Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thẩm quyền giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình của tòa án và thực tiễn áp dụng tại các tòa án nhân dân ở tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.28 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HOÀNG BẢO TUẤN

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TÒA ÁN VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÁC TÒA ÁN
NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HOÀNG BẢO TUẤN

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TÒA ÁN VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÁC TÒA ÁN
NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN LA


Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số:

838010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ

HÀ NỘI - 2018


1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. BLDS

: Bộ luật dân sự năm 2015

2. BLTTDS năm 2015


: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

BLTTDS sửa đổi
2011

: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung
2011)

3. HNGĐ

: Hôn nhân và gia đình

4. LHNGĐ

: Luật hôn nhân và gia đình

5. LTTDS

: Luật tố tụng dân sự

6. NQ 03/2012/NQ-

: Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân

HĐTP

dân tối cao số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012
hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ
nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng

dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân.

7. TAND

: Tòa án nhân dân

8. TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

9. TTDS

: Tố tụng dân sự


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ VIỆC VỀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH CỦA TÒA ÁN ......... 7
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC
VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TÒA ÁN ..................................... 7
1.2. ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO THỰC HIỆN THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ VIỆC VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN
DÂN Ở TỈNH SƠN LA ...................................................................................... 16
1.3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THẨM
QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
CỦA TÒA ÁN .................................................................................................... 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................. 42
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM

HIỆN HÀNH VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN
LA VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ........................................................................ 43
2.1. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN LA ......................................... 43
2.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH
SƠN LA............................................................................................................... 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................. 63
KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................ 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................66


1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Nhằm hướng đến mục tiêu mà Nhà nước ta đã đặt ra là xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi tất cả mọi hoạt động của đời sống
xã hội đều phải được thực hiện và tuân thủ theo quy định của pháp luật. Pháp
luật là công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện chức năng quản lí xã hội, là
sự tối thượng và là căn cứ để thực hiện mọi quyền lực Nhà nước. Thẩm quyền
của Tòa án về hôn nhân và gia đình (HNGĐ) thuộc thẩm quyền về dân sự và
nằm trong nhánh quyền tư pháp – một trong ba nhánh quyền lực Nhà nước.
Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các quan hệ HNGĐ đã
được quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta từ năm 1946 và
ngày càng được hoàn thiện hơn. Sự ra đời của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 (BLTTDS năm 2015) (có hiệu lực toàn phần từ ngày 01/01/2017) đã

đánh dấu một bước phát triển của pháp luật TTDS, trong đó có cả các quy
định về thẩm quyền của Tòa án trong lĩnh vực HNGĐ. Tuy nhiên, để quyền
lợi hợp pháp của các đương sự được bảo vệ trong quá trình giải quyết vụ việc
HNGĐ tạiTòa ánthì các quy định về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết
các vụ việc HNGĐ cần phải được xây dựng hoàn thiện trên cơ sở bảo đảm
quyền con người, quyền công dân và đảm bảo sự tương thích với Luật hôn
nhân và gia đình (LHNGĐ) năm 2014.
Dễ dàng nhận thấy, sau khi ban hành và được áp dụng trong thực tiễn,
những quy định của BLTTDS năm 2015 về thẩm quyền của Tòa án trong
việc giải quyết vụ việc HNGĐ còn bộc lộ nhiều vướng mắc và bất cập. Điều
đó thể hiện rõ ở việc, có nhiều quy định về thẩm quyền giải quyết các vụ việc
HNGĐ chưa rõ ràng, đầy đủ và còn gây ra nhiều cách hiểu khác nhau; một số
quy định chưa bảo đảm sự tương thích với pháp luật nội dung hay có những
quy định còn thiếu khoa học, thiếu logic chưa đáp ứng yêu cầu về kĩ thuật lập
pháp. Bên cạnh đó, mặc dù, BLTTDS năm 2015 có nhiều quy định mới liên
quan đến thẩm quyền của Tòa án trong lĩnh vực HNGĐ nhưng lại chưa có văn


2
bản hướng dẫn thi hành các quy định này dẫn đến việc áp dụng thiết thống
nhất. Sự thiếu sót từ bản thân các quy định của pháp luật TTDS về vấn đề này
đã gây ra khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng vào thực tiễn.
Điều này đã trực tiếp xâm phạm đến quyền lợi của đương sự khi họ tham gia
giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu để làm rõ các vấn đề lý luận, các
vấn đề pháp lý về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc
HNGĐ trong TTDS, bảo đảm việc hiểu và áp dụng thống nhất các quy định
pháp luật vào thực tiễn là một yêu cầu bức thiết. Vì vậy, việc lựa chọn nghiên
cứu đề tài “Thẩm quyền giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình của Tòa
án và thực tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La” sẽ có giá trị

khoa học trong giai đoạn hiện nay.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Thẩm quyền giải quyết các vụ việc về HNGĐ của Tòa án là một nội
dung quan trọng của pháp luật TTDS Việt Nam. Có nhiều công trình khoa
học có liên quan đến vấn đề này đã được nghiên cứu dưới nhiều hình thức
khác nhau. Có thể kể đến những công trình sau:
- Bài viết “Những vấn đề trao đổi từ thực tiễn giải quyết HNGĐ” của
Ths. Nguyễn Minh Hằng và Nguyễn Minh Hiếu, Tạp chí nghiên cứu lập pháp
số 1 năm 2006; khóa luận tốt nghiệp “Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết các vụ việc HNGĐ” của Đỗ Thị Lan Hương, Trường Đại học Luật Hà
Nội, năm 2012; “Thẩm quyền dân sự của Tòa án trong việc giải quyết các yêu
cầu về HNGĐ” năm 2010, trường Đại học Luật Hà Nội của Nguyễn Thị
Thanh Trang. Những công trình này đều nghiên cứu thẩm quyền giải quyết vụ
việc HNGĐ của Tòa án theo quy định của BLTTDS 2004, sửa đổi bổ sung
năm 2011. Như vậy, sẽ có nhiều quy định chưa được nghiên cứu theo
LHNGĐ 2014 và BLTTDS năm 2015. Ngoài ra, những công trình này nghiên
cứu thẩm quyền của Tòa án trong lĩnh vực HNGĐ trong phạm vị rộng và rất
chung chứ không nghiên cứu cụ thể trên địa bàn tỉnh Sơn La như đề tài của


3
tác giả.
- Bài viết, Mối liên hệ giữa Luật Hôn nhân gia đình và Luật Tố tụng
dân sự đăng trên Tạp chí Tòa án Nhân dân số 9/2017 của tác giả Nguyễn Thị
Lan là một công trình có giá trị tham khảo lớn đối với đề tài của tác giả. Với
vai trò là một chuyên gia về LHNGĐ, tác giả Nguyễn Thị Lan đã có những
phân tích sâu sắc về các quy định của LHNGĐ năm 2014 và quy định của
BLTTDS năm 2015 liên quan đến thẩm quyền giải quyết các vụ việc HNGĐ
của Tòa án. Từ đó, bài viết chỉ ra những điểm bất cập và chưa tương thích
giữa BLTTDS năm 2015 và LHNGĐ 2014 về vấn đề thẩm quyền của Tòa án

trong lĩnh vực HNGĐ. Đồng thời, bài viết cũng đưa ra những kiến nghị có giá
trị để hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, công trình này chỉ tập trung nghiên cứu
thẩm quyền của Tòa án trong lĩnh vực HNGĐ theo loại việc mà không nghiên
cứu về thẩm quyền theo cấp và lãnh thổ.
- Đề tài khoa học cấp trường “Sự tương tích và mâu thuẫn giữa pháp
luật dân sự và pháp luật TTDS” do PGS.TS. Bùi Thị Huyền chủ biên, bảo vệ
thành công năm 2018. Trong công trình này, các tác giả có tập trung nghiên
cứu về sự tương thích và không tương thích về thẩm quyền giải quyết các vụ
việc HNGĐ của Tòa án giữa LHNGĐ năm 2014 và BLTTDS năm 2015. Tuy
nhiên, cùng vấn đề này, công trình trên chỉ tập trung nghiên cứu về các quy
định của pháp luật mà chưa đi sâu nghiên cứu thực tiễn và vướng mắc khi áp
dụng các quy định của pháp luật trong thực tiễn. Với khả năng nghiên cứu của
mình, tác giả sẽ làm rõ hơn những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện
các quy định về thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án trên địa bàn
tỉnh Sơn La.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật
Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ viêc HNGĐ;
thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật TTDS Việt nam về thẩm quyền


4
giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án trong vài năm gần đây trên địa bàn tỉnh Sơn
La.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Luận văn chỉ nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, về thẩm quyền giải
quyết các vụ việc HNGĐ của Tòa án. Điều kiện bảo đảm thực hiện quy định
về thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án.
- Luận văn tập trung đánh giá các quy định của BLTTDS năm 2015,

LHNGĐ năm 2014 và các văn bản pháp luật có liên quan đến thẩm quyền giải
quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án còn vướng mắc, bất cấp.
- Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về thẩm quyền giải
quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án và đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện thẩm quyền giải quyết các vụ việc HNGĐ của Tòa án ở tỉnh Sơn
La.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Mục đích nghiên cứu luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận,
thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện thẩm quyền của Tòa
án trong giải quyết vụ việc HNGĐ. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những kiến
nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện thẩm quyền giải quyết các vụ việc HNGĐ của Tòa án ở tỉnh Sơn La. Để
đạt được mục đích này, luận văn đề ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Thứ nhất, làm rõ bản chất về thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của
Tòa án, hoàn thiện khái niệm, chỉ ra được những đặc điểm về thẩm quyền giải
quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án. Thứ hai, làm rõ được thực trạng quy định
của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án.
Thứ ba, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành
về thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án và đưa ra kiến nghị cụ
thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện thẩm quyền giải quyết các vụ việc HNGĐ của Tòa án ở tỉnh Sơn La.


