MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG................................................................................................................1
I. Khái niệm pháp chế và bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà
nước...........................................................................................................................1
1.1. Khái niệm pháp chế............................................................................................1
1.2. Khái niệm bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước....................2
II. Bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước thông qua hình thức
giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.............................................................2
2.1. Khái niệm hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND....................................2
2.2. Mục đích của hoạt động giám sát.......................................................................4
2.3. Các hình thức hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.................5
2.3.1. Hoạt động giám sát của Quốc hội...................................................................5
2.3.2. Hoạt động giám sát của HĐND các cấp.........................................................6
III. Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước..................8
1. Đối với Quốc hội..............................................................................................8
2. Đối với Hội đồng nhân dân..............................................................................9
KẾT LUẬN.............................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CHÚ THÍCH MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT
1. HĐND
: Hội đồng nhân dân
2. UBND
: Uỷ ban nhân dân
3. TAND
: Tòa án nhân dân
4. VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
1
LỜI MỞ ĐẦU
Ở nước ta, Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) là các cơ quan quyền lực nhà
nước. Quốc hội và HĐND nhân dân gồm những đại biểu xuất thân từ nhân dân, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Quốc hội và HĐND do nhân dân bầu ra, trực tiếp
giao cho quyền lực nhà nước để thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực đó. Vì vậy, “nhân
dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND” (Điều 6 Hiến pháp năm
1992). Để sử dụng quyền lực nhà nước một cách có hiệu quả. Quốc hội và HĐND thành
lập ra các cơ quan nhà nước khác để thực hiện những quyền lực nhà nước nhất định đồng
thời giám sát việc giám sát quyền lực đó. Một trong những chức năng quan trọng của
Quốc hội và HĐND đó là thực hiện quyền giám sát. Hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND có vai trò rất lớn đối với các cơ quan khác, trong đó có cơ quan hành chính nhà
nước. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cùng với hoạt động kiểm tra
của các cơ quan hành chính nhà nước, hoạt động xét xử của tòa án nhân dân, hoạt động
của thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân, hoạt động kiểm tra của các tổ chức xã hội
và hoạt động khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo là các biện pháp pháp lý bảo
đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước. Do phạm vi nghiên cứu có giới hạn, nên
bài viết sau đây chỉ đi sâu vào vấn đề: “Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ
quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính
Nhà nước”.
NỘI DUNG
I. Khái niệm pháp chế và bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà
nước.
1.1. Khái niệm pháp chế.
Pháp chế là một thuật ngữ được nhắc đến khá thường xuyên ở Việt Nam, trong các
văn kiện của Đảng, của Nhà nước, trên các phương tiện thông tin, trong các tác phẩm luật
học… song nó là cái gì thì hiện nay chưa có một quan niệm thống nhất về vấn đề này.
Chúng ta có thể gặp nhiều định nghĩa khác nhau về pháp chế trong các tác phẩm khác
nhau. Chẳng hạn, các định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt, trong các giáo trình luật học.
Xem xét cụ thể các định nghĩa pháp chế trong các công trình trên, ta thấy, mặc dù được
diễn đạt khác nhau song giữa các định nghĩa đó có một điểm cốt lõi tương tự nhau, đó là
các tác giả của chúng đều đề cập đến yêu cầu hay đòi hỏi pháp luật phải tôn trọng thực
hiện bởi các chủ thể trong xã hội, từ nhà nước đến các chủ thể khác. Vì vậy, “Khái niệm
pháp chế có thể diễn đạt một cách đơn giản như sau: Pháp chế là sự đòi hỏi mọi tổ chức
và cá nhân trong xã hội đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật hiện hành một cách
nghiêm chỉnh và triệt để nhằm tạo ra trong xã hội một trật tự, kỷ cương cần thiết”.
Pháp chế là một khái niệm khoa học có nội dung đa diện, đa diễn mà hạt nhân, cốt
lõi của nó là sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách tự giác, đầy đủ, nghiêm chỉnh,
thống nhất trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Với tư cách
là một biện pháp cấu thành đời sống xã hội, pháp chế quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời
với pháp luật, nếu pháp luật vừa là cơ sở, nền tảng để xây dựng pháp chế vừa là công cụ
bảo đảm, bảo vệ pháp chế, thì pháp chế cũng vừa là điều kiện cho sự tồn tại của pháp luật
vừa là căn cứ, cơ sở để củng cố, phát triển, hoàn thiện pháp luật. Chính vì vậy, pháp chế
đã được ghi nhận trong Hiến pháp của các nước (Điều 12 Hiến pháp Việt Nam năm
1992).
2
1.2. Khái niệm bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật mà còn
chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con người. Vì vậy bảo đảm cho pháp chế
được củng cố, tăng cường và hoàn thiện là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng
nhà nước của dân, do dân và vì dân và cũng là yêu cầu của quá trình hoàn thiện con người
và các quyền của họ trong xã hội đặc biệt trong quá trình quản lí hành chính nhà nước.
Sự triệt để tôn trọng pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân
là nội dung cơ bản nhất của pháp chế. Xuất phát từ nội dung này mà pháp chế là một
trong những nguyên tắc cơ bản nhất của quản lí hành chính nhà nước. Trong quản lí hành
chính nhà nước, các chủ thể quản lí hành chính nhà nước sử dụng pháp luật với tính chất
là phương tiện quan trọng để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của mình. Tuy
nhiên, phương tiện này chỉ thực sự phát huy vai trò, tác dụng khi nó được tôn trọng và
thực hiện một cách nghiêm chỉnh trên thực tế. Vì vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa với nội
dung là sự tôn trọng và tuân thủ triệt để pháp luật của các cơ quan nhà nước, nhân viên
nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đã trở thành nguyên tắc cơ bản trong tổ
chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong đó có cơ quan hành
chính nhà nước. Như vậy, muốn xây dựng và củng cố pháp chế phải chú ý tiến hành từ
khâu xây dựng pháp luật. Nói đến pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước là nhấn
mạnh đến trật tự pháp luật nhằm bảo vệ và phát triển quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, củng cố và duy trì địa vị pháp lí hành chính của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã
hội.
Bảo đảm pháp chế tức là phải củng cố việc xây dựng cơ chế, phương tiện, phương
pháp và cách thức nhằm làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trên thực tế, đem
lại lợi ích cho nhà nước, cho xã hội và cho người lao động.
Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, các cách thức có tính chất tổ chức –
pháp lí do các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân thực hiện nhằm bảo đảm
sự tôn trọng và triệt để tuân theo pháp luật trong quản lí hành chính nhà nước.
Từ khái niệm trên, bảo đảm pháp chế cũng được hiểu như là những điều kiện, những
phương tiện và những khả năng thực hiện trên thực tế đối với pháp luật hiện hành nhằm
xây dựng và củng cố chính quyền của dân, do dân, vì dân, bảo vệ quyền và nghĩa vụ của
công dân trong đời sống xã hội.
Căn cứ vào nội dung và tính chất của các biện tổ chức – pháp lí, chúng ta có thể
phân biệt các biện pháp bảo đảm pháp chế cơ bản gồm hoạt động giám sát của các cơ
quan quyền lực nhà nước, hoạt động kiểm tra của các cơ quan hành chính nhà nước, hoạt
động xét xử của tòa án, hoạt động kiểm tra, giám sát của tổ chức xã hội và công dân.
Những biện pháp này khi xét về tính chất có khác nhau nhưng nội dung của chúng đều thể
hiện quyền lực của nhân dân lao động với sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
II. Bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước thông qua hình thức
giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.
Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc bảo đảm
pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước thể hiện rõ nét qua các hình thức giám sát
của Quốc hội và HĐND đối với quản lý hành chính nhà nước:
2.1. Khái niệm hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND.
Theo Từ điển Luật học “giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ
động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và
hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt
3
được mục đích, hệu quả đã định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm
chỉnh”. Giám sát luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là ai có quyền thực hiện
việc theo dõi, xem xét, đánh giá về một việc được thực hiện đúng hoặc sai với những điều
đã quy định. Giám sát luôn luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là giám sát ai và giám
sát việc gì?. Điều này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ, nó phân biệt giữa “giám sát” và
“kiểm tra”, vì “kiểm tra” thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sự tác động của hoạt
động đó có thể đồng nhất với nhau, đó là việc tự kiểm tra lại hoạt động của chính mình
của chủ thể hoạt động. Giám sát thì không có sự đồng nhất này; chủ thể thực hiện việc
theo dõi, xem xét, đánh giá luôn luôn không thể đồng nhất với đối tượng chịu sự giám sát.
Tuy nhiên, điểm khác biệt quan trọng nhất đó là chủ thể giám sát không làm thay những
công việc của đối tượng chịu sự giám sát và chủ thể thực hiện việc giám sát luôn luôn là
người đứng ngoài hệ thống của đối tượng chịu sự giám sát. Do đó, khi đánh giá về hiệu
quả của hoạt động giám sát không thể đồng nhất hiệu quả hoạt động của đối tượng chịu sự
giám sát với hiệu quả của chủ thể thực hiện hoạt động giám sát. Giám sát phải thể hiện
được mối quan hệ giữa chủ thể thực hiện hoạt động giám sát với đối tượng chịu sự giám
sát là quan hệ quyền lực nhà nước tức là chủ thể có những quyền và nghĩa vụ gì khi thực
hiện hoạt động giám sát và ngược lại. Những vấn đề này thường được Hiến pháp và pháp
luật điều chỉnh. Giám sát được tiến hành trên cơ sở những quy định cụ thể. Chính vì vậy,
giám sát là hoạt động có mục đích của một hay nhiều chủ thể nhất định – là một nội dung
của hoạt động quản lý nhà nước và cũng là một hình thức kiềm chế, đối trọng trong việc
thực thi quyền lực nhà nước chung. Thực hiện tốt công tác giám sát là đòi hỏi cấp thiết
của nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Ở nước ta, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND
các cấp. Vì vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong đời sống chính trị - xã hội. Quyền lực nhà nước trực tiếp từ nhân dân nên hoạt
động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp, nhân dân thực hiện quyền lực của mình
đối với hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước để đảm bảo cho các hoạt động đó phục
vụ lợi ích, ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Các cơ quan quyền lực nhà nước là những cơ
quan có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước. Vị trí pháp lý cũng như chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của nó do Hiến pháp quy định. Hoạt động của những cơ
quan này tác động tích cực và chi phối rất lớn hoạt động của cơ quan nhà nước khác,
trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước cũng như các cơ quan tư pháp.
Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội số 05/2003/QH11 ngày 17/6/2003 đã
quy định: “Giám sát là việc Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đông dân tộc,
ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ
Quốc hội”.
Căn cứ vào những quy định của Hiến pháp và Điều 1 Luật tổ chức hội đồng nhân
dân và ủy ban nhân dân năm 2003 và nội dung quyền giám sát của HĐND có thể xác định
như sau: “Giám sát của HĐND là quyền của HĐND thực hiện theo dõi, xem xét và đánh
giá hoạt động của thường trực HĐND, UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp; các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và công dân ở địa phương trong việc thực hiện các nghị quyết của HĐND và việc
tuân theo Hiến pháp và pháp luật”.
4
2.2. Mục đích của hoạt động giám sát.
Cơ quan quyền lực nhà nước giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính
nhà nước cùng cấp:
- Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và HĐND các cấp thực hiện quyền lực
nhà nước một cách thường xuyên và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra mọi mặt công tác
của các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.
- Với những quy định của Hiến pháp và pháp luật, Nhà nước đã xác định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan hành chính nhà nước và xác định cả những nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan đó. Tuy nhiên, cùng với sự vận động và phát
triển của kinh tế xã hội trong từng giai đoạn, thực tiễn hoạt động quản lý của nhà nước có
nhu cầu phải luôn luôn tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính
nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hoạt động quản lý. Những quy định
của pháp luật thường chậm hơn những biến đổi và đòi hỏi của hoạt động thực tiễn, do đo
ngay cả những quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước cũng cần phải sửa đổi bổ sung một các kịp thời. Hoạt động
giám sát không chỉ nhằm phát hiện những hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật của
các cơ quan hành chính nhà nước mà còn nhằm phát hiện những điểm chưa hợp lý trong
việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và kiến nghị những giải
pháp khắc phục một cách có hiệu quả những điểm chưa hợp lý đó. Kết quả của hoạt động
giám sát là một trong những nguồn thông tin quan trọng, cung cấp căn cứ thực tiễn cho
việc sửa đổi và bổ sung những quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước.
- Hoạt động giám sát nhằm kịp thời phát hiện những điểm chưa phù hợp với thực
tiễn đời sống xã hội trong những quy định của pháp luật và kiến nghị những biện pháp
khắc phục một cách có hiệu quả những điểm chưa hợp lý đó. Mặc dù khi xây dựng các
văn bản luật cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác, các nhà hoạch định chính
sách và các chuyên gia làm công tác xây dựng luật đã tuân theo quy định rất nghiêm ngặt
và khoa học, nhưng khi áp dụng vào thực tiễn những dự tính đó mới được kiểm nghiệm
và bộc lộ những điểm chưa phù hợp hoặc chưa đáp ứng đúng nhu cầu của đời sống xã hội
cần phải được phát hiện và bổ sung kịp thời. Những kết quả của hoạt động giám sát đặc
biệt là những kết quả trong việc giám sát việc giám sát thi hành các văn bản pháp luật là
một trong những nguồn thông tin quan trọng, cung cấp cơ sở thực tiễn của đời sống xã hội
ở Việt Nam giúp các nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia làm công tác xây dựng
pháp luật trong quá trình soạn thảo ở tất cả các khâu: từ xác định nhu cầu lập pháp tức là
xác định sự cần thiết phải ban hành một văn bản luật đến việc xác định những mục đích
cần đạt được của dự án và tính khả thi của dự án luật đó.
- Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và HĐND nhân dân các cấp phát hiện ra
những vi phạm pháp luật xâm phạm tới trật tự và lợi ích nhà nước, xã hội và công dân của
cán bộ nhà nước. Nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước là phải tuyệt đối chấp
hành và tuân theo những quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và
quyền hạn của mình. Tuy nhiên, do ảnh hưởng và tác động của những lợi ích cá nhân
hoặc lợi ích cục bộ của các nhóm lợi ích khác nhau hoặc xung đột với nhau trong một cơ
quan, một tổ chức hoặc thậm chí trong một nhóm cộng đồng xã hội mà những cá nhân, cơ
quan, tổ chức thực thi quyền lực nhà nước có xu hướng lạm dụng, quyền lực, vi phạm
những quy định của Hiến pháp và pháp luật để đạt tới những lợi ích của các nhân hoặc
cục bộ. Qua việc phát hiện ra những vi phạm, từ đó kịp thời xử lý và yêu cầu các cấp, các
5
ngành xử lý nghiêm minh những vi phạm đó để củng cố pháp chế. Các hình thức, phương
pháp giám sát được triển khai đã đem lại kết quả khá tốt, góp phần vào việc thực hiện
nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc đổi mới, tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước có thể phát hiện
những yếu kém, những khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động cũng như những
khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật và thực hiện nhiệm vụ mà pháp
luật đã quy định đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Trên cơ sở đó cơ quan nhà
nước kịp thời đề ra những biện pháp cụ thể và biện pháp thích hợp khắc phục những khó
khăn và tồn tại ấy.
2.3. Các hình thức hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.
2.3.1. Hoạt động giám sát của Quốc hội.
Hoạt động giám sát của Quốc hội vừa là chức năng, vừa là nhiệm vụ và quyền hạn
của Quốc hội. Quyền đó đã được khẳng định cụ thể tại khoản 2 Điều 84 Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi và bổ sung năm 2001) và khoản 2 Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001:
“Quốc hội…thực hiện quyết định giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà
nước”. Quy định này vừa khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lức nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vừa
khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất tập trung trong tay nhân dân lao
động. Chính vì vậy mà những quy định trên cũng đồng thời khẳng định: Chủ thể thực hiện
quyền giám sát tối cao là Quốc hội. Quốc hội trong trường hợp này là toàn thể đại biểu
Quốc hội chứ không phải chỉ một đại biểu Quốc hội hay một bộ phận nào đó của Quốc
hội. Vì thế, Quốc hội mới có quyền và đủ điều kiện thực hiện “quyền giám sát tối cao đối
với toàn bộ hoạt động của nhà nước”.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở
hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc
hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Như vậy, hình thức giám sát của Quốc
hội nói chung, đối với quản lý nhà nước nói riêng khá đa dạng.
Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Quốc hội. kỳ họp là
nơi biểu hiện trực tiếp và tập trung nhất quyền lực nhà nước của cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất; trí tuệ tập thể của các đại biểu Quốc hội. Trên kỳ họp Quốc hội nghe báo
cáo của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ. Đây chính là phương thức để thực hiện
nội dung giám sát việc tổ chức và thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội
trong các hoạt động thực tiễn của Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ. Nội dung
giám sát này có ý nghĩa rất to lớn và sâu sắc trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Việc xem xét thảo luận các báo cáo hàng năm hoặc
sáu tháng tại các kỳ họp của năm hay giữa năm được tiến hành theo một trình tự chặt chẽ
do luật định, trong đó phải có thẩm tra, phản biện, thảo luận tranh luận của các cơ quan
của Quốc hội và đại biểu Quốc hội đối với Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ
thuộc quyền giám sát của Quốc hội. Đặc biệt là thông qua quyền chất vấn của đại biểu
Quốc hội đối với Chính phủ và các thành viên trong Chính phủ. Để chất vấn và trả lời
chất vấn trở thành một phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao, thì tại kỳ họp, Quốc
hội phải xem xét việc trả lời chất vấn của những người thuộc đối tượng bị giám sát tối
cao. Thông qua việc xem xét này mà Quốc hội đánh giá năng lực, trình độ và trách nhiệm
của người trả lời chất vấn. Vì thế, có thể nói xem xét việc trả lời chất vấn chẳng những
góp phần nâng cao năng lực, trình độ và trách nhiệm của những người thuộc đối tượng
6
giám sát tối cao của Quốc hội mà còn là tiền đề, là căn cứ để các đại biểu Quốc hội thể
hiện các quyền khác như bỏ phiếu tín nhiệm, bầu cử, bãi nhiệm, miễn nhiệm. Kết quản
của các kỳ họp có thể được thể hiện bằng các nghị quyết.
Ủy ban thường vụ Quốc hội là tổ chức quan trọng nhất không những có nhiệm vụ
giúp Quốc hội, mà còn trực tiếp thực hiện quyền giám sát đối với quản lý nhà nước và
hiệu lực của quyền này được bảo đảm bằng nhiều quyền hạn cụ thể. Ủy ban thường vụ
Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, đình chỉ thi
hành các văn bản của Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và
trình Quốc hội quyết định việc bỏ các văn bản đó; hủy bỏ các văn bản của Chính phủ trái
với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Các ủy ban và Hội đồng dân tộc của Quốc hội giúp Quốc hội thực hiện quyền giám
sát đối với quản lý nhà nước và trên các kỳ họp báo cáo trước Quốc hội kết về quả hoạt
động giám sát của mình thể hiện bằng các báo cáo, thẩm tra, thuyết trình...
Các đoàn đại biểu và từng đại biểu không những có nhiệm vụ giúp Quốc hội giám
sát hoạt động của Chính phủ, mà còn có quyền trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ
quan và người có thẩm quyền trong quản lý nhà nước, có quyền yêu cầu các cơ quan và
người có thẩm quyền trong quản lý nhà nước tiếp và áp dụng các biện pháp để khắc phục
việc làm vi phạm pháp luật, vi phạm chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước.
Phương tiện giám sát quan trọng của đại biểu Quốc hội ngoài quyền chất vấn trên
các kỳ họp, còn được thực hiện thông qua tiếp xúc với cử tri, với công dân để nghe yêu
cầu, kiến nghị và khiếu nại, tố cáo của họ, hoặc tham dự các kỳ họp của HĐND nhân dân
các cấp (các Điều từ 51 đến 55 Luật tổ chức Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 12 năm
2002). Thông qua việc thực hiện giám sát, Quốc hội xây dựng những biện pháp và giải
pháp hữu hiệu để giải quyết những vấn đề được phát hiện từ việc thực hiện quyền giám
sát của mình. Chẳng hạn như việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức
vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn (khoản 7 Điều 84 Hiến pháp năm 1992).
Trong việc thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước,
Quốc hội thực hiện quyền này tập trung trước hết đối với hoạt động của cơ quan nhà
nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước tức là thực hiện quyền lực nhà nước về mặt tổ chức đối với bộ máy hành chính nhà
nước. Tính quyền lực trong hoạt động giám sát của Quốc hội đối với quản lý hành chính
nhà nước không chỉ thể hiện về mặt tổ chức mà còn thể hiện ở phạm vi giám sát (về
nguyên tắc bao gồm mọi vấn đề thuộc hoạt động quản lý không có loại trừ), ở quyền hạn
của Quốc hội bầu và bãi nhiệm các chức danh cao nhất trong bộ máy quản lý nhà nước và
ở cả quyền đình chỉ, hoặc bãi bỏ các quyết định của Chính phủ. Chỉ có Quốc hội mới có
quyền bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật và
nghị quyết của Quốc hội (quy định tại Khoản 9 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ
sung năm 2001; Khoản 9 Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001).
2.3.2. Hoạt động giám sát của HĐND các cấp.
Hội đồng nhân dân các cấp, xuất phát từ vai trò, vị trí của nó theo Hiến pháp năm
1992, thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của UBND, các cơ quan chuyên môn
của ủy ban nhân dân và các xí nghiệp, cơ quan, đơn vị trực thuộc mình cũng như trực
thuộc cấp trên đóng tại địa phương. Hoạt động giám sát của HĐND địa phương là chức
năng chủ yếu của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương được thực hiện trước hết trên
các kỳ họp. Kì họp là hình thức hoạt động quan trọng nhất của hội đồng nhân dân. Tại
7
đây, HĐND không chỉ quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương mà còn thực
hiện quyền giám sát đối với UBND, TAND, VKSND cùng cấp. Nếu hoạt động giám sát
của thường trực, các ban và đại biểu HĐND là thường xuyên thì giám sát tại kì họp là
hình thức giám sát theo định kì của HĐND. Nó mang tính tổng hợp, toàn diện đối với tất
cả các đối tượng thuộc phạm vi giám sát của HĐND. Mặt khác, hoạt động của thường
trực, các ban cũng như đại biểu HĐND nhằm chuẩn bị, phục vụ cho hoạt động giám sát
tại kì họp HĐND. Nếu những hoạt động này kém hiệu quả thì hoạt động giám sát của
HĐND tại kì họp cũng không thể có hiệu quả được. Tại kì họp, HĐND thực hiện quyền
giám sát của mình bằng các haotj động sau đây:
Thứ nhất, HĐND nghe và thảo luận các báo cáo, các đề án, các dự án của UBND,
TAND, VKSND cùng cấp. Để hoạt động này có hiệu quả, trước đó thường trực và các
ban của HĐND phải làm tốt công tác thẩm tra các báo cáo, các dự án, các đề án nói trên.
Thường trực HĐND phải phân công, đôn đốc các ban trong việc thẩm tra kĩ các báo cáo,
các dự án, các đề án trước khi trình ra kì họp HĐND. Các báo cáo thuyết trình, báo cáo
thẩm tra cần ngắn gọn, tập trung vào những ấn đề cốt lõi để giành thời gian cho việc thảo
luận và chất vấn của đại biểu mới có hiệu quả.
Thứ hai, HĐND thực hiện quyền giám sát bằng cách chất vấn và xem xét việc trả lời
chất vấn các đại biểu là lãnh đạo của ủy ban nhân dân (chủ tịch UBND, các thành viên
khác của UBND) cũng như các đại biểu là lãnh đạo cơ quan kiểm sát và xét xử ở địa
phương trên các kỳ họp, bằng hoạt động của các nhóm đại biểu trong khu vực bầu cử.
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, mặc dù như vậy nhưng hoạt
động của HĐND không bị bó hẹp ở phạm vi hoạt động của “cơ quan quyền lực nhà nước
ở địa phương” mà mang tính chất toàn diện của cơ quan chính quyền địa phương. Chính
vì vậy, hoạt động của HĐND đặt dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra của cơ quan nhà
nước cấp trên, trong đó có Chính phủ. Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn: “…hướng
dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên”
(khoản 1 Điều 112 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001). Nhiệm vụ của
HĐND do Hiến pháp và Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003
quy định. Vì thế hoạt động của HĐND không chỉ là nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp, luật,
pháp lệnh và các văn bản pháp luật của cấp trên mà còn phải chủ động cụ thể hóa những
quy định cho phù hợp với đặc điểm cụ thể ở địa phương mình. Vì lẽ đó mà Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND ra đời. Đây không chỉ là cơ sở pháp lý
quan trọng góp phần khẳng định quyền hạn của chính quyền địa phương mà văn bản pháp
luật này một lần nữa nhấn mạnh tính chủ động và yêu cầu HĐND phải chủ động tăng
cường quyền giám sát đối với mọi hoạt động thực thi pháp luật ở địa phương mình. Có
như vậy những quy định đó mới thực sự thúc đẩy sự năng động và sáng tạo của quần
chúng nhân dân lao động, mới đánh giá xác thực khả năng thực thi pháp luật ở địa
phương.
Ngoài ra, một hình thức cụ thể của hình thức giám sát quan trọng của HĐND là việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân (cử tri). Giải quyết khiếu nại, tố cáo của cử tri
kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật là nghĩa vụ của toàn thể đại biểu HĐND chứ không
phải riêng của bộ phận nào. Làm tốt việc này là một biểu hiện thiết thực nhất của việc xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của dân, do dân vì dân. Hoạt động này cũng chính là
dịp và điều kiện để HĐND hoàn thành nhiệm vụ của người đại biểu của dân mà cử tri và
nhân dân địa phương đã tín nhiệm giao cho họ.
8
Trong các hình thức giám sát chung của HĐND, thì đại biểu HĐND chú trọng các
hoạt động giám sát độc lập thông qua việc tiếp xúc với cử tri, theo dõi việc giải quyết đơn
thư khiếu nại, tố cáo của cử tri và giám sát qua những thông tin trên các phương tiện
thông tin đại chúng như báo hình, báo tiếng ở địa phương và qua các kênh thông tin khác
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đại biểu.
Tóm lại, hoạt động giám sát của HĐND góp phần tích cực vào việc phát hiện những
sai trái của cơ quan, tổ chức cơ sở trong việc chấp hành pháp luật, trên cơ sở đó kiến nghị
với cấp có thẩm quyền giải quyết, xử lí kịp thời những sai phạm đó; đôn đốc các cơ quan
tổ chức hữu quan, tổ chức hữu quan thực hiện nghị quyết của HĐND và của cấp trên cũng
như giải quyết các vấn đề bức xúc ở địa phương, bảo đảm thi hành có hiệu quả các quy
định của pháp luật và nghị quyết của HĐND địa phương.
III. Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước.
1. Đối với Quốc hội.
Cùng với sự đổi mới của đất nước, hoạt động của các cơ quan nhà nước ta nói chung
và của Quốc hội nói riêng đã và đang đạt hiệu quả trong thực tế. Tuy nhiên, trước đòi hỏi
của đất nước, yêu cầu của xã hội và để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu
quả hoạt động giám sát của Quốc hội là yêu cầu bức xúc, đòi hỏi các biện pháp khả thi
sau đây:
Một là: Phải nâng cao chất lượng các văn bản luật để pháp luật thực sự là phương
tiện quản lý đất nước, để người dân lao động làm chủ vận mệnh đất nước, phát huy trí tuệ
để xây dựng đất nước. Những quy định xa rời thực tế, chậm phát huy dân chủ, không theo
kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và cải cách hành chính cũng như cải cách tư pháp phải
huỷ bỏ và nhanh chóng được thay thế. Đặc biệt, phải tổ chức nghiên cứu lại những quy
định của Hiến pháp về các quy chế quyền hạn (trong đó có quyền giám sát) của Quốc hội,
từ đó bổ sung các quy định về phương thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội. Trên
cơ sở đó, chúng ta mới có cơ sở pháp lý đầy đủ để đổi mới tổ chức hoạt động giám sát của
Quốc hội.
Hai là: Phải hoàn thiện bộ máy hoạt động của Quốc hội, nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động đáp ứng yêu cầu của hoạt động giám sát, ở đây đòi hỏi tinh gọn bộ
máy nhưng đủ để hoàn thành nhiệm vụ với hiệu suất cao nhất. Muốn vậy, việc chuyển từ
chế độ làm việc kiêm nhiệm sang chế độ làm việc chuyên trách phải được tính toán kỹ
lưỡng, nhưng khẩn trương và mạnh dạn. Đồng thời, tăng thêm thẩm quyền cho các cơ
quan của Quốc hội trong việc thực thi quyền giám sát.
Hơn nữa, tinh gọn bộ máy phải kết hợp với việc xác định rõ ràng, chuẩn xác chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng Uỷ ban của Quốc hội và giới hạn cụ thể cũng như
tiêu chuẩn hoá trình độ và năng lực của đại biểu của các Uỷ ban trong Quốc hội.
Ba là: Mục tiêu giