Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Hoạt động giám sát của đại biểu quốc hội, đoàn đại biểu quốc hội theo pháp luật hiện hành qua thực tiễn tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.44 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

PHẠM NGỌC MAI

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI,
ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
QUA THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng ứng dụng

HÀ NỘI, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

PHẠM NGỌC MAI

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI,
ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
QUA THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG



Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật Hành chính
Mã số: 8380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng ứng dụng

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thái Dƣơng

HÀ NỘI, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Ngọc Mai


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực tiễn, được sự
hướng dẫn, giảng dạy của Quý thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của cơ quan cùng với
sự đóng góp của bạn bè, tôi đã hoàn thành Luận văn Thạc sỹ Luật học. Qua đây tôi xin gửi
lời cảm ơn chân thành đến:

Ban giám hiệu cùng quý thầy cô Trường Đại học Luật Hà Nội, các Giáo sư, Phó Giáo
sư, Tiến sỹ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt
thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn Khoa Sau đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện quản lý đào tạo,
cung cấp thông tin cần thiết về quy chế đào tạo cũng như chương trình đào tạo một cách kịp
thời, tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này đúng tiến độ.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS Trần Thái Dương đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Ngọc Mai


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ĐBQH: Đại biểu Quốc hội
HĐND: Hội đồng nhân dân
QH: Quốc hội
UBTVQH : Uỷ ban thường vụ Quốc hội
UBMTTQ: Ủy ban mặt trận tổ quốc
UBND: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ......................................................................... 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .......................................... 3
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn ................................................................ 3
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn .................... 4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ................................................ 4
7. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 5
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI, ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI ................................. 6
1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội,
đoàn đại biểu Quốc hội..................................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu
Quốc hội ............................................................................................................ 6
1.1.2. Đặc điểm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu
Quốc hội .......................................................................................................... 10
1.1.3. Vai trò hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc
hội ................................................................................................................... 13
1.2. Nội dung, hình thức giám sát, chƣơng trình hoạt động giám sát, thẩm
quyền xem xét kết quả giám sát của đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc
hội ................................................................................................................... 15
1.2.1. Nội dung, hình thức hoạt động giám sát, thẩm quyền xem xét kết quả
giám sát của đại biểu Quốc hội ...................................................................... 15
1.2.2. Nội dung, hình thức giám sát, chƣơng trình hoạt động giám sát, thẩm
quyền xem xét kết quả giám sát của đoàn đại biểu Quốc hội........................ 19
1.3. Các yếu tố bảo đảm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, đoàn đại
biểu Quốc hội .................................................................................................. 20
1.3.1. Cơ cấu, số lƣợng và chất lƣợng đại biểu Quốc hội............................... 20


1.3.2. Các điều kiện hỗ trợ hoạt động giám sát .............................................. 21
1.3.3. Việc thực hiện trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự

giám sát ........................................................................................................... 22
1.3.4. Sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan ............... 23
Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................... 23
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI, ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH BẮC GIANG .............. 24
2.1. Đặc điểm kinh tế-xã hội tỉnh Bắc Giang và khái quát về đại biểu Quốc
hội, đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang .................................................. 24
2.1.1. Đặc điểm kinh tế-xã hội tỉnh Bắc Giang .............................................. 24
2.1.2. Khái quát về đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc
Giang .............................................................................................................. 25
2.2. Kết quả hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc
hội tỉnh Bắc Giang và nguyên nhân ............................................................... 27
2.2.1. Kết quả hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang và
nguyên nhân ................................................................................................... 27
2.2.2. Kết quả hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc
Giang và nguyên nhân.................................................................................... 30
2.3. Hạn chế trong hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội tỉnh Bắc Giang và nguyên nhân ..................................................... 39
2.3.1. Hạn chế trong hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc
Giang và nguyên nhân.................................................................................... 39
2.3.2. Hạn chế trong hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh
Bắc Giang và nguyên nhân ............................................................................ 42
Tiểu kết chƣơng 2 .............................................................................................. 47
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI
BIỂU QUỐC HỘI, ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH BẮC GIANG .... 48
3.1. Các giải pháp chung bảo đảm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội,
đoàn đại biểu Quốc hội................................................................................... 48
3.1.1. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong hoạt động giám sát của đại
biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội .......................................................... 48



3.1.2. Nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội,
đoàn đại biểu Quốc hội trong hoạt động giám sát ......................................... 49
3.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động giám sát của đại biểu
Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội .................................................................. 52
3.1.4. Nâng cao trình độ, năng lực giám sát của Đại biểu Quốc hội, đoàn đại
biểu Quốc hội .................................................................................................. 60
3.2. Các giải pháp cụ thể bảo đảm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang ........................................................ 62
3.2.1. Các giải pháp bảo đảm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội và
Đoàn đại biểu Quốc hội .................................................................................. 62
3.2.2. Các giải pháp bảo đảm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội ..... 69
3.2.3. Các giải pháp bảo đảm hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội
......................................................................................................................... 71
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................... 81
KẾT LUẬN..................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÁO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Chức năng giám sát tối cao là một trong ba chức năng cơ bản của Quốc
hội, theo đó Quốc hội sử dụng quyền hạn, phương tiện và công cụ của mình để
theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu
sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định; tiến hành xử lý hoặc yêu cầu, kiến nghị
cơ quan có thẩm quyền xử lý những phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt
động giám sát. Như vậy, có thể khẳng định hoạt động giám sát nhà nước của
Quốc hội có vai trò vô cùng to lớn, làm cho Quốc hội hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả.
Kể từ khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội có hiệu lực, hoạt động
giám sát của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội đã có nhiều chuyển biến
tích cực, chất lượng, hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động giám sát ngày càng
được nâng lên. Tuy nhiên, trong báo cáo tổng kết hoạt động của Quốc hội và
các cơ quan của Quốc hội các nhiệm kỳ gần đây và nhất là báo cáo từ nhiệm
kỳ khóa XIII tới nay, đều thể hiện hoạt động giám sát vẫn còn những hạn chế,
yếu kém bất cập. Bên cạnh những vấn đề về thẩm quyền, nội dung và phương
thức giám sát, thực tiễn cho thấy thực trạng trong hoạt động giám sát của
ĐBQH và đoàn ĐBQH là một trong những vấn đề bất cập, còn chứa đựng
những nội dung chưa thực sự hợp lý, ảnh hưởng nhất định đến chất lượng và
hiệu quả của hoạt động giám sát. Chính vì vậy, việc nghiên cứu “Hoạt động
giám sát của đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội theo pháp luật
hiện hành qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang” nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả
hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội, đồng
thời là cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội;
Luật Tổ chức Quốc hội. Mặt khác, đề tài luận văn ở mức độ nhất định có ý
nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, góp phần vào việc đổi mới và nâng


2

cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung, Đại biểu Quốc hội
và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, về hoạt động của Quốc hội nói chung và hoạt

động giám sát của Quốc hội nói riêng đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà luật học, chính trị học, xã hội
học. Qua các tài liệu nghiên cứu hiện hành và các công trình khoa học đã được
công bố cho thấy hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung, hoạt động giám
sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội nói riêng đã được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Nhiều công trình nghiên cứu về chức năng giám sát của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội đã đề cập những vấn đề lý luận chung
về giám sát như khái niệm, bản chất, hình thức, nội dung, những kỹ năng giám
sát của Đại biểu Quốc hội. Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu được
đăng trên các tạp chí chuyên ngành và báo cáo tại các hội nghị, hội thảo đề cập
vấn đề hoạt động giám sát của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội nói
chung. Đặc biệt, Kỷ yếu hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc
Giang khóa XIII cũng đã tổng hợp, hệ thống hoá được các hoạt động của Đại
biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang trong nhiệm kỳ. Các
hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc
Giang là một trong những nội dung nổi bật của tập tài liệu này.
Việc nghiên cứu về quyền giám sát và hoạt động giám sát của Quốc hội
Việt Nam đã được quan tâm từ nhiều năm nay. Song chủ yếu mới chỉ tập
trung nghiên cứu về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Do vậy,
có thể nói, đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
chuyên sâu về hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội Đoàn đại biểu Quốc
hội tỉnh, thành phố nói chung và hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang nói riêng. Các ý kiến và kết quả


