Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Hoạt động lấy lời khai của đương sự và thực tiễn tại các tòa án nhân dân ở tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.5 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LƯƠNG TIẾN CHUNG

HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI CỦA ĐƯƠNG SỰ VÀ THỰC
TIỄN TẠI CÁC TOÀ ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN LA
Chuyên ngành

: Luật Dân sự và TTDS

Mã số

: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

(Định hướng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ HÀ

HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kì chương


trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả Luận văn

Lương Tiến Chung


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

HĐTPTATC

: Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

TAND

: Tòa án nhân dân

THADS

: Thi hành án dân sự

TTDS

: Tố tụng dân sự

UBND


: Ủy ban nhân dân

VADS

: Vụ án dân sự

VVDS

: Vụ việc dân sự


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI CỦA
ĐƯƠNG SỰ CỦA TOÀ ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ...................................... 5

1.1.Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động lấy lời khai của đương
sự của Tòa án trong tố tụng dân sự ............................................................... 5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động lấy lời khai của đương sự của
Tòa án trong tố tụng dân sự ...................................................................... 5
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa án
trong tố tụng dân sự ................................................................................ 10
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động lấy lời khai của đương sự trong tố tụng dân
sự ............................................................................................................. 15
1.2. Nội dung pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về hoạt động lấy lời khai
của đương sự của Tòa án ............................................................................ 18
1.2.1. Căn cứ lấy lời khai của đương sự của Tòa án cấp sơ thẩm ......... 18

1.2.2. Chủ thể lấy lời khai và người được lấy lời khai .......................... 19
1.2.3. Thủ tục lấy lời khai của đương sự ............................................... 22
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 28
Chương 2. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI CỦA ĐƯƠNG SỰ CỦA
CÁC TÒA ÁN Ở TỈNH SƠN LA VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................ 30

2.1. Thực tiễn hoạt động lấy lời khai của đương sự của các Tòa án ở tỉnh
Sơn La và nguyên nhân............................................................................... 30
2.1.1. Thực tiễn hoạt động lấy lời khai của đương sự của các Tòa án ở
tỉnh Sơn La .............................................................................................. 30


2.1.2. Nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn trong thực tiễn lấy lời
khai của đương sự của các Tòa án ở tỉnh Sơn La................................... 45
2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về hoạt
động lấy lời khai của đương sự của các Tòa án ở tỉnh Sơn La ................... 53
2.2.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động lấy lời khai của
đương sự của Tòa án trong tố tụng dân sự ............................................. 53
2.2.2. Kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về hoạt động lấy lời
khai của đương sự đối với các Tòa án ở tỉnh Sơn La ............................. 55
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 58
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 62


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) của Việt Nam được xây dựng và hoàn

thiện theo hướng tăng cường trách nhiệm chứng minh của đương sự, theo đó đương
sự là người có nghĩa vụ cung cấp và thu thập chứng cứ khi đưa ra yêu cầu. Tuy
nhiên, trong nhiều trường hợp, các tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp chưa
đầy đủ, chưa rõ ràng, cụ thể nên cần có sự hỗ trợ của Tòa án trong việc thu thập
chứng cứ để chứng minh cho việc giải quyết vụ án dân sự (VADS). BLTTDS năm
2015 tuy đã khắc phục được một số tồn tại, hạn chế của BLTTDS năm 2004 và
BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
nói chung và lấy lời khai của đương sự nói riêng. Tuy nhiên, một số quy định của
pháp luật hiện hành về hoạt động lấy lời khai của đương sự vẫn còn chưa thực sự
hợp lý, thiếu tính rõ ràng, cụ thể dẫn tới những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn
áp dụng: Quy định chỉ có Thẩm phán mới có quyền lấy lời khai của đương sự, quy
định về lấy lời khai của người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, lấy lời khai của
đương sự ở ngoài trụ sở Tòa án chưa cụ thể rõ ràng. Những khó khăn, vướng mắc
này thể hiện rõ nét khi hoạt động này diễn ra trong quá trình Tòa án cấp sơ thẩm
giải quyết các vụ án dân sự (VADS). Những vụ án được giải quyết theo thủ tục tố
tụng dân sự (TTDS) bao gồm các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại và lao động nhưng các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình là loại
vụ án có tính chất phức tạp, sự mâu thuẫn giữa các đương sự trong quan hệ này
thường rất gay gắt, căng thẳng, số lượng VADS Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, giải
quyết trong từng năm tương đối lớn so với các tranh chấp khác được giải quyết theo
thủ tục TTDS. Theo đó, hoạt động thu thập chứng cứ nói chung và lấy lời khai của
đương sự nói riêng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Riêng ở tỉnh Sơn La thì loại
vụ án này lại càng phức tạp bởi Sơn La là tỉnh có 12 dân tộc anh em cùng chung
sống, trình độ dân trí không cao, không đồng đều, công tác quản lý hồ sơ, tài liệu
trong nhiều lĩnh vực còn nhiều bất cập. Mặt khác, trình độ chuyên môn của một bộ


2


phận cán bộ Tòa án còn hạn chế. Những đặc điểm về điều kiện địa lý, tự nhiên, kinh
tế, xã hội, đội ngũ cán bộ Tòa án nêu trên đã ảnh hưởng đến hoạt động thu thập
chứng cứ, đặc biệt là lấy lời khai của đương sự của Tòa án trong quá trình giải quyết
các VADS, dẫn đến tỷ lệ các bản án bị Tòa án cấp trên hủy, sửa hay án quá hạn luật
định do lỗi thu thập chứng cứ vẫn còn nhiều... Điều đó ảnh hưởng đến chất lượng
giải quyết án của các đơn vị, uy tín của Tòa án, niềm tin của người dân vào công lý.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Hoạt động lấy lời
khai của đương sự và thực tiễn tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La” làm
luận văn thạc sĩ ứng dụng của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, rất ít các công trình nào nghiên cứu riêng về hoạt động lấy
lời khai của đương sự của Tòa án. Việc nghiên cứu về hoạt động lấy lời khai của
đương sự của Tòa án được đề cập đến như một nội dung của các nghiên cứu về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án. Cho đến nay đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án ở những khía cạnh
khác nhau như: Nguyễn Minh Hằng (2007), “Hoạt động cung cấp, thu thập
chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường Nguyễn Công Bình
(2012, Chủ nhiệm đề tài), “Một số vấn đề lý luận về chứng minh trong tố tụng
dân sự”, Đề tài khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội; Đặng Minh
Chiến (2016), “Hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư trong tố tụng dân sự”,
Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Liên
(2014), “Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án từ thực tiễn giải quyết các vụ
án dân sự của Tòa án cấp huyện thành phố Hải Phòng”, Luận văn thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội;… Bên cạnh đó là một số bài viết trên các tạp
chí khoa học pháp lý như: Nguyễn Thị Hạnh (2015), “Vai trò của Thẩm phán
trong thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết vụ án dân sự”, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, số 12/2015; Hoàng Ngọc Thỉnh (2010), “Chứng cứ và
chứng minh trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Luật học, số 9/2010;…



3

Những công trình nghiên cứu kể trên nghiên cứu trên phạm vi rộng về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong TTDS nói chung. Cho đến nay,
chưa có công trình nào nghiên cứu về hoạt động lấy lời khai của đương sự, từ
thực tiễn tại các Tòa án nhân dân (TAND) ở tỉnh Sơn La.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn chính là
các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về lấy lời khai của đương
sự của Toà án, trong đó có so sánh với các quy định tương ứng của BLTTDS
năm 2004; BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 về hoạt động lấy lời khai của
đương sự của Toà án. Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu của luận văn còn là thực
tiễn hoạt động lấy lời khai của đương sự tại các TAND ở tỉnh Sơn La.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn có phạm vi nghiên cứu về mặt nội
dung chính là các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành các quy
định pháp luật hiện hành về hoạt động lấy lời khai của đương sự tại các
TAND ở tỉnh Sơn La. Luận văn có phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian là từ
năm 2015 - thời điểm mà BLTTDS năm 2015 được ban hành và có hiệu lực
ban hành cho đến hiện nay. Luận văn có phạm vi nghiên cứu về mặt không
gian là trên địa bàn tỉnh Sơn La, cụ thể là tại TAND các cấp ở tỉnh Sơn La.
4. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Làm rõ hơn những vấn đề chung về hoạt động lấy lời khai của đương
sự của Tòa án trong TTDS.
- Đánh giá nội dung pháp luật TTDS hiện hành về hoạt động lấy lời
khai của đương sự, chỉ ra những điểm hạn chế, bất cập của các quy định hiện
hành về hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa án.
- Nghiên cứu thực tiễn hoạt động lấy lời khai của đương sự của các Tòa án ở
tỉnh Sơn La, chỉ ra những khó khăn, vướng mắc, sai sót khi thực hiện hoạt động lấy
lời khai của đương sự của Tòa án tại Sơn La trong quá trình giải quyết các VVDS.

- Đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
pháp luật về hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa án ở tỉnh Sơn La.


4

5. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Để nghiên cứu đề tài, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng macxit và quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp
quyền và cải cách tư pháp.
Về phương pháp nghiên cứu là phương pháp nghiên cứu khoa học
chuyên ngành như phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng
hợp và phương pháp xã hội học như lấy số liệu, khảo sát, sử dụng các kết quả
thống kê của ngành Tòa án và của các Tòa án ở tỉnh Sơn La…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, phát triển những vấn
đề lý luận về hoạt động lấy lời khai của đương sự của Toà án trong TTDS. Việc tìm
ra những bất cập, hạn chế và xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm hoàn thiện các
quy định pháp luật về hoạt động lấy lời khai của đương sự của Toà án trong là sẽ
đóng góp cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm
tài liệu, học liệu để tiếp tục nghiên cứu, học tập tại các cơ sở đào tạo luật
trong cả nước và cũng có thể được sử dụng làm tài liệu nghiệp vụ để thực
hiện hoạt động lấy lời khai của đương sự tại các Toà án ở tỉnh Sơn La.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động lấy lời khai của đương sự
của Tòa án trong tố tụng dân sự.

Chương 2: Thực tiễn hoạt động lấy lời khai của đương sự ở các Tòa án
tỉnh Sơn La và một số kiến nghị.