5
5. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
* Phương pháp luận: việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để đạt được mục đích nghiên cứu
đã đặt ra, luận văn đã sử dụng những nhiều phương pháp nghiên cứu khoa
học. Cụ thể, phương pháp phân tích và bình luận được sử dụng để đem lại góc

nhìn đa chiều và làm rõ các quy định về thẩm quyền giải quyết vụ việc
HNGĐ của Tòa án; phương pháp so sánh được sử dụng để chỉ ra những điểm
khác biệt của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án
giữa luật cũ và luật hiện hành; làm rõ những điểm tiến bộ và hạn chế của quy
định pháp luật hiện hành về thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án
phương pháp diễn dịch, quy nạp và tổng hợp được tác giả sử dụng để khái
quát các ý chính trong từng vấn đề cụ thể, giúp cho các ý tưởng trong luận
văn được sáng rõ.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Kết quả nghiên cứu đề tài “Thẩm quyền giải quyết các vụ việc hôn
nhân và gia đình của Tòa án và thực tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân dân ở
tỉnh Sơn La”có thể đem lại những điểm mới sau:
- Luận văn là công trình đầu tiên trình bày được khái niệm, đặc điểm và
vai trò về thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án. Kết quả nghiên
cứu ở phần đặc điểm của luận văn đã giúp phân biệt rõ thẩm quyền của Tòa
án trong việc giải quyết vụ việc HNGĐ khác biệt gì so với thẩm quyền của
Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự, kinh tế, lao động. Luận văn đưa
ra được các điều kiện bảo đảm thực hiện quy định về thẩm quyền giải quyết
vụ việc HNGĐ của Tòa án phù hợp với tình hình phát triển của tỉnh Sơn La.
- Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách tương đối toàn diện và sâu
sắc các quy định của pháp luật TTDS Việt nam về thẩm quyền giải quyết vụ
việc HNGĐ của Tòa ánvà thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Sơn
La trong những năm gần đây. Từ những nghiên cứu này, luận văn đã làm sáng


6
rõ những hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật hiện hành về thẩm
quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án, và những vướng mắc trong quá
trình áp dụng các quy định về thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa
ántrong thực tiễn xét xử. Đồng thời, luận văn đưa ra những luận giải cụ thể về

nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập đó.
- Luận văn đã có những kiến nghị sửa đổi, bổ sung cụ thể về thẩm
quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án và kiến nghị nâng cao hiệu quả
thực hiện thẩm quyền giải quyết các vụ việc HNGĐ của Tòa án ở tỉnh Sơn La
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
nội dung cụ thể của luận văn được kết cấu thành 2 chương và 7 mục.


7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ VIỆC VỀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH CỦA TÒA ÁN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TÒA ÁN
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền giải quyết các vụ việc về hôn nhân và
gia đình của Tòa án
Trước hết, để đưa ra được khái niệm thẩm quyền giải quyết vụ việc
HNGĐ của Tòa án cần giải thích được khái niệm “vụ việc HNGĐ”.
Khi xây dựng BLTTDS các nhà khoa học và các nhà làm luật đã mất
khá nhiều công sức bàn luận về thuật ngữ vụ án dân sự. Ý kiến mang tính chủ
đạo là không sử dụng khái niệm vụ án dân sự để chỉ những loại việc thuộc
thẩm quyền giải quyết dân sự của Tòa án. Lí do của sự thay đổi này xuất phát
từ hai nguyên nhân chính; nếu xét về mặt thuật ngữ, đã là vụ án thì phải có kết
án như vụ án hình sự; nếu xét về mặt thực tiễn, đối với các yêu cầu về dân sự
thì trình tự, thủ tục giải quyết không cần quá phức tạp như đối với tranh chấp,
việc giải quyết tranh chấp và yêu cầu dân sự cùng chung một thủ tục là không
cần thiết, làm mất thời gian, công sức của cả đương sự và Tòa án. Thuật ngữ
vụ việc dân sự ra đời vào bối cảnh đó và được ghi nhận tại Điều 1 BLTTDS
năm 2004. Theo đó, BLTTDS quy định những nguyên tắc trong TTDS; trình

tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự,
HNGĐ, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự)
và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự,
HNGĐ, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự).
Với quy định này, vụ việc dân sự bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự phát
sinh từ các quan hệ pháp luật về dân sự; HNGĐ; lao động; kinh doanh,
thương mại. Vụ án dân sự là việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ dân sự;
HNGĐ; kinh doanh, thương mại và lao động do các cá nhân, cơ quan, tổ chức
hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật TTDS yêu cầu Tòa án giải


8
quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc bảo
vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng. Việc dân sự là việc các cá nhân, cơ
quan, tổ chức không có tranh chấp nhưng yêu cầu Tòa án công nhận hoặc
không công nhận sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
dân sự, HNGĐ; kinh doanh, thương mại và lao động của mình hoặc của cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công
nhận cho mình quyền về dân sự; HNGĐ; kinh doanh, thương mại và lao động.
Mặc dù cùng hình thành dựa trên quan hệ tự do, tự nguyện và bình
đẳng nhưng quan hệ HNGĐ có đặc điểm riêng so với quan hệ dân sự gốc,
kinh doanh thương mại và lạo động, đơn cử như: Chủ thể của vụ việc về
HNGĐ là các cá nhân có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng và các
quan hệ về tài sản trong HNGĐ đều gắn với yếu tố nhân thân.
Trong lịch sử hình thành và phát triển xã hội loài người từ xưa đến nay,
quyền lực luôn là vấn đề được quan tâm và tranh luận nhiều, đặc biệt là quyền
lực Nhà nước. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin: “Nhà nước là sản
phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được” 1.
Nhà nước được xây dựng từ khế ước xã hội để bảo vệ quyền con người. Nhà
nước ra đời với chức năng chủ yếu là điều hòa xã hội, duy trì sự ổn định và

phát triển của xã hội theo một trật tự nhất định, đúng như nhà Triết học người
Anh Hobbes Leviathan đã nói: “Cuộc sống mà không có nhà nước hiệu lực
để duy trì trật tự, thì rất đơn độc, nghèo nàn, đồi bại, tàn bạo và ngắn ngủi” 2.
Một trong những công cụ hiệu quả nhất để thực hiện quyền lực Nhà nước đó
là pháp luật. Quyền lực Nhà nước được thực hiện chủ yếu thông qua pháp
luật. Pháp luật của Nhà nước là sự tối thượng nhưng suy cho cùng nó cũng
không thể tách rời hai từ “công lý”, trọng trách quan trọng và cao cả bậc nhất
của pháp luật là để thiết lập, duy trì và bảo vệ sự công bằng xã hội, điều này
Lê Thị Hà (2005), Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 31.
2
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, GS.TS. Nguyễn Đăng Dung – TS.
Đặng Minh Tuấn (đồng chủ biên), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2013, tr.56.
1


9
đã được học giả Pascal đặt ra cách đây 500 năm: “Công lý không dựa vào
quyền lực thì bất lực, quyền lực không đi đôi với công lý thì tàn bạo. Vì vậy,
cần phải kết hợp giữa công lý và quyền lực, để nhằm mục đích này, phải làm
thế nào cho những điều hợp công lý phải có đủ quyền lực; hay những điều
dựa vào quyền lực phải hợp công lý”3.
Từ thời cổ đại, các luật gia La Mã đã khẳng định: ở đâu có pháp luật, ở
đó phải có hệ thống bảo đảm cho luật pháp được thi hành một cách nghiêm
chỉnh. Trong quá trình hoạt động, để thực hiện tốt chức năng vốn có, Nhà
nước không thể tự mình làm tất cả mọi công việc mà phải trao quyền cho một
số cơ quan chuyên môn để các cơ quan này nhân danh nhà nước tham gia vào
việc quản lí xã hội. Do đó, để thực hiện nhiệm vụ được giao, mỗi cơ quan
trong bộ máy nhà nước phải được trao những quyền hạn nhất định, đó là tiền
đề làm xuất hiện thẩm quyền.

Thuật ngữ “thẩm quyền” theo nghĩa nguyên thủy bắt nguồn từ tiếng La
tinh là “compotentia”, gồm có hai nghĩa là, phạm vi các quyền hạn của các cơ
quan, người có chức vụ nào đó, hoặc phạm vi những kiến thức, kinh nghiệm
mà ai đó có. Ý nghĩa đầu trong khoa học pháp lý và quản lí thường được hiểu
bằng thuật ngữ “thẩm quyền pháp lý”, ý nghĩa thứ hai là “thẩm quyền chuyên
môn”. Trong phạm vi của khóa luận này, tác giả xin trình bày thẩm quyền với
nghĩa là thẩm quyền pháp lí.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng việt định nghĩa “thẩm
quyền” là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề pháp luật 4. Theo
cách giải nghĩa này, thẩm quyền được hiểu là việc một cơ quan Nhà nước
được phép tự mình nhìn nhận sự việc và đưa ra ý kiến riêng để giải quyết vấn
đề một cách phù hợp theo quy định của pháp luật.
Theo từ điển Luật học Việt Nam, “thẩm quyền” là tổng hợp các quyền
và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, GS.TS. Nguyễn Đăng Dung – TS.
Đặng Minh Tuấn (đồng chủ biên), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2013, tr.606.
4
Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb. Đà Nẵng, 2003, tr.922.
3


10
máy Nhà nước do pháp luật quy định5. Cách định nghĩa này cho thấy, thẩm
quyền được hiểu là phạm vi mà Nhà nước trao quyền cho một cơ quan, tổ
chức của Nhà nước và phạm vi đó phải được pháp luật xác định một cách rõ
ràng. Theo Từ điển luật học của Mỹ thì thẩm quyền được hiểu là một cơ quan
công quyền có thể được xem xét và giải quyết một việc gì theo pháp luật khi
nó có một khả năng cơ bản và tối thiểu. Theo khái niệm này, thẩm quyền
được gắn chặt với khả năng của cơ quan công quyền khi thực hiện việc xem
xét, giải quyết một vấn đề nào đó.

Trong khoa học pháp lý, khái niệm thẩm quyền đã được nhiều tác giả
nghiên cứu. Theo tác giả Lê Hoài Nam: “Thẩm quyền là quyền được thực
hiện những hành vi pháp lý mà pháp luật giao cho một tổ chức hoặc nhân viên
Nhà nước. Nói khác đi, thẩm quyền là quyền của một chủ thể nhất định, đó là
khả năng mà pháp luật cho phép được thực hiện một công việc trong một lĩnh
vực, một phạm vi nhất định”6. Theo tác giả Lê Thị Hà: “Thẩm quyền là tổng
hợp các quyền mà pháp luật quy định cho một cơ quan, tổ chức hoặc một
công chức được xem xét giải quyết những công việc cụ thể trong lĩnh vực và
phạm vi nhất định nhằm thực hiện chức năng của bộ máy nhà nước”7.
Như vậy, dưới những góc độ khác nhau, khái niệm “thẩm quyền” cũng
có sự khác biệt nhất định, nhưng nhìn chung các cách giải thích đều thừa nhận
thẩm quyền là thuật ngữ dùng để chỉ phạm vi, giới hạn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của cá nhân hoặc cơ quan Nhà nước trong việc thực thi quyền lực
Nhà nước được pháp luật quy định.
Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước, thực hiện một trong các lĩnh
vực quyền lực Nhà nước đó là quyền tư pháp. Tòa án có thẩm quyền xét xử
và nhân danh Nhà nước để ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án nhằm
Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 1999, tr.459.
Lê Hoài Nam (1997), Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật TTDS tại Việt Nam, Luận án thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.7.
7
Lê Thị Hà (2005), Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.12.
5
6