3

nghiên cứu của các nhà khoa học về hoạt động giám sát của Quốc hội nói

chung và hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội
nói riêng là cơ sở khoa học, những gợi mở cần thiết để tác giả luận văn đi sâu
trình bày rõ hơn về vấn đề hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn
đại biểu Quốc hội qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động
giám sát của ĐBQH, đoàn ĐBQH (dựa theo các quy định của pháp luật và
thực tiễn thực hiện)
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: thực tiễn hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc
hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang từ khóa XIII đến nay
+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2011 đến nay
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm hoạt động
giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố nói
chung, Đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang nói riêng
hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Hệ thống hoá, phân tích làm rõ cơ sở lí luận và pháp luật về hoạt động
giám sát của đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội như khái niệm hoạt
động giám sát; đối tượng, nội dung, phạm vi, hình thức giám sát của Đại biểu
Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội; các yếu tố bảo đảm hoạt động giám
sátcủa Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội;
+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc
hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang từ khóa XIII đến nay (từ năm
2011 - đến nay)
+ Đề xuất các giải pháp sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định của
pháp luật như: Luật tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của Đại biểu Quốc



4

hội và Đoàn đại biểu Quốc hội, đặc biệt là Luật hoạt động giám sát của Quốc
hội;
+ Bảo đảm hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu
Quốc hội tỉnh, thành phố nói chung, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc
hội tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Các phương pháp nghiên cứu sau đây được sử dụng để thực hiện luận
văn:
- Các phương pháp: phân tích, tổng hợp, khái quát hoá: Các phương pháp
này là những phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn để nghiên
cứu những vấn đề lí luận và pháp luật về hoạt động giám sát của đại biểu
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội,làm nổi bật những kết quả, hạn chế, bất cập
và nguyên nhân của kết quả, hạn chế, bất cập trong hoạt động giám sát của
Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang; đề xuất các giải
pháp nhằm bảo đảm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nói chung và của đại biểu
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang nói riêng.
- Các phương pháp: so sánh, thống kê, khảo cứu các báo cáo công tác
hoặc tài liệu khác: Các phương pháp này cũng được sử dụng để hỗ trợ cho các
phương pháp chủ yếu nêu trên nhằm đánh giá thực trạng hoạt động giám sát
của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lí luận, pháp luật và thi
hành pháp luật về hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu
Quốc hộiqua thực tiễn hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại
biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang. Cụ thể, về cơ sở lí luận và pháp luật, luận văn
làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, phạm vi, hình thức hoạt động
giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội; các yếu tố bảo

đảm hoạt động giám sát, của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội.


5

Về thực tiễn, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát
của Đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang từ khóa XIII
đến nay (từ năm 2011 đến nay), chỉ rõ những kết quả, hạn chế, bất cập và
nguyên nhân của kết quả, hạn chế bất cập trong hoạt động giám sát của đại
biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang.Trên cơ sở đó, luận
văn đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm hoạt động giám sát của Đại biểu
Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh trong giai đoạn hiện nay và những
năm tiếp theo; đồng thời đề xuất việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định
của pháp luật như: Luật tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của Đại biểu
Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội, đặc biệt là Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 03 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động giám sát của đại biểu Quốc
hội, đoàn đại biểu Quốc hội
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, Đoàn
đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang
Chương 3: Giải pháp bảo đảm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội,
Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Giang


6

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI, ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò hoạt động giám sát của đại biểu
Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội
1.1.1. Khái niệm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, đoàn đại
biểu Quốc hội
“Giám sát” nguyên gốc là một từ Hán - Việt, có nghĩa là: “xem xét và
bàn bạc”. Theo từ điển tiếng Việt, thì “giám sát là theo dõi, kiểm tra việc thực
thi nhiệm vụ”1. Nhìn từ góc độ thực thi quyền lực nhà nước thì giám sát được
hiểu là sự theo dõi, kiểm tra đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước của các
cá nhân, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể
hiểu khái niệm “giám sát” được định nghĩa như sau: Giám sát là việc Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt
động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường
vụ Quốc hội.
Giám sát là một trong những chức năng cơ bản của quốc hội, nghị viện
một số nước cũng như của Quốc hội Việt Nam. Đó là việc Quốc hội sử dụng
quyền hạn, các phương tiện và công cụ của mình để theo dõi, xem xét, đánh
giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân
theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Về bản chất, giám sát của Quốc hội là hoạt động theo dõi, thu thập thông
tin về việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân
hữu quan và đồng thời xem xét, đánh giá thông tin thu thập được. Việc xem
xét, đánh giá này là cơ sở để Quốc hội có thể biểu dương hoặc phê phán các
Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

1



7

chủ thể có liên quan và trong những trường hợp nhất định, bày tỏ sự tín nhiệm
của mình đối với các chủ thể đó.
Trong tổ chức bộ máy và hoạt động của Nhà nước ta, giám sát nhà nước
được hiểu là hoạt động của cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân)
thực hiện việc theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của những cơ quan, cá
nhân do cơ quan dân cử bầu, thành lập hoặc phê chuẩn hoặc bất cử cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào khi xét thấy cần thiết nhằm bảo đảm các cơ quan này khi
thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải tuân thủ nghiêm các
quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên. Mục tiêu giám sát của Quốc hội là để bảo đảm hoạt động đúng đắn, tính
tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân trong việc tuân
theo pháp luật, thỏa mãn được những nguyên tắc, thủ tục do Quốc hội đề ra và
lợi ích của nhân dân được đảm bảo.
Đối với Quốc hội, giám sát là một chức năng quan trọng bên cạnh các
chức năng lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Khoản
1 Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân quy
định: “Giám sát là việc Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân
tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám
sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội”.
Theo quy định của Hiến pháp 2013 thì: Quốc hội giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước. Quốc hội ở đây được hiểu bao hàm tất cả các thiết
chế bộ máy của Quốc hội như Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Nếu không có hoạt động

giám sát của UBTVQH, HĐDT, các ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và
ĐBQH thì không thể có cơ sở để tiến hành giám sát tối cao tại các kỳ họp và
ngược lại. Tuy nhiên, Quốc hội hoạt động theo nguyên tắc làm việc tập thể và


8

quyết định theo đa số nên các quyết định giám sát kỳ họp và hậu quả pháp lý
của nó mới được xem là giám sát tối cao theo phương diện của pháp luật thực
định. Do đó, Quốc hội được quy định trong Hiến pháp có lúc là một thiết chế
hoàn chỉnh, nhưng cũng có lúc là một chủ thể độc lập, thể hiện rõ nhất là giám
sát tối cao tại kỳ họp qua việc xem xét báo cáo, giám sát chuyên đề hoặc chất
vấn, hoặc bỏ phiếu tín nhiệm...
Trong sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội đòi hỏi tính minh bạch, dân
chủ ngày càng cao. Hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử nói chung, của
đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội nói riêng không chỉ nhằm mục đích
phát hiện ra vấn đề, đưa ra các kiến nghị mà đòi hỏi đối tượng chịu sự giám
sát phải thực thi các kiến nghị đó một cách nghiêm túc, những sai phạm phải
được xử lý, những chính sách chưa hoàn thiện phải được sửa đổi, bổ sung, hủy
bỏ, đáp ứng yêu cầu thực tế.
Chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát có tác động quan trọng không
chỉ liên quan đến chất lượng của hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước mà còn liên quan đến toàn bộ hoạt động của Nhà
nước. Hoạt động giám sát của Quốc hội không chỉ nhằm mục đích bảo đảm
cho Hiến pháp, pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất, mà còn
đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, góp phần đưa pháp luật vào
cuộc sống và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Hoạt động giám sát của ĐBQH là hoạt động thực hiện một trong ba chức

năng cơ bản của Quốc hội, đó là chức năng giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Với vai trò là thành viên của Quốc hội, ĐBQH giám sát thông
qua các hoạt động sau:
- Chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;


9

- Giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc thi hành pháp luật
ở địa phương;
- Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. ĐBQH tự mình
giám sát hoặc tham gia hoạt động giám sát cùng Đoàn ĐBQH, tham gia hoạt
động giám sát của UBTVQH, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội
tại địa phương khi có yêu cầu.
Trong thực hiện hoạt động giám sát ĐBQH phải đảm bảo nguyên tắc
công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của
pháp luật; không làm cản trở hoạt động bình thường của cá nhân, tổ chức bị
giám sát. ĐBQH chịu trách nhiệm về quyết định, yêu cầu, kiến nghị, giám sát
của mình và báo cáo cử tri địa phương về việc thực hiện nhiệm vụ giám sát.
Hàng năm, ĐBQH đăng ký chương trình thực hiện hoạt động giám sát ở địa
phương với Đoàn ĐBQH ở địa phương để đưa vào chương trình giám sát.
Đoàn ĐBQH có trách nhiệm tổ chức thực hiện các hoạt động giám sát và tổ
chức để ĐBQH trong đoàn thực hiện chương trình giám sát của cá nhân. Kết
quả thực hiện chương trình giám sát của cá nhân ĐBQH và Đoàn ĐBQH được
Đoàn báo cáo định kỳ hằng năm tới Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Căn cứ vào quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội và Luật hoạt
động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân thì hoạt động giám sát của
ĐBQH và Đoàn ĐBQH là việc ĐBQH thực hiện chất vấn tại kỳ họp, tự mình

thực hiện giám sát hoặc tham gia đoàn giám sát của Đoàn ĐBQH giám sát
việc thi hành pháp luật của địa phương, giám sát văn bản quy phạm pháp luật
của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, luật, nghị quyết của
QH, Pháp lệnh, Nghị quyết của UBTVQH được thực hiện nghiêm chỉnh,
thống nhất bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân.


10

1.1.2. Đặc điểm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, đoàn đại
biểu Quốc hội
1.1.2.1 Về chủ thể giám sát
Tại Điều 2 và Điều 4 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân 2015 thì chủ thể giám sát là Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc
hội có những thẩm quyền sau:
Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức hoạt động giám sát của Đoàn và tổ chức
để đại biểu Quốc hội trong Đoàn thực hiện nhiệm vụ giám sát tại địa phương;
tham gia giám sát với Đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tại địa phương;
Đại biểu Quốc hội chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà
nước; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát văn bản quy
phạm pháp luật, việc thi hành pháp luật; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị của công dân; tham gia Đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tại các bộ,
ngành, địa phương khi có yêu cầu.
1.1.2.2 Về đối tượng giám sát
Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015,

đối tượng chịu sự giám sát của ĐBQH và đoàn ĐBQH là cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát phải thực hiện đầy đủ kế
hoạch, nội dung, yêu cầu giám sát của chủ thể giám sát; cung cấp thông tin
liên quan đến nhiệm vụ của mình, trừ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà
nước mà theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước thì chủ thể
giám sát đó không thuộc diện được tiếp cận; báo cáo trung thực, khách quan,


11

đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giám sát;
thực hiện kết luận, kiến nghị của Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội.
1.1.2.3 Đặc điểm của hoạt động giám sát
- Thứ nhất, thuật ngữ giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là
phải trả lời được câu hỏi ai (người hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc
theo dõi, xem xét, kiểm tra và đưa ra những đánh giá, nhận định về một việc
làm nào đó đã được thực hiện đúng hay sai so với các quy định hiện hành;
- Thứ hai, giám sát của ĐBQH và đoàn ĐBQH bao giờ cũng cần 2 giai
đoạn: Giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm tra và giai đoạn đánh giá, đưa ra kiến
nghị, kết luận. Trong đó, giai đoạn thứ nhất là cơ sở để thực hiện giai đoạn thứ
hai. Nếu giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm tra làm tốt thì việc đánh giá, kết
luận sẽ đúng đắn, chính xác và cuộc giám sát sẽ có hiệu quả và ngược lại.
- Thứ ba, giám sát cũng luôn gắn với một đối tượng cụ thể, giám sát ai?
giám sát việc gì? Đặc điểm cơ bản này cho chúng ta phân biệt giữa giám sát và
kiểm tra. Bởi nói tới kiểm tra thì chủ thể hoạt động kiểm tra và đối tượng chịu
sự tác động này có thể đồng nhất là một. Đó là trường hợp chủ thể tự kiểm tra
hoạt động của mình, tức là tự xem xét đánh giá tình trạng tốt xấu của công
việc đang làm để từ đó có hướng khắc phục. Nhưng trong hoạt động giám sát

thì không thể có tình trạng tự chủ thể giám sát chính hành vi của mình mà phải
qua hoạt động theo dõi, thẩm tra và xem xét của một chủ thể khác, từ đó đưa
ra kết luận và kiến nghị.
- Thứ tư, giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa các chủ thể tham gia
vào hoạt động giám sát, đó là ĐBQH, đoàn ĐBQH với các cơ quan, tổ chức,
cá nhân chịu sự giám sát. Nội dung của quan hệ này biểu hiện ở những quyền
và nghĩa vụ của chủ thể giám sát và đối tượng chịu giám sát.
- Thứ năm, giám sát phải được ĐBQH, đoàn ĐBQH tiến hành trên những
căn cứ do pháp luật quy định. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì:
Nếu như thiếu những quy định này thì chủ thể giám sát không có cơ sở để


12

thực hiện quyền giám sát và tiêu chí để đưa ra những nhận định về hoạt động
của đối tượng chịu giám sát.
- Thứ sáu, giám sát của ĐBQH và đoàn ĐBQH là hoạt động có tính mục
đích. Trước hết, mục đích của giám sát là đưa ra được những nhận định chính
xác của chủ thể giám sát đối với hoạt động của đối tượng chịu giám sát, từ đó
có các biện pháp xử lý đối với những việc làm sai trái nhằm bảo đảm cho
những quy định của pháp luật được thực hiện đúng và có hiệu quả.
Với các phân tích trên, hoạt động giám sát của ĐBQH và đoàn ĐBQH
có thể thấy những đặc điểm sau:
- Đại biểu Quốc hội luôn là chủ thể trong mọi hoạt động giám sát của
Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và của Đoàn Đại biểu
Quốc hội.
- Khi Đại biểu Quốc hội tham gia hoạt động giám sát của Đoàn ĐBQH
với tư cách là thành viên của Đoàn, nổi lên một số đặc điểm sau:
• Hoạt động giám sát của ĐBQH và đoàn ĐBQH luôn diễn ra tại cơ sở
gắn với những hoạt động thi hành pháp luật tại các địa phương.

• Luôn được thực hiện theo kế hoạch của Đoàn ĐBQH hoặc theo chương
trình của cá nhân đại biểu Quốc hội trong đoàn đã được báo cáo UBTV Quốc
hội.
• Đối tượng chịu sự giám sát của ĐBQH và Đoàn ĐBQH chủ yếu là các
cơ quan, tổ chức chính quyền, cá nhân đang hoạt động trên địa bàn tại địa
phương.
Nếu so sánh hoạt động giám sát của Đoàn ĐBQH với hoạt động của
Quốc hội, các cơ quan có chức năng giám sát của Quốc hội như Hội đông dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội về cơ bản:
Giám sát của Quốc hội các cơ quan có chức năng giám sát của Quốc hội
như Hội đông dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội là giám sát tối cao tại kỳ họp
Quốc hội và giám sát các cơ quan trung ương thông qua hoạt động như:


13

- Thẩm tra báo cáo thuộc lĩnh vực Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc
hội phụ trách hoặc theo sự phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Giám sát văn bản quy phạm pháp luật theo quy định.
- Tổ chức giám sát chuyên đề.
- Tổ chức hoạt động giải trình những vấn đề thuộc lĩnh vực Hội đồng
dân tộc, Ủy ban của Quốc hội phụ trách.
- Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân.
- Kiến nghị về việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Còn giám sát của Đoàn ĐBQH chủ yếu trong phạm vi một địa phương và
thường mang tính sự vụ thực tiễn, nhất là giám sát về việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị của công dân.
Có thể thấy hoạt động giám sát từ cơ sở tại các địa phương cho đến các
cơ quan Trung ương đã tạo điều kiện cho Quốc hội đánh giá được toàn diện

việc thực hiện các đường lối chủ trương chính sách pháp luật của nhà nước
của các chủ thể chủ thể chịu sự giám sát trong xã hội. Qua đó kịp thời ban
hành, điều chỉnh chính sách, kiến nghị các chủ thể thực hiện đúng quy định
của Pháp luật. Đồng thời thực hiện quyền lực nhà nước đối với những chủ thể
chịu sự giám sát có những sai phạm nghiêm trọng.
1.1.3. Vai trò hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu
Quốc hội
1.1.3.1. Đối với Quốc hội
Giám sát với ý nghĩa là hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động
của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ
Quốc hội có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cơ chế thực hiện dân chủ ở
nước ta. Chỉ thông qua Quốc hội, các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước
mới thực sự chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội và đây được coi là cơ chế
giám sát hữu hiệu nhất.


14

Quốc hội có lực lượng ĐBQH hùng mạnh là những công dân ưu tú, tiêu
biểu và trình độ cao được nhân dân bầu trực tiếp. Hệ thống pháp luật và kể cả
Hiến pháp do Quốc hội ban hành đòi hỏi phải được tuân thủ và chấp hành
nghiêm chỉnh. Trên thực tế, vị trí pháp lý của Quốc hội quyết định chức năng
của Quốc hội trong đó có chức năng giám sát mà không có cơ quan nào có thể
đảm nhiệm thay Quốc hội. Đây chính là ưu thế của cơ chế dân chủ dành cho
Quốc hội không chỉ chức năng lập pháp mà còn là chức năng giám sát. Như
vậy, xu thế dân chủ hóa ngày càng trở nên mạnh mẽ ở Việt Nam đã trở thành
một yêu cầu có tính cấp bách rằng chỉ có thể nhân dân và người đại diện cho
nhân dân mới có thể thực hiện quyền giám sát việc thực hiện pháp luật một
cách có hiệu quả và hợp lý. Do đó, hợp lý hơn cả và đảm bảo có hiệu quả hơn

cả, Quốc hội và ĐBQH phải là những người đại diện cho nhân dân thực hiện
chức năng giám sát đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Một mặt, ĐBQH
góp phần thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động giám sát
tối cao của Quốc hội, mặt khác thể hiện trách nhiệm, quyền hạn độc lập của
ĐBQH, đoàn ĐBQH so với Quốc hội trong hoạt động giám sát theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật. Có như vậy, Nhà nước mới thực sự là nhà nước
mang bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
1.1.3.2. Đối với các cơ quan của Quốc hội (UBTVQH, Hội đồng dân tộc
và các uỷ ban của Quốc hội.
Trong mối quan hệ này, Đoàn ĐBQH tỉnh và các đại biểu trong Đoàn đã
tích cực phối hợp tham gia thực hiện tốt trách nhiệm của mình đối với hoạt
động giám sát do Ủy ban thường vụ Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội tổ
chức giám sát tại địa phương, góp phần làm nên tính chặt chẽ của hoạt động
giám sát, thể hiện tình thống nhất trong tổ chức thực hiện cũng như sự minh
bạch, khách quan. Qua các hoạt động chung của ĐBQH, đoàn ĐBQH với các
cơ quan của Quốc hội, việc giám sát trở nên toàn diện hơn khi mà các cơ quan


15

có sự kiểm tra, đánh giá, phối hợp giám sát lẫn nhau, tạo cơ sở để góp ý, phản
biện khi cùng đánh giá về một vấn đề chung.
1.2. Nội dung, hình thức giám sát, chƣơng trình hoạt động giám sát,
thẩm quyền xem xét kết quả giám sát của đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu
Quốc hội
Các hoạt động giám sát nói chung và hoạt động giám sát của đại biểu
Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội nói riêng về cơ bản thường tuân theo một
quy trình gồm các bước như sau:
Các hoạt động chuẩn bị giám sát


Tiến hành giám sát

Xem xét kết quả giám sát

Hậu giám sát

1.2.1. Nội dung, hình thức hoạt động giám sát, thẩm quyền xem xét kết
quả giám sát của đại biểu Quốc hội
1.2.1.1 Về nội dung hoạt động giám sát
Theo Điều 47 Luật hoạt động giám sát của ĐBQH và HĐND năm 2015
thì Đại biểu Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
+ Chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước;
+ Giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc thi hành pháp luật;


16

+ Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân.
1.2.1.2 Về hình thức hoạt động giám sát
Đại biểu Quốc hội có thể tự mình tiến hành hoạt động giám sát hoặc
tham gia hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội; tham gia Đoàn giám
sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội
tại địa phương khi có yêu cầu (khoản 2 Điều 47 Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội, Hội đồng nhân dân năm 2015).
1.2.1.3 Về chương trình giám sát của ĐBQH
Về chương trình giám sát của ĐBQH được quy định: Đại biểu Quốc hội
lập chương trình giám sát hằng năm của mình và gửi đến Đoàn đại biểu Quốc

hội. Đoàn đại biểu Quốc hội căn cứ vào chương trình giám sát của từng đại
biểu Quốc hội,… lập chương trình giám sát hằng năm của Đoàn đại biểu Quốc
hội và báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức
thực hiện các hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và tổ chức để
đại biểu Quốc hội trong Đoàn đại biểu Quốc hội thực hiện chương trình giám
sát của mình... (điều 49 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân
dân năm 2015).
Như vậy Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoàn
toàn không hạn chế hoạt động giám sát của ĐBQH đối với bất cứ đối tượng,
lĩnh vực nào. Tuy nhiên việc thực hiện hoạt động giám sát cẩn tuân thủ những
trình tự theo quy định như: phải có chương trình, kế hoạch và được báo cáo
với UBTV Quốc hội, phải được Đoàn ĐBQH tổ chức để Đại biểu giám sát
theo chương trình của mình…
1.2.1.4 Về thẩm quyền xem xét kết quả giám sát của ĐBQH
Căn cứ kết quả giám sát, ĐBQH có quyền yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ
một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật; kiến nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết các vấn đề có liên quan đến
chủ trương, chính sách, pháp luật; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm


17

quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm
pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý người vi phạm, khôi phục lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm. Ngoài
ra, ĐBQH có quyền kiến nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc
hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê
chuẩn.
Như vậy quyền xem xét kết quả giám sát của ĐBQH, Đoàn đại biểu QH

được hiểu là thẩm quyền của tập thể các đại biểu Quốc hội trong đoàn quyết
định thông qua thảo luận và biểu quyết theo đa số.
1.2.1.1. Các nội dung hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội
1.2.1.1.1 Hoạt động chất vấn của ĐBQH
Hoạt động chất vấn của ĐBQH là hoạt động giám sát của Quốc hội, thể
hiện quyền lực của nhân dân, có vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát
huy tính dân chủ trong hoạt động của Quốc hội, hoạt động chất vấn còn là cầu
nối quan trọng giữa Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan nhà nước với nhân dân,
Thông qua hoạt động chất vấn của Đại biêu Quốc hội mà các cơ quan nhà
nước thấy được thực trạng việc chấp hành pháp luật trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội qua đó đánh giá được năng lực trách nhiệm của chủ thể bị chất
vấn. Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội phải thực sự là điểm
sáng trong hoạt động chính trị của đất nước. Chất vấn tốt thể hiện trình độ
cũng như bản lĩnh của người đại biểu. Kết quả chất vấn được rất nhiều cử tri
quan tâm theo dõi, các vấn đề quan trọng nhạy cảm đã được các ĐBQH chất
vấn và trả lời một cách có trách nhiệm, chân thành và xây dựng, đó là minh
chứng rõ ràng cho hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Để hoạt động giám sát của ĐBQH thường xuyên, liên tục đồng thời khắc
phục tình trạng tập trung quá nhiều vấn đề vào hoạt động chất vấn tại kỳ họp
Quốc hội thì hoạt động chất vấn tại phiên họp UBTVQH là cần thiết.
1.2.1.1.2 Hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật và việc thi
hành pháp luật ở địa phương


×