5

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI CỦA
ĐƯƠNG SỰ CỦA TOÀ ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động lấy lời khai của
đương sự của Tòa án trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động lấy lời khai của đương sự
của Tòa án trong tố tụng dân sự
Trong TTDS, nghĩa vụ chứng minh trước hết thuộc về đương sự1. Các
đương sự có nghĩa vụ đưa ra các tài liệu, chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để
chứng minh cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp. Đây chính là khác biệt làm nên đặc điểm của TTDS so với tố tụng hình
sự. Pháp luật quy định như vậy vì đương sự là người trong cuộc nên thường là
chủ thể hiểu rõ nhất về vụ việc dân sự, là những người có quyền và lợi ích
liên quan đến vụ việc dân sự nên họ có những điều kiện thuận lợi nhất để
cung cấp chứng cứ và thường tìm mọi biện pháp để đưa ra những chứng cứ có
lợi nhất cho mình. Thông thường, thông tin ban đầu mà các đương sự cung
cấp cho Tòa án là các thông tin được đưa ra trong đơn khởi kiện hay các tài
liệu, chứng cứ gửi kèm theo đơn khởi kiện. Tuy nhiên, trong nhiều trường
hợp, các tài liệu, chứng cứ hay các thông tin ban đầu mà các đương sự đưa ra
là chưa đầy đủ, chưa cụ thể, chưa rõ ràng nên với tư cách vai trò là cơ quan có
nhiệm vụ giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có trách nhiệm thu thập chứng cứ
để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự, làm cơ sở cho việc giải
quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
“Thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa

vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ

1

Quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự được quy định tại Điều 6 BLTTDS năm 2015 phần những
nguyên tắc cơ bản: “1.Các đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án
và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp…”.


6

việc dân sự”2. Để thu thập chứng cứ, tùy từng vụ việc dân sự và tùy từng
trường hợp cụ thể, Tòa án có thể áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ khác
nhau, trong đó biện pháp phổ biến, ít tốn kém nhất mà Tòa án thường áp dụng là
biện pháp lấy lời khai của đương sự. Như vậy, hoạt động lấy lời khai của đương
sự là một trong các hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong TTDS nên
trước khi làm rõ khái niệm hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa án, cần
làm rõ khái niệm hoạt động thu thập chứng cứ của của Tòa án,
Dưới góc độ ngôn ngữ học, thuật ngữ “Hoạt động thu thập chứng cứ”
là từ ghép của ba thuật ngữ: “hoạt động”; “thu thập” và “chứng cứ”. Theo Đại
từ điển tiếng Việt thì hoạt động là làm những việc khác nhau với mục đích
nhất định trong đời sống xã hội3. Thu thập là nhặt nhạnh, thu góp lại4. Chứng
cứ là cái được dẫn ra để dựa vào đó mà xác định điều gì đó đúng hay sai, thật
hay giả5. Như vậy, dưới góc độ ngôn ngữ học: Hoạt động thu thập chứng cứ
là việc tiến hành những công việc tìm kiếm, góp nhặt và tập hợp những tình
tiết, sự kiện, sự việc có liên quan tới một vụ việc dân sự đang được Tòa án
xem xét giải quyết nhằm khôi phục sự thật khách quan của vụ việc đó.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm “Hoạt động thu thập chứng cứ” đã
được đề cập trong nhiều các công trình nghiên cứu khác nhau. Theo giáo trình
luật Tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội thì: “Thu thập chứng cứ

là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự
để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự”6. Khái niệm
này đã chỉ ra được bản chất của hoạt động thu thập chứng cứ và khẳng định
mục đích của hoạt động thu thập chứng cứ là để nghiên cứu, đánh giá và sử

2

Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội, tr.159 -160.
3
Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Việt Nam, Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý
chủ biên, Nxb Văn hóa - Thông tin, tr827.
4
Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Việt Nam, Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ
biên, Nxb Văn hóa - Thông tin, tr 1593.
5
Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Việt Nam, Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ
biên, Nxb Văn hóa - Thông tin, tr415.
6
Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội, tr.159 - 160.


7

dụng chứng cứ trong hoạt động giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên, khái
niệm này vẫn chưa làm rõ được chủ thể tiến hành thu thập chứng cứ và trình
tự, thủ tục thu thập chứng cứ.
Trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường về “Một số vấn đề lý
luận về chứng minh trong tố tụng dân sự” năm 2012 do Nguyễn Công Bình

làm chủ nhiệm đề tài cũng đã đề cập tới khái niệm “Hoạt động thu thập
chứng cứ”, theo đó: “Thu thập chứng cứ là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến
hành nhằm tìm, phát hiện, thu giữ, ghi nhận, thêm những bằng chứng cần
thiết khác dùng làm căn cứ cho việc giải quyết vụ việc dân sự”7. Khái niệm
này đã khắc phục được một phần hạn chế của khái niệm được phân tích trong
Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, xuất bản
năm 2010, đó là đã làm nổi bật được chủ thể tiến hành hoạt động thu thập
chứng cứ là Tòa án. Tuy nhiên, khái niệm này vẫn chưa thể hiện được điều
kiện để Tòa án áp dụng và trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp thu thập
chứng cứ.
Có thể thấy, “chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được
đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án
trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do
Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình
tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của
đương sự là có căn cứ và hợp pháp”8. Như vậy, chứng cứ là những gì có thật
(tồn tại khách quan), có liên quan đến VVDS trước tiên được đương sự, cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng. Để
có thể có tài liệu, chứng cứ cung cấp cho Tòa án thì các đương sự, cá nhân, cơ
quan, tổ chức cũng phải tiến hành thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, trong phạm
vi của luận văn, tác giả không nghiên cứu về hoạt động thu thập chứng cứ của

7

Nguyễn Công Bình (2012, chủ nhiệm đề tài), “Một số vấn đề lí luận về chứng minh trong tố tụng dân sự”,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.13.
8
Điều 93 BLTTDS năm 2015.