11
bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,
tổ chức, lợi ích của Nhà nước. Trong TTDS, theo TS. Lê Thị Hà thì thẩm

quyền của Tòa án là “toàn bộ những quyền do pháp luật quy định theo đó Tòa
án tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo quy định của pháp
luật”8. Trong tố tụng hình sự, TS. Nguyễn Đức Mai quan niệm thẩm quyền
của Tòa án là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với
nhau đó là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm quyền
về hình thức của Tòa án được thể hiện ở thẩm quyền xét xử và giới hạn (phạm
vi) xét xử của các cấp Tòa án đối với các vụ án. Thẩm quyền về nội dung (hay
quyền hạn) của Tòa án xác định Tòa án có quyền quyết định các vấn đề cụ thể
về các vụ án khi xem xét chúng9. Trong tố tụng hành chính, thẩm quyền của
Tòa án là “phạm vi thực hiện quyền lực Nhà nước của Tòa án trong việc giải
quyết các tranh chấp hành chính giữa một bên là công dân, tổ chức và bên kia
là cơ quan công quyền, theo thủ tục tố tụng hành chính nhằm bảo đảm và bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân”10.
Như vậy, có thể thấy rằng, các tác giả đều thừa nhận thẩm quyền của
Tòa án bao gồm các quyền khác nhau của Tòa án khi giải quyết vụ việc, đó là
Tòa án sẽ xác định cụ thể những loại vụ việc nào thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án và Tòa án có quyền ra những quyết định gì khi giải quyết vụ việc
đó.
Nhà nước ta tổ chức theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất.
Điều 1 LTCTAND năm 2002 và Khoản 2 Điều 2 LTCTAND năm 2014 đều
quy định: Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, HNGĐ, lao động, kinh
tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật 11.
Tlđd chú thích 1, tr.12.
Nguyễn Đức Mai, Về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm, Tạp chí Tòa án nhân dân (8), 1993, tr.2.
10
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008,
tr.70
11
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Nxb. CTQG, Hà Nội, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

Nxb. CTQG, Hà Nội.
8
9


12
Theo đó, có thể hiểu Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ án hình sự, dân
sự, lao động, kinh tế, hành chính và những vụ việc khác theo quy định của
pháp luật. Khi xét xử, Tòa án có quyền quyết định những vấn đề liên quan
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự và các chủ thể khác.
Vậy, thẩm quyền của Tòa án là quyền mà Tòa án được phép xem xét
giải quyết các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự và những vụ
việc khác theo quy định của pháp luật và quyền ra bản án, quyết định khi giải
quyết vụ việc đó.
Tuy nhiên, các vụ việc có tính chất khác nhau được giải quyết theo các
thủ tục khác nhau. Do đó, phạm vi thẩm quyền giải quyết vụ việc của Tòa án
cũng khác nhau đó là các thẩm quyền về dân sự, thẩm quyền về hình sự, thẩm
quyền về hành chính của Tòa án. Trong đó, các vụ việc dân sự, HNGĐ, kinh
doanh- thương mại, lao động có đặc điểm đều là những vụ việc phát sinh từ
quan hệ pháp luật mang tính chất “tư”, được hình thành trên cơ sở sở bình
đẳng, tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận và tự định đoạt. Vì vậy, các vụ
việc phát sinh từ quan hệ pháp luật này thuộc thẩm quyền về dân sự của Tòa
án và được giải quyết theo thủ tục TTDS.
Từ đó có thể kết luận: Thẩm quyền dân sự của Tòa án là quyền xem xét
các vụ việc dân sự và quyền đưa ra các bản án, quyết định giải quyết vụ việc
đó theo thủ tục TTDS.
Vụ việc HNGĐ là một vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật HNGĐ
thuộc thẩm quyền về dân sự của Tòa án. Do đó, thẩm quyền giải quyết vụ việc
HNGĐ của Tòa án là quyền xem xét, giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về
hôn nhân gia đìnhvà quyền ra các quyết định khi xem xét, giải quyết các tranh

chấp, yêu cầu đó theo thủ tục TTDS.
Khái niệm thẩm quyền của Tòa án trong HNGĐ được tiếp cận dưới ba
góc độ là thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền theo cấp và thẩm quyền theo


13
lãnh thổ, cụ thể:
- Thẩm quyền theo loại việc của Tòa án trong việc giải quyết vụ việc
HNGĐ là thẩm quyền của Tòa án trong việc thụ lý, giải quyết các vụ việc về
HNGĐ theo thủ tục TTDS. Hay nói cách khác, thẩm quyền của Tòa án theo
loại việc trong giải quyết vụ việc HNGĐ là xác định phạm vi những vụ việc
về HNGĐ mà Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục TTDS.
- Thẩm quyền của Tòa án các cấp trong giải quyết vụ việc HNGĐ là
thẩm quyền sơ thẩm của một cấp Tòa án trong việc thụ lí, giải quyết các vụ
việc HNGĐ theo thủ tục TTDS.
- Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ trong giải quyết vụ việc về
HNGĐ là thẩm quyền sơ thẩm của một Tòa án cụ thể trong việc giải quyết
các vụ việc HNGĐ.
1.1.2. Đặc điểm thẩm quyền giải quyết các vụ việc về hôn nhân và
gia đình của Tòa án
Thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án có những đặc điểm
chung của thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án đó là:
- Thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án phát sinh khi có
yêu cầu của đương sự và bị giới hạn bởi phạm vi yêu cầu của đương sự trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trong lĩnh vực dân sự nói chung và lĩnh vực HNGĐ nói riêng, sự tự
nguyện, tự do, bình đẳng là nền tảng để hình thành, để xác lập nên các quan
hệ pháp luật. Chính vì vậy, trong quan hệ HNGĐ, pháp luật rất coi trọng tính
chất “riêng tư” của các đương sự. Theo đó, có một quan điểm được dùng làm
cơ sở để xây dựng các quy định về TTDS đó là “việc dân sự cốt ở hai bên”.

Về khía cạnh này, pháp luật TTDS nước ta cũng có điểm tương đồng với pháp
luật các nước theo truyền thống commonn law, cả hai hệ thống pháp luật đều
cho rằng: trong quan hệ dân sự, nếu có thể hạn chế được càng ít có sự can
thiệp của công quyền thì càng tốt12. Do vậy, vấn đề có phát sinh hoặc không
12

Nguyễn Thị Thu Hà (2011), Phúc thẩm trong TTDS Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường đại học


14
phát sinh vụ việc HNGĐ không phụ thuộc vào ý chí của Tòa án hay Viện
kiểm sát mà phải phụ thuộc vào ý chí của các đương sự. Ý chí đó được bộc lộ
thông qua việc đương sự nộp đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu đến Tòa án.
Đồng thời, để thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt và quyết định của
đương sự, pháp luật quy định Tòa án chỉ có quyền xem xét và giải quyết các
vấn đề trong giới hạn mà đương sự yêu cầu. Nói cách khác, Tòa án không có
thẩm quyền ra quyết định vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
Mặt khác, tính chất bình đẳng là điểm rất khác biệt trong việc xác định
thẩm quyền giữa nhóm ngành luật tư và luật công. Trong tố tụng hình sự, mối
quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội là mối quan hệ bất bình đẳng vì
Nhà nước là bên mang quyền lực còn kẻ phạm tội là người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Do đó, pháp luật trao cho cơ quan điều tra, viện kiểm
sát và Tòa án có thẩm quyền được tự phát động vụ án. Còn trong tố tụng hành
chính, để vụ án hành chính phát sinh cũng cần có yêu cầu của đương sự
nhưng yêu cầu này không có tính chất tự do, bình đẳng như trong pháp luật
dân sự mà nó là một phương thức giải quyết các khiếu kiện hành chính, được
tồn tại song song với cơ chế giải quyết các khiếu nại, tố cáo hành chính bằng
thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án chịu sự chi phối bởi

ý chí hoặc sự lựa chọn của các đương sự.
Xuất pháp từ tính chất của quan hệ pháp luật dân sự, LTTDS luôn tôn
trọng ý chí tự quyết của các chủ thể trong pháp luật nội dung. Điều này đã
được ghi nhận tại Điều 5 về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự:
“Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện…”. Như vậy, quyền tự
định đoạt được coi là một trong những quyền cơ bản của TTDS. Theo đó,
Luật Hà Nội, tr.15.


15
pháp luật cho phép các đượng sự được thỏa thuận về thẩm quyền giải quyết
vụ việc HNGĐ trong phạm vi hợp lý; đồng thời, tùy theo những trường hợp
cụ thể, xét theo đặc tính riêng của vụ việc, pháp luật có thể để đương sự được
lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Cơ sở pháp lý để xác định thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ của
Tòa án được thực hiện theo quy định của pháp luật TTDS.
Để thực hiện chức năng của mình mỗi cơ quan phải được Nhà nước
trao cho những quyền năng nhất định, quyền năng này định ra một phạm vi
nhất định để các cơ quan không có sự lấn quyền, chồng chéo về thẩm quyền
với các cơ quan Nhà nước khác. Khác với việc xác định thẩm quyền giải
quyết vụ án hình sự và vụ án hành chính được căn cứ quy định pháp luật tố
tụng hình sự và tố tụng hành chính thì thẩm quyền của Tòa án đối với việc
giải quyết vụ việc HNGĐ được quy định trong pháp luật TTDS là căn cứ để
đương sự, Tòa án, người hỗ trợ pháp lí xác định đúng thẩm quyền để nộp đơn
yêu cầu, trình bày nguyện vọng của đương sự đến Tòa án.
Ngoài những đặc điểm chung nêu trên, thẩm quyền giải quyết vụ việc
HNGĐ của Tòa án còn có đặc điểm riêng như sau:
Xác định thẩm quyền giải quyết vụ việc HNGĐ căn cứ vào quan hệ
pháp luật HNGĐ mà các bên có tranh chấp.

Pháp luật nội dung là căn cứ mà Tòa án dựa vào đó để xác định thẩm
quyền về loại việc đối với từng yêu cầu cụ thể của đương sự và là căn cứ để
hội đồng xét xử áp dụng để xem xét, đánh giá và giải quyết các vấn đề liên
quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên, có một yếu tố đặc biệt
liên quan đến thẩm quyền của Tòa án trong HNGĐ khác với thẩm quyền dân
sự khác. Nếu như trong lĩnh vực dân sự, lao động, kinh doanh, thương mại
thẩm quyền giải quyết của Tòa án thường gắn với việc giải quyết các quyền
và nghĩa vụ về tài sản thì trong lĩnh vực HNGĐ thẩm quyền của Tòa án
thường gắn với việc giải quyết các quyền và nghĩa vụ về nhân thân. Trên thực
tế, trong một số vụ án về ly hôn, Tòa án có thể giải quyết vấn đề liên quan đến


16
tài sản theo yêu cầu của đương sự nhưng thực chất quan hệ chính mà pháp
luật hướng đến để giải quyết là quan hệ về ly hôn, còn quan hệ về tài sản chỉ
là quan hệ phụ, được kéo theo bởi tranh chấp về ly hôn. Dựa vào quan hệ
pháp luật HNGĐ có thể xác định được thẩm quyền xét xử của Tòa án thường
liên quan tới việc giải quyết các vấn đề gắn liền với yếu tố nhân thân của các
đương sự.
1.2. ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO THỰC HIỆN THẨM QUYỀN GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ VIỆC VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI CÁC
TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN LA
1.2.1. Điều kiện bảo đảm bằng pháp luật
Pháp luật TTDS cần phải xây dựng các quy định về thẩm quyền giải
quyết vụ việc HNGĐ của Tòa án một cách khoa học, đầy đủ, đơn giản và dễ
hiểu.Đối với đương sự,quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với các vụ
việc về HNGĐ là cơ sở pháp lý quan trọng để người dân thực hiện quyền khởi
kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết các vụ việc HNGĐ theo thủ tục TTDS. Các
quy định về thẩm quyền giải quyết các vụ việc HNGĐ tạo điều kiện thuận lợi
trong quá trình các đương sự tìm đến sự giúp đỡ của công lý, giúp các đương

sự nhanh chóng xác định được nơi cụ thể có thể giải quyết thỏa đáng nguyện
vọng của họ, từ đó, dẫn đến hệ quả là vụ việc HNGĐ sẽ được giải quyết
nhanh chóng để bảo đảm kịp thời quyền và lợi ích cho các đương sự. Đây là
cơ sở để nguyên đơn, người yêu cầu có thể lựa chọn Tòa án, sao cho việc
tham gia tố tụng thuận lợi nhất cho họ. Nói cách khác, các quy định về thẩm
quyền giúp cho đương sự nhanh chóng thực hiện quyền khởi kiện, quyền yêu
cầu, tránh việc gửi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đến Tòa án không đúng thẩm
quyền, làm mất thời gian, công sức, chi phí không đáng có.
Bên cạnh đó, quy định đầy đủ về thẩm quyền giải quyết các vụ việc
HNGĐ còn giúp cho các Tòa áp dụng thống nhất pháp luật. Đây là căn cứ
quan trọng để xác định thẩm quyền của Tòa án, tránh việc áp dụng không
giống nhau trong thực tiễn, gây kéo dài thời gian giải quyết khi vụ việc phải


17
chuyển đi chuyển lại nhiều lần giữa các tòa, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
đương sự. Mặt khác, việc phân định thẩm quyền một cách cụ thể chính là cơ
sở để giải quyết những trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa.
Các quy định về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ trong giải quyết vụ việc
về HNGĐ còn hạn chế sự lạm quyền của các đương sự. Khi đương sự cùng
một lúc nộp đơn ở nhiều nơi khác nhau sẽ gây ra tình trạng có nhiều Tòa cùng
giải quyết một vụ việc và có nhiều phán quyết không giống nhau. Điều này,
vô hình chung đã làm cho người dân mất niềm tin vào chân lí, vào các cơ
quan bảo vệ pháp luật và gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự.
1.2.2.Điều kiện bảo đảm thông qua hoạt động của cơ quan tiến
hành tố tụng
Một là, đảm bảo sự độc lập, khách quan của các Tòa án tỉnh Sơn La.
Việc giải quyết vụ việc dân sự nói chung và các vụ việc HNGĐ nói
riêng không thể khách quan và đúng đắn nếu hoạt động xét xử thiếu tính độc
lập. Điều này đòi hỏi, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia cần xây dựng

những cơ chế để Tòa án có thể độc lập với các yếu tố bên trong và các yếu tố
bên ngoài. Với các yếu tố bên trong, đòi hỏi Tòa án cấp dưới phải được độc
lập với Tòa án cấp trên, Thẩm phán xét xử phải độc lập với các Thẩm phán
trong Tòa án nơi mình công tác, các thành viên trong hội đồng xét xử phải
độc lập với nhau khi đưa ra phán quyết. Với các yếu tố bên ngoài, Tòa án phải
độc lập với các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí…; Tòa án phải độc
lập với các đảng phái chính trị…Có làm được điều đó mới đảm bảo hoạt động
giải quyết vụ việc dân sự được công minh, đúng pháp luật13.
Ba là, bảo đảm cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết vụ việc
dân sự tại Tòa án tại tỉnh Sơn La.
Có hai cơ chế giám sát có thể áp dụng trong TTDS. Thứ nhất, các Tòa
án cấp trên có quyền sửa chữa những sai lầm của Tòa án cấp dưới. Trong quá
Vũ Hoàng Anh, Quyền của nguyên đơn trong TTDS Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội 2017, tr.
32.
13


18
trình xét xử, nếu Tòa án cấp trên phát hiện việc giải quyết của Tòa án cấp
dưới không bảo đảm thực hiện quyền của nguyên đơn hoặc có những sai lầm
trong xét xử thì có thể xét xử lại vụ việc dân sự nhằm bảo đảm tính đúng đắn
của phán quyết được đưa ra từ cơ quan tư pháp. Thứ hai, việc giám sát có thể
thực hiện thông qua hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát. Với chức năng
giám sát các hoạt động tố tụng của những người tham gia tố tụng và Tòa án,
trong phạm vi quyền hạn của mình, Viện kiểm sát có thể thực hiện các hành
vi tố tụng nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự được đúng đắn và
đảm bảo việc xác định thẩm quyền giải quyết các vụ việc HNGĐ của Tòa án
được chính xác và đúng pháp luật.
1.2.3. Năng lực, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề
nghiệp của người tiến hành tố tụng dân sự

Các quy định của pháp luật TTDS có đầy đủ đến mấy nhưng bản thân
những người cầm cân nẩy mực lại không khách quan, vô tư hoặc trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ kém, không có đạo đức nghề nghiệp thì việc giải
quyết vụ việc dân sự chắc chắc sẽ không chính xác, không bảo vệ được quyền
và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Do đó, khi giải quyết vụ việc dân sự
mà các thẩm phán có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có đạo đức nghề
nghiệp, luôn tôn trọng sự công bằng và hành động vô tư đồng thời căn cứ vào
các quy định của pháp luật để xác định thẩm quyền giải quyết các vụ việc
HNGĐ thì sẽ tránh được việc tranh chấp về thẩm quyền hoặc đùn đẩy trách
nhiệm trong việc thụ lý, giải quyết các vụ việc HNGĐ.
1.2.4. Hoạt động bổ trợ tư pháp cho người dân tỉnh Sơn La
Nhà nước được thành lập từ nhân dân nên mọi hoạt động của nhà nước
phải luôn hướng đến việc bảo vệ và bảo đảm các quyền lợi hợp pháp của nhân
dân. Trong TTDS, hoạt động bổ trợ tư pháp (hoạt động tư vấn, tranh tụng của
luật sư, giám định tư pháp, công chứng…) nhằm hỗ trợ Tòa án thực hiện tốt
hơn chức năng xét xử các vụ việc dân sự. Đặc biệt, với sự trợ giúp pháp lý
của đội ngũ luật sư có phẩm chất, đạo đức, có trình độ, chuyên môn, nghiệp


19
vụ thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự chắc chắn sẽ
được thực hiện trên thực tế cũng như việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa
án sẽ hiệu quả hơn14. Vì vậy, tỉnh Sơn la phải đẩy mạnh hoạt động bổ trợ tư
pháp cho người dân nhằm giúp người dân có thể nộp đơn khởi kiện đúng Tòa
án có thẩm quyền.
1.3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC VỀ HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH CỦA TÒA ÁN
1.3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về thẩm quyền
giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình của Tòa án theo loại việc

Những vụ việc về HNGĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được
quy định tại Điều 28 và 29 BLTTDS năm 2015. Trong đó, các tranh chấp về
HNGĐ gồm có1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia
tài sản sau khi ly hôn; 2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân; 3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi
ly hôn; 4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha,
mẹ; 5. Tranh chấp về cấp dưỡng; 6. Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; 7. Tranh chấp về nuôi con,
chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật; 8. Các tranh chấp khác về hôn
nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ
chức khác theo quy định của pháp luật.
Các yêu cầu về HNGĐ gồm có: 1. Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp
luật; 2. Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản
khi ly hôn; 3. Yêu cầu công nhận thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp
Nguyễn Thị Thu Hà, Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong giải quyết vụ án dân
sự tại TAND, NXB Lao Động, tr. 61.
14


20
luật về hôn nhân và gia đình; 4. Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với
con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn; 5. Yêu cầu
chấm dứt việc nuôi con nuôi; 6. Yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo
quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình; 7. Yêu cầu công nhận thỏa
thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã
được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án; 8. Yêu cầu tuyên bố vô
hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật

hôn nhân và gia đình; 9. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án
nước ngoài; 10. Yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo
quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình; 11. Các yêu cầu khác về hôn
nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ
chức khác theo quy định của pháp luật.
Trong những vụ việc trên, tác giả sẽ đi sâu phân tích một số quy định
về xác định thẩm quyền giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình của
Tòa án theo loại việccó nhiều bất cập, vướng mắc, đó là:
Thứ nhất, về vụ việc xác định cha, mẹ, con
Quan hệ giữa cha - mẹ - con là mối quan hệ huyết thống tự nhiên theo
quy luật sinh học. Mối quan hệ này phát sinh không phụ thuộc vào quan hệ
hôn nhân của người cha, mẹ có hợp pháp hay không. Tranh chấp về xác định
cha, mẹ, con là việc xem xét, giải quyết và xác định có mối quan hệ huyết
thống giữa cha, mẹ và con không? Cụ thể, Điều 89 LHNGĐ năm 2014 về xác
định con quy định: “Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể
yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình; Người được nhận là cha, mẹ
của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người con đó không phải là
con của mình”. Đồng thời, Điều 90 LHNGĐ năm 2014 về xác định cha mẹ có
quy định: “Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha,
mẹ đã chết; Con đã thành niên nhận cha, không cần phải có sự đồng ý của
mẹ; nhận mẹ, không cần phải có sự đồng ý của cha”. Theo đó, tranh chấp về


×