đạt được mục đích

của cuộc đình công, không thể thiếu vai trò của người lãnh đạo. Vì vậy, tính tập thể và
tính tổ chức là hai dấu hiệu không thể tách rời của một cuộc đình công. Về cơ bản dấu
hiệu này được biểu hiện ở sự chủ định từ trước, có sự phối hợp về mặt ý chí và tổ chức
của NLĐ. Sự ngừng việc này phải có sự tổ chức, lãnh đạo, Điều hành thống nhất của
một hay một nhóm người với yêu sách rõ ràng. Thành phần lãnh đạo đình công có thể
là tổ chức đại diện của những NLĐ như Công đoàn hay nghiệp đoàn, có thể chỉ là một
người hay một nhóm người được tập thể lao động bầu ra tại thời điểm chuẩn bị đình
công. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Công đoàn là tổ chức đại diện cho NLĐ
có quyền quyết định và lãnh đạo cuộc đình công.
1.2.5. Mục đích của đình công là nhằm đạt được các yêu sách của tập thể
người lao động thông qua việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại về kinh tế, đạt
được những yêu sách gắn với lợi ích của tập thể lao động với người sử dụng lao
động14
Mục đích của đình công chính là đạt được các yêu sách tập thể mà những yêu
sách đó có thể đã được pháp luật quy định hoặc chưa được pháp luật quy định, có thể
xuất phát từ những yêu cầu chính đáng, cũng có thể xuất phát từ nguyện vọng khác
nhưng phải liên quan đến QHLĐ và nhằm vào một chủ thể nhất định, với nội dung rõ
ràng hoặc tương đối rõ ràng. Hiện tượng ngừng việc tập thể của những NLĐ chỉ là
biểu hiện bên ngoài của ý chí phản kháng khi họ cần bảo vệ những quyền và lợi ích
nhất định. Thông qua hành động ngừng việc, tập thể lao động muốn gây sức ép với
chủ thể đối diện nhằm đạt được những yêu sách về kinh tế. Chủ thể bị gây sức ép
thông thường là NSDLĐ hoặc giới sử dụng lao động trực tiếp tham gia QHLĐ với
những NLĐ. Khi NSDLĐ hoặc giới sử dụng lao động không thực hiện đúng những
nghĩa vụ theo quy định của pháp luật lao động hay không chấp nhận những yêu sách
về lợi ích của tập thể lao động thì TCLĐ phát sinh. Nếu không được giải quyết, TCLĐ
là nguyên nhân cơ bản dẫn đến đình công.
1.3. Phân loại đình công
Việc phân loại đình công giúp cho quá trình giải quyết đình công được nhanh
chóng và hiệu quả, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nó tới sản xuất và đời sống
của NLĐ cũng như đối với nền kinh tế xã hội nói chung.

13
14

Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.550
Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.551


16
Căn cứ vào tính hợp pháp của đình công ta có đình công hợp pháp và đình công
bất hợp pháp.15 Đình công hợp pháp là những cuộc đình công được tiến hành theo
đúng quy định của pháp luật. đình công bất hợp pháp là những cuộc đình công thiếu
một trong số các điều kiện luật định. Như vậy, tính hợp pháp của đình công chỉ được
xét chủ yếu dưới góc độ thủ tục tiến hành đình công mà không xét về nội dung của các
yêu sách trong đình công.
Căn cứ vào phạm vi đình công có thể phân thành đình công doanh nghiệp, đình
công bộ phận, đình công toàn ngành.16 Đình công doanh nghiệp là những cuộc đình
công do tập thể NLĐ trong phạm vi một doanh nghiệp tiến hành. Đình công bộ phận là
những cuộc đình công do tập thể lao động trong phạm vi một bộ phận cơ cấu của
doanh nghiệp tiến hành. Đình công toàn ngành là những cuộc đình công của những
NLĐ trong phạm vi một ngành trên toàn quốc tiến hành. Pháp luật nước ta chỉ thừa
nhận những cuộc đình công trong phạm vi doanh nghiệp (đình công doanh nghiệp và
đình công bộ phận) là hợp pháp.
Căn cứ vào mục đích đình công có thể phân chia thành đình công yêu sách và
đình công hưởng ứng (ủng hộ).17 Đình công yêu sách là đình công nhằm đạt được một
số yêu sách nhất định về kinh tế. Đình công hưởng ứng là đình công nhằm ủng hộ, bày
tỏ thái độ đồng tình để ủng hộ các cuộc đình công khác mà không hưởng những yêu
sách cho mình.
1.4. Nội dung điều chỉnh pháp luật đối với đình công
1.4.1. Sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề đình công
Đình công là hiện tượng xuất hiện khách quan trong nền kinh tế thị trường và là

một vấn đề phức tạp, mặc dù có những ảnh hưởng tích cực đến đời sống xã hội như
đảm bảo quyền dân chủ của NLĐ, giúp cân bằng lợi ích trong QHLĐ vốn không cân
bằng, nhưng đình công luôn tiềm ẩn những nguy cơ gây ra tác động xấu đến xã hội,
nền kinh tế và đôi khi là chính trị của một quốc gia. Sự điều chỉnh bằng pháp luật đối
với đình công là cần thiết, đảm bảo phát huy những mặt tích cực và kiểm soát được
những vấn đề tiêu cực mà đình công mang lại.
Thứ nhất, việc điều chỉnh bằng pháp luật về đình công nhằm góp phần định
hướng cho sự phát triển của QHLĐ theo ý chí chủ quan của nhà nước. Đảm bảo việc
đình công không gây ảnh hưởng lớn đến chính trị, sự ổn định cho xã hội và sự phát
triển của nền kinh tế.
Thứ hai, việc điều chỉnh bằng pháp luật về đình công giúp bảo vệ quyền và lợi
ích cho bên yếu thế trong QHLĐ, là NLĐ. Mặc dù pháp luật quốc tế thừa nhận quyền
đình công của NLĐ, tuy nhiên chỉ khi pháp luật từng quốc gia cụ thể hóa bằng những
quy định cụ thể, đảm bảo khung pháp lý cho NLĐ tiến hành đình công, khi đó NLĐ
mới có cơ sở tiến hành thực hiện quyền dân chủ của mình, bởi đảm bảo bằng pháp luật
15

Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.565
Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.564
17
Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.543
16


17
là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các quyền con người, quyền công dân
được thực hiện.
Thứ ba, điều chỉnh bằng pháp luật đình công giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
NSDLĐ. Mặc dù là bên có lợi thế trong QHLĐ, nhưng trước những tính chất cũng như
diễn biến phức tạp của đình công, NSDLĐ cũng sẽ có nguy cơ gặp phải hậu quả tiêu

cực như bị xâm phạm quyền sở hữu tài sản, quyền được bảo vệ về sức khỏe, tính
mạng. Bởi vậy, để đảm bảo quyền dân chủ của một số đối tượng trong xã hội không
làm ảnh hưởng đến những quyền pháp định của đối tượng khác, việc quy định rõ
những việc được làm và không được làm khi tiến hành đình công của tập thể NLĐ là
cần thiết đối với việc xây dựng pháp luật.
Thứ tư, điều chỉnh pháp luật bằng đình công giúp bảo đảm sự bình ổn tương đối
của QHLĐ sau đình công. Thông thường, khi xung đột về quyền và lợi ích giữa các
bên trong QHLĐ không thể dàn xếp được thông qua các biện pháp ôn hoà, đình công
sẽ nổ ra, dẫn đến hiện tượng ngừng trệ sản xuất. Nếu không giải quyết kịp thời, đình
công sẽ gây ra những phản ứng dây chuyền đối với toàn bộ nền sản xuất xã hội. Vì
vậy, giải quyết đình công nhanh chóng và hiệu quả chính là góp phần bảo vệ sự ổn
định của phương thức sản xuất hiện hành.
1.4.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về đình công
Nội dung của pháp luật đình công chính là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
Nhà nuốc ban hành để điều chỉnh các quan hệ pháp luật về đình công, mà các chủ thể
thực hiện pháp luật về đình công cần phải thực hiện.
Pháp luật về đình công bao gồm những nội dung như sau:
Thứ nhất, mục đích của đình công
Mục đích chủ yếu của đình công là đòi lợi ích kinh tế. Điều này cũng phù hợp với
quan điểm của tổ chức ILO khi chấp nhận các cuộc đình công về mục đích kinh tế, có
một số cuộc đình công mang mục đích chính trị nhưng không mang bản chất kinh tế
xã hội không được thừa nhận, một số quốc gia thừa nhận đình công tập thể hưởng ứng
khi đình công hợp pháp và có bản chất kinh tế như Anh, Thụy Điển, bên cạnh đó, một
số quốc gia như Pháp, Đức, Nga không thừa nhận đình công vì mục đích chính trị. 18
Ngoài ra, mục đích của đình công khi tham gia vào quan hệ trong nền kinh tế thị
trường còn bảo đảm việc bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ – được coi là một bên yếu
thế trong QHLĐ.
Thứ hai, đối tượng được phép đình công
Ở một số quốc gia đang phát triển thường thừa nhận quyền đình công của NLĐ
để tránh việc đình công vì mục đích chính trị. Ở Việt Nam cũng tương tự như vậy,

NLĐ và tập thể lao động là đối tượng làm công ăn lương chính và họ phải tuân thủ các
nguyên tắc mà NSDLĐ đưa ra, nay nếu không tiến hành việc lao động thì họ chính là
18

Đỗ Ngân Bình (2005), Pháp luật về đình công và giải quyết đình công ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế, Luận án Tiến sỹ luật học, tr.42


18
đối tượng được phép đình công. Một số quốc gia trên thế giới nhấn mạnh đình công là
quyền của NLĐ, họ được sử dụng đình công để bảo vệ lợi ích nghề nghiệp. Một số
quốc gia còn thừa nhận cả việc đình công của công chức nhà nước như Hy Lạp,
Pháp,… còn một số quốc gia không thừa nhận quyền đình công của công chức như
Mỹ, Thái Lan, Thụy Sỹ19.
Theo ILO, đối tượng đình công không giới hạn và không có quy định bắt buộc,
mà tùy điều kiện của mỗi quốc gia, đối tượng đình công được quy định khác nhau. Ví
dụ ở Cộng hòa Pháp thừa nhận tính chất hợp pháp của đối tượng đình công trong phạm
vi doanh nghiệp, đình công ngành và đình công toàn quốc thông qua việc không quy
định phạm vi đình công trong BLLĐ và các văn bản hướng dẫn. Hoặc ở Cộng hòa liên
bang Đức cũng không hạn chế phạm vi đình công, đình công toàn ngành, tổng đình
công toàn quốc vẫn có thể coi là hợp pháp20.
Ở Việt Nam, đối tượng được đình công chủ yếu là NLĐ (theo khoản 1 Điều 5
BLLĐ năm 2012). NLĐ ở đây phải là người được làm việc theo hợp đồng lao động và
phải thuộc đối tuộng được đình công không bị cấm bởi các quy định của pháp luật, để
nhằm mục đích ổn định kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng.
Thứ ba, thời điểm tiến hành đình công
Thời điểm có quyền đình công được hiểu là thời điểm tập thể lao động được phép
sử dụng quyền đình công theo quy định của pháp luật. Thời điểm tiến hành đình công
ở nước ta quy định là kể từ khi có tranh chấp, phía NLĐ buộc phải trải qua một thời
gian và thực hiện một số thủ tục nhất định để giải quyết tranh chấp sau đó mới được

đình công.21 Quan điểm của đa số các quốc gia là chỉ cho phép thực hiện quyền đình
công khi thật sự cần thiết để tránh tối đa các tiêu cực của cuộc đình công. Đình công
xuất phát từ những TCLĐ, các quốc gia đều có quy định về việc hòa giải trước khi tiến
hành đình công, tuy nhiên về mức độ hòa giải đối với mỗi loại tranh chấp hoặc các
quốc gia lại khác nhau. Theo Khuyến nghị số 92 về hòa giải và trọng tài tự nguyện
năm 1951, ILO có lưu ý các nước cần tránh việc hòa giải hoặc trọng tài như một thủ
tục để hạn chế đình công, đặc biệt là không nên dùng trong tài bắt buộc để cấm đoán
việc đình công.22
Thứ tư, trình tự, thủ tục đình công
- Trình tự, thủ tục đình công là các bước công việc tập thể NLĐ phải thực hiện
khi đình công. Tuy nhiên nhiều quốc gia lại quy định trình tự thủ tục rất phức tạp
khiến cho việc đình công đã được chuẩn bị kỹ lưỡng vẫn không thể diễn ra theo đúng
quy trình trên thực tế. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục đình công bao
gồm thủ tục chuẩn bị đình công, thủ tục tiến hành đình công. Chuẩn bị đình công bao
19

Báo điện tử (2006), “Công chức Pháp đình công đòi tăng lương” tại địa chỉ: truy cập ngày 10/7/2016.
20
Đỗ Ngân Bình (2005), Pháp luật về đình công và giải quyết đình công ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế, Luận án Tiến sỹ luật học, tr.49
21
Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.571
22
Hà Thị Hoa Phượng (2013), Đình công và giải quyết đình công theo Bộ luật Lao động năm 2012”, tr.24


×