8

các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan mà chỉ nghiên cứu về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án.
Trong trường hợp, tài liệu, chứng cứ mà các bên đương sự cung cấp
không đầy đủ hoặc cần thiết phải xác minh lại tính xác thực của các thông tin
trong các tài liệu chứng cứ mà đương sự cung cấp thì Tòa án yêu cầu đương
sự bổ sung tài liệu, chứng cứ. Trong trường hợp đương sự không bổ sung
được tài liệu, chứng cứ thì Tòa án có thể tiến hành thu thập chứng cứ. Khác
với các bên đương sự hoạt động thu thập chứng cứ là để có chứng cứ giao nộp
cho Tòa án để nhằm chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp, thì mục đích của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án là nhằm xác
định sự thật khách quan của vụ việc dân sự, là cơ sở để ra bản án, quyết định
chính xác, khách quan. Ở góc độ khác, mục đích của hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án là nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh
của đương sự. Cho nên, không phải trong mọi trường hợp, Tòa án đều có
quyền chủ động thu thập chứng cứ mà Tòa án chỉ thu thập chứng cứ trong các
trường hợp và điều kiện do pháp luật quy định. Như vậy, có thể kết luận:
“hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong TTDS là hoạt động của Tòa
án trong việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ sơ vụ việc
dân sự nhằm hỗ trợ đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong các
trường hợp do pháp luật quy định để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng khi
giải quyết vụ việc dân sự”.
Tùy theo pháp luật của mỗi nước và ở các thời kỳ khác nhau các biện
pháp thu thập chứng cứ của Tòa án là khác nhau. Đối với những nước theo
truyền thống tố tụng tranh tụng như Anh, Mỹ thì nghĩa vụ chứng minh của
đương sự là tuyệt đối nên việc thu thập chứng cứ thuộc về các bên đương sự
và luật sư của họ, Tòa án không thu thập chứng cứ. Ở Việt Nam, xuất phát từ
truyền thống tố tụng, điều kiện kinh tế xã hội và trình độ hiểu biết pháp luật
của người dân nên pháp luật quy định: “Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương

sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ


9

trong những trường hợp do Bộ luật này quy định”9. Trên cơ sở đó, khoản 2
Điều 97 BLTTDS năm 2015 quy định các biện pháp thu thập chứng cứ của
Tòa án bao gồm10: “a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; b) Đối
chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng; c)
Trưng cầu giám định; d) Định giá tài sản; đ) Xem xét, thẩm định tại chỗ; e)
Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ; g) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác
liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự; h) Xác minh sự có mặt hoặc
vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú; i) Các biện pháp khác theo quy định
của Bộ luật này”.
Như vậy, lấy lời khai của đương sự là một trong các biện pháp thu thập
chứng cứ của Tòa án khi giải quyết vụ việc dân sự. Dưới góc độ ngôn ngữ,
lấy lời khai là từ ghép của hai từ lấy và lời khai.“Lấy” là làm cho cái vốn của
người khác thành của mình11. Còn “lời khai” là lời trình bày của người có
quyền và nghĩa vụ liên quan tới vụ án theo yêu cầu của Tòa án theo trình tự
luật định nhằm giải quyết vụ án một cách chính xác, khách quan12. Đương sự
trong TTDS bao gồm đương sự trong vụ án dân sự và đương sự trong việc
dân sự. Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan13. Đương sự trong
việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu cầu giải quyết
việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan14. Từ các phận tích trên,
có thể thấy: Hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa án trong TTDS là
hoạt động của Tòa án trong việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa
vào hồ sơ vụ việc dân sự thông qua lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn,


9

Khoản 2 Điều 6 BLTTDS năm 2015.
Khoản 2 Điều 97 BLTTDS năm 2015.
11
Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Việt Nam, Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý
chủ biên, Nxb Văn hóa -Thông tin, tr 1001.
12
Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb Bách Khoa - Nxb Tư pháp, tr469.
13
Khoản 1 Điều 68 BLTTDS năm 2015.
14
Khoản 2 Điều 68 BLTTDS năm 2015.
10


10

người yêu cầu và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng khi giải quyết vụ
việc dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa án
trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa án trong tố
tụng dân sự là một hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nên mang tính
quyền lực Nhà nước.
Như đã phân tích ở trên, hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa
án trong tố tụng dân sự là một hoạt động cụ thể của hoạt động thu thập chứng
cứ của Tòa án nên mang tính quyền lực nhà nước. Để cung cấp chứng cứ cho
Tòa án, các đương sự có thể viết bản tự khai, người đại diện của đương sự,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể lấy lời khai của
đương sự để khai thác thông tin về vụ việc dân sự. Song, hoạt động lấy lời
khai của các chủ thể trên không mang tính quyền lực nhà nước, không chịu sự
điều chỉnh của pháp luật TTDS. Thông thường đó là các hoạt động mang tính
tự nguyện và là quan hệ cá nhân giữa các chủ thể. Trong các trường hợp do
pháp luật quy định, khi Tòa án lấy lời khai của đương sự thì hoạt động lấy lời
khai của Tòa án với đương sự trong TTDS được dựa trên mối quan hệ tố tụng,
giữa cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Trong mối quan hệ
này, Tòa án là chủ thể nhân danh quyền lực Nhà nước, có quyền quyết định
thời gian, địa điểm lấy lời khai, nội dung lấy lời khai… và buộc các đương sự
phải chấp hành.
Thứ hai, hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa án trong tố tụng
dân sự được thực hiện sau khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự và chủ yếu do
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc dân sự tiến hành (tại phiên tòa
sơ thẩm là Hội đồng xét xử).
Trong BLTTDS năm 2015 có phân biệt hai loại Thẩm phán: Thẩm
phán xem xét đơn khởi kiện và Thẩm phán giải quyết vụ án. Sau khi tiếp nhận


11

đơn khởi kiện, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn
khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi
kiện15 và trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, tùy
từng tường hợp Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các
quyết định: “a) Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; b) Tiến hành thủ tục
thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có
đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 317
của Bộ luật này; c) Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông
báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

khác; d) Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”16. Trong giai đoạn xem xét đơn
khởi kiện, Thẩm phán không tiến hành thu thập chứng cứ nên hoạt động lấy
lời khai của đương sự của Tòa án chưa diễn ra.
Sau khi vụ án được thụ lý, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày
thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ
án17. Như vậy, để giải quyết vụ án dân sự thì Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án có nhiệm vụ, quyền hạn “Tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ”
để giải quyết vụ việc dân sự theo khoản 3 Điều 48 BLTTDS năm 2015. Quy
định mới này đã xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết VVDS. Hoạt động thu thập chứng cứ
của Tòa án cấp sơ thẩm trong TTDS do Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ việc tiến hành, được ghi nhận tại Điều 48 về nhiệm vụ, quyền hạn
của Thẩm phán: “Khi được Chánh án Tòa án phân công, Thẩm phán có
nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:… 3. Tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ, tổ
chức phiên tòa, phiên họp để giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ
luật này”. Việc phân công cho Thẩm phán giữ vai trò quan trọng nhất trong
hoạt động thu thập chứng cứ nói chung và lấy lời khai của đương sự nói riêng
15

Khoản 2 Điều 191 BLTTDS năm 2015.
Khoản 3 Điều 191 BLTTDS năm 2015
17
Khoản 2 Điều 197 BLTTDs năm 2015
16


12

là hoàn toàn đúng đắn, bởi đây là một trong số những người nắm rõ nội dung

vụ việc, hiểu những tình tiết, sự việc nào cần thiết để làm sáng tỏ vụ việc,
đồng thời là người chịu trách nhiệm về kết quả giải quyết vụ việc dân sự.
Chánh án và Phó chánh án không có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
trong việc lấy lời khai của đương sự18.
Thư ký Tòa án không có quyền thu thập chứng cứ mà chỉ là người giúp
việc cho Thẩm phán, hỗ trợ Thẩm phán trong một số hoạt động thu thập
chứng cứ như ghi biên bản lấy lời khai của đương sự khi được Thẩm phán
phân công19. Thẩm tra viên là người tiến hành tố tụng, ngoài những nhiệm vụ,
quyền hạn khác, Thẩm tra viên có nhiệm vụ, quyền hạn “Thu thập tài liệu,
chứng cứ có liên quan đến vụ việc dân sự”. Tuy nhiên, khi nghiên cứu toàn bộ
các quy định của pháp luật TTDS hiện hành cho thấy Thẩm tra viên chỉ có thể
thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ, tài liệu một cách độc lập tại giai
đoạn giám đốc thẩm và tái thẩm theo quy định tại Khoản 4 Điều 97 BLTTDS
năm 2015. Bên cạnh đó, Thẩm tra viên có nhiệm vụ “Hỗ trợ thẩm phán thực
hiện hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này” và không được tham
gia phiên tòa dân sự. Hoạt động thu thập chứng cứ của Thẩm tra viên, cùng
với Thẩm phán góp phần giải quyết tốt hơn số lượng và chất lượng vụ,
VVDS, bên cạnh đó còn giảm áp lực công việc cho Thẩm phán20.
Đặc điểm này hoàn toàn khác với việc thu thập chứng cứ trong tố tụng
hình sự là thuộc trách nhiệm của cơ quan điều tra. Trong vụ án hình sự, nếu
xét thấy các tài liệu, chứng cứ chưa đầy đủ thì Tòa án ra quyết định trả hồ sơ
vụ án đề điều tra bổ sung chứ không trực tiếp thực hiện công việc thu thập
chứng cứ như trong TTDS. Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là do, bản chất của
TTDS và tố tụng hình sự có sự khác nhau. Trong TTDS, việc giải quyết vụ án
dân sự là giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự, vì lợi ích của đương sự
18

Điều 47 BLTTDS năm 2015
Xem Điều 51 BLTTDS năm 2015
20

Đinh Tuấn Anh (2016), “Quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về Chứng cứ và chứng
minh”, trang truy cập: ngày
truy cập: 07/3/2018.
19


13

nên nghĩa vụ thu thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án là thuộc về đương sự,
Tòa án có thu thập chứng cứ chỉ là để hỗ trợ đương sự. Theo pháp luật TTDS
Việt Nam, trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán là người trực tiếp xây
dựng hồ sơ VADS, có quyền áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ theo
quy định tại Điều 97 BLTTDS năm 2015 nhằm hỗ trợ đương sự trong việc
thực hiện cung cấp chứng cứ và chứng minh, bảo đảm cho việc giải quyết
VADS được chính xác, khách quan. Như vậy, về bản chất thì nghĩa vụ thu
thập chứng cứ thuộc trách nhiệm của các chủ thể chứng minh mà trọng tâm là
các đương sự. Tòa án chỉ thu thập chứng cứ trong trường hợp do luật định
nhằm hỗ trợ cho đương sự và phục vụ cho việc làm rõ cơ sở quyết định của
Tòa án. Tại phiên tòa, để giải quyết toàn diện vụ việc dân sự thì các thành
viên trong Hội đồng xét xử cũng có quyền đưa ra câu hỏi cho các đương sự và
đó cũng chính là một hình thức lấy lời khai của đương sự.
Thứ ba, hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa án trong tố tụng
dân sự là hoạt động hỗ trợ của Tòa án cho việc thực hiện nghĩa vụ chứng
minh của đương sự.
Ở Việt Nam, về nguyên tắc, các đương sự là chủ thể có nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ nên họ phải thu thập chứng cứ nộp cho Tòa án để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Nghĩa vụ thu thập chứng cứ để chứng minh
trước tiên thuộc về đương sự, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án chỉ
mang tính hỗ trợ cho đương sự và phục vụ cho việc làm rõ cơ sở, quyết định
của Tòa án. Chính vì vậy, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sẽ phụ

thuộc vào nội dung, phạm vi yêu cầu giải quyết của vụ việc. Từng VVDS sẽ
có những yêu cầu khác nhau, Tòa án sẽ căn cứ vào đó để xác định phạm vi
những chứng cứ cần tiến hành thu thập, lựa chọn biện pháp thu thập phù hợp,
cần thiết và tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ, trong đó có hoạt động
lấy lời khai của đương sự.
Điều này thể hiện nét đặc thù của pháp luật dân sự nước ta so với nhiều
quốc gia khác trên thế giới, chẳng hạn như nước Anh và nước Mỹ. Pháp luật


14

của Anh và Mỹ là hai hệ thống pháp luật theo truyền thống tranh tụng, theo
đó, trong TTDS đề cao vai trò thu thập chứng cứ cùa đương sự. Thẩm phán
chỉ đóng vai trò là người trọng tài trong quá trình giải quyết vụ việc, phán xử
căn cứ vào các chứng cứ mà các đương sự đưa ra tranh luận tại phiên tòa.
Thẩm phán hoàn toàn không trực tiếp tiến hành hoạt động điều tra, xác minh,
thu thập chứng cứ21. Sở dĩ, pháp luật TTDS của Mỹ, Anh quy định Tòa án ít
thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ xuất phát từ truyền thống tố tụng tranh
tụng mà họ đang thực hiện. Theo phương thức tranh tụng này thì mọi vấn đề
cần chứng minh trong vụ án phải được các đương sự thông báo trước và công
khai tại phiên tòa. Ở những nước này, trình độ dân trí và kiến thức pháp luật
cao, đội ngũ luật sư phát triển. Bên cạnh đó là sự hoạt động hiệu quả của các
cơ quan, tổ chức trong việc tạo điều kiện cho đương sự thu thập chứng cứ.
Bởi trước hết là do Tòa án là cơ quan tư pháp, một trong ba nhánh quyền lực
có vai trò ngang nhau trong tổ chức quyền lực. Là cơ quan bảo vệ công lý,
nhưng Tòa án không làm thay những việc thuộc về người dân.
Thứ tư, hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa án trong tố tụng
dân sự phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Tòa án có thẩm quyền áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ nhưng
phải thỏa mãn những điều kiện do pháp luật TTDS quy định và đối với từng

biện pháp thu thập chứng cứ phải tuân thủ về trình tự, thủ tục nhất định.
Ngoài ra, những thông tin về vụ việc phải được Tòa án thu thập từ các nguồn
chứng cứ hợp pháp và theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định nhằm
tránh sự lạm quyền của Tòa án và ngăn ngừa các hành vi gây tổn hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nếu không bảo đảm tuân thủ chặt
chẽ những điều kiện pháp lý trong quá trình thu thập thì chứng cứ sẽ mất đi
giá trị pháp lý. Cho nên, chỉ những hoạt động lấy lời khai của đương sự của
Tòa án tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện lấy lời khai của
21

Nguyễn Thị Liên (2014), “Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án từ thực tiễn giải quyết các vụ án dân
sự của Tòa án cấp huyện thành phố Hải Phòng”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
tr.19


15

đương sự, thời gian, địa điểm lấy lời khai, thủ tục, chủ thể lấy lời khai, cách
ghi biên bản lấy lời khai thì hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa án
mới được coi là hợp pháp và biên bản lấy lời khai của đương sự mới có giá trị
là nguồn chứng cứ. Khi đó, các thông tin rút ra từ biên bản lấy lời khai của
đương sự mới có giá trị chứng minh. Điều này xuất phát từ yêu cầu của hoạt
động tố tụng của Tòa án, phải tuân theo thời hạn, thủ tục tố tụng do pháp luật
TTDS quy định22.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động lấy lời khai của đương sự trong tố tụng
dân sự
- Ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án: Hoạt động
thu thập chứng cứ nói chung và lấy lời khai của đương sự của Tòa án trong tố
tụng dân sự nói riêng giữ vai trò là tiền để cần thiết cho việc giải quyết nhanh
chóng và đúng đắn VVDS.

Chủ thể trực tiếp xây dựng hồ sơ vụ việc và dựa vào hồ sơ này để giải
quyết vụ việc đó chính là Thẩm phán. Việc xây dựng hồ sơ vụ việc dân sự có
ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giải quyết vụ việc và hoạt động thu thập
chứng cứ là một phần của quá trình này. Bên cạnh đó, để bảo đảm giải quyết
vụ việc dân sự khách quan, công bằng và đúng pháp luật, Thẩm phán còn có
trách nhiệm giải quyết vụ án đúng thời hạn. Với tư cách là cơ quan tiến hành
tố tụng, có trách nhiệm giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có trách nhiệm đánh
giá toàn bộ chứng cứ để giải quyết đúng đắn vụ việc. Việc cung cấp, thu thập
chứng cứ có tác động trực tiếp tới quá trình đánh giá chứng cứ, nếu chứng cứ
được thu thập đầy đủ, chính xác và đúng pháp luật thì việc đánh giá chứng cứ
sẽ đúng đắn, khách quan và toàn diện, từ đó bảo đảm được thời hạn giải quyết
vụ việc. Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự cho thấy, do nhiều yếu tố (lợi
ích, trình độ, khả năng của đương sự) dẫn đến các thông tin về vụ việc dân sự
do đương sự cung cấp trong đơn khởi kiện hoặc bản tự khai không đầy đủ,
22

Nguyễn Thị Thu Hằng (2016), Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự và thực tiễn
thực hiện, khóa luận tốt nghiệp, trường Đại học Luật Hà Nội, tr.6.


16

không rõ ràng, mâu thuẫn nên Thẩm phán thường phải lấy lời khai của đương
sự. Việc lấy lời khai của đương sự bảo đảm có đủ chứng cứ làm căn cứ cho
việc giải quyết VVDS được chính xác và khách quan.
- Ý nghĩa đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương
sự: Hoạt động lấy lời khai của đương sự do Tòa án thực hiện giữ vai trò hỗ trợ
cho các đương sự trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
và chứng minh cho yêu cầu của mình.
Thông qua quá trình đánh giá thực tiễn giải quyết các VVDS cho thấy

có rất nhiều trường hợp đương sự không thể tự mình viết được bản tự khai,
hay nội dung bản tự khai không đầy đủ, không rõ ràng, bất nhất, mâu thuẫn
với chính lời khai của họ trước đó hoặc mâu thuẫn với lời khai của đương sự
khác hay người làm chứng. Nguyên nhân của thực trạng này là do bản thân
đương sự mong muốn trình bày với Tòa án một cách rõ ràng, cụ thể về nội
dung của vụ việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nhưng
do trình độ hoặc sự thiếu hiểu biết về pháp luật nên họ không xác định được
thông tin nào là cần thiết cho vấn đề mình cần chứng minh hoặc vì lợi ích cá
nhân, họ sẵn sang che dấu những thông tin bất lợi cho mình. Đặc biệt, đối với
những đương sự ở vùng nông thôn và miền núi, họ có nhiều khó khăn khi
muốn tiếp cận kiến thức và kỹ năng pháp lý trong việc thu thập chứng cứ,
đồng thời không có điều kiện thuận lợi để mời luật sư hay những người có
kiến thức pháp lý bảo vệ quyền lợi cho mình. Chính vì vậy, khi có tranh chấp
dân sự xảy ra, họ không biết phải khai với Tòa án như thế nào, cung cấp cho
Tòa án những chứng cứ, tài liệu gì để bảo vệ quyền lợi cho mình. Thậm chí,
có trường hợp đã biết mình cần phải có thông tin gì, biết nó nằm ở đâu nhưng
lại không biết cách diễn đạt như thế nào. Chính từ thực tế như vậy, việc pháp
luật quy định về hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa án trong TTDS
sẽ giúp đương sự trong việc định hướng về cách trình bày lời khai tại Tòa án
nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.


17

- Ý nghĩa đối với xã hội: Hoạt động lấy lời khai của đương sự của Tòa
án trong TTDS nhằm giúp Tòa án thực hiện vai trò là cơ quan bảo vệ công lý.
Ngoài nhiệm vụ xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc
khác theo quy định của pháp luật thì một trong những nhiệm vụ hàng đầu Tòa
án cần phải thực hiện đó là: “Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”23. Nhiệm vụ này của Tòa án được
thể hiện rất rõ thông qua vai trò của Tòa án trong quá trình thu thập chứng cứ.
Trong khi nhiều người dân với trình độ và kỹ năng pháp lý chưa cao, chưa
xây dựng được tính chủ động trong việc tìm kiếm chứng cứ chứng minh để
bảo vệ quyền lợi cho mình. Sau khi nộp đơn khởi kiện, đương sự thường phó
mặc cho Tòa án giải quyết mà không nhận thức được rằng mình cần phải tự
chủ động khai báo với Tòa án hoặc thu thập chứng cứ, tài liệu cần thiết để
chứng minh cho yêu cầu của mình, do vậy, nhiều trường hợp quyền lợi chính
đáng của họ bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, trong TTDS, quyền của bên này
(nguyên đơn) sẽ là nghĩa vụ của bên kia (bị đơn) và ngược lại, lợi ích của họ
đối lập nhau nên việc một bên đương sự cố tình khai báo, trình bày với Tòa án
các thông tin sai lệch về VVDS nhằm hưởng lợi cho mình và gây bất lợi cho
đương sự đối lập là không tỏa đáng. Điều này sẽ làm sai lệch vụ án nếu Tòa
án không làm công tâm, không có các biện pháp thu thập, đánh giá chứng cứ
chính xác, khách quan. Một trong các biện pháp đó là thông qua kiến thức, kỹ
năng của mình Thẩm phán sẽ đưa ra các câu hỏi khi lấy lời khai của đương
sự, từ đó làm rõ sự thật khách quan của vụ án và khi đó Tòa án đã thực hiện
vai trò bảo vệ lẽ phải, là cơ quan bảo vệ công lý.

23

Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 về Chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án nhân dân.


18

1.2. Nội dung pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về hoạt động lấy
lời khai của đương sự của Tòa án

1.2.1. Căn cứ lấy lời khai của đương sự của Tòa án cấp sơ thẩm
Về nguyên tắc chung, đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án có trách nhiệm
xem xét mọi tình tiết của vụ án, căn cứ vào pháp luật để giải quyết yêu cầu
của đương sự. Theo khoản 1 Điều 96 BLTTDS năm 2015 quy định: “Trong
quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ
giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã
được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán
yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ”. Như vậy, thông
thường, trong trường hợp xét thấy tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc
dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao
nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Trong trường hợp, Thẩm phán đã yêu cầu
nhưng đương sự không giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ thì Thẩm phán
có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập tài liệu, chứng
cứ24… Như vậy, việc quy định như trên nhằm thể hiện vai trò, trách nhiệm
của Tòa án trong xác minh thu thập chứng cứ trong trường hợp rất cần thiết
cho việc giải quyết vụ án, đồng thời cũng khẳng định rõ Thẩm phán chỉ có
thể tiến hành thu thập chứng cứ khi có đủ các điều kiện, đó là: Hồ sơ vụ án
còn thiếu những chứng cứ cần thiết làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án; đã
yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ nhưng đương sự không thể bổ
sung được và có yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ.
Đối với biện pháp lấy lời khai của đương sự trong TTDS, Điều 98
BLTTDS năm 2015 quy định: “Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của
đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy
đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trường hợp
đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự.”
24

Khoản 2 Điều 97 BLTTDS năm 2015.



19

Quy định này được ban hành dựa trên cơ sở kế thừa quy định tại Điều 87
BLTTDS năm 2004. Theo đó, Thẩm phán sẽ lấy lời khai của đương sự trong
các trường hợp sau đây:
- Đương sự chưa có bản tự khai, tức là trong hồ sơ VVDS không có
bản tự khai của đương sự. Điều này dẫn đến hai cách hiểu:
+ Trong mọi trường hợp khi không có bản tự khai của đương sự thì
Thẩm phán đều có quyền lấy lời khai.
+ Khi đương sự không có bản tự khai, theo nguyên tắc của khoản 1
Điều 96 BLTTDS năm 2015 thì Thẩm phán yêu cầu đương sự viết bản tự
khai và chỉ khi họ không tự khai được thì Tòa án mới lấy lời khai của đương
sự. Chúng tôi cho rằng cách hiểu thứ hai mới đúng bản chất nguyên tắc
nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, đồng thời tránh việc chuyển nghĩa
vụ chứng minh vụ việc dân sự từ đương sự sang Tòa án.
- Nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng: Khái niệm nội dung bản
khai chưa đầy đủ, chưa rõ ràng là một khái niệm trừu tượng. Bởi để kết luận
nội dung bản khai chưa đầy đủ, chưa rõ ràng đòi hỏi Thẩm phán phải trải
qua quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự, xác định các vấn đề mấu chốt
của vụ việc dân sự. Tuy nhiên, lấy lời khai của đương sự là một trong các
hoạt động chuẩn bị xét xử. Việc xem xét, đánh giá lời khai của các đương sự
đã đầy đủ hay chưa phải được xem xét, đánh giá đồng thời cùng với các tài
liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ việc. Về nguyên tắc, pháp luật TTDS Việt
Nam quy định nguyên tắc xét xử công khai, điều đó có nghĩa phải thông qua
việc xem xét, đánh giá công khai, toàn diện các tình tiết cũng như các tài
liệu, chứng cứ của vụ việc dân sự. Do đó, nếu mới ở giai đoạn chuẩn bị xét
xử thì khó có thể đánh giá được chính xác lời khai của đương sự đã đầy đủ
hay chưa mà chủ yếu phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của Thẩm phán.
1.2.2. Chủ thể lấy lời khai và người được lấy lời khai

Hoạt động lấy lời khai của đương sự được quy định tại Điều 98
BLTTDS năm 2015. Theo đó, chủ thể có quyền lấy lời khai của đương sự là


20

Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án. Thẩm phán có thể tự mình
hoặc Thư ký Tòa án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản. Như vậy, chỉ
có Thẩm phán mới có quyền lấy lời khai của đương sự. Tuy nhiên, trên thực
tế có nhiều trường hợp Thư ký hoặc cán bộ Tòa án thực hiện việc lấy lời
khai của đương sự theo sự phân công của Thẩm phán. Việc Thư ký cũng có
thể lấy lời khai của đương sự khi được Thẩm phán giao nhiệm vụ thường
xảy ra khi số lượng án hàng năm một Thẩm phán phải giải quyết rất lớn nên
việc Thư ký lấy lời khai của đương sự là nhằm giảm gánh nặng cũng như
khối lượng công việc cho Thẩm phán. Song, hoạt động lấy lời khai của
đương sự do Thư ký Tòa án thực hiện là trái với quy định của pháp luật
TTDS hiện hành. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, Nghị quyết số
04/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định về “Chứng minh và
chứng cứ” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa
đổi năm 2011, ngày 03/12/2012 của HĐTPTATC đã hướng dẫn bổ sung
trường hợp Thư ký cũng có thể lấy lời khai của đương sự khi được Thẩm
phán giao nhiệm vụ và được sự đồng ý của đương sự: “Việc lấy lời khai của
đương sự phải do Thẩm phán tiến hành. Thư ký Toà án chỉ có thể giúp Thẩm
phán ghi lời khai của đương sự vào biên bản. Trường hợp vì lý do công tác
hoặc trở ngại khách quan, thì Thẩm phán có thể giao cho Thư ký Tòa án tiến
hành lấy lời khai nếu đương sự đồng ý.”
Hướng dẫn của Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP phù hợp với thực tế
giải quyết các VADS tại Tòa án hiện nay, khi mà khối lượng công việc của
Thẩm phán giải quyết ngày một tăng, đương sự không phải ai cũng có thể tự
viết bản tự khai ban đầu với nội dung đơn giản chưa cần làm sáng tỏ những

mâu thuẫn trong lời khai của họ thì Thư ký cũng có thể lấy lời khai của
đương sự. Tuy nhiên, hiện nay BLTTDS năm 2015 không quy định cụ thể
về vấn đề này và cũng chưa có Nghị quyết nào hướng dẫn thi hành BLTTDS
năm 2015 về phần chứng minh và chứng cứ nên hướng dẫn trong Nghị quyết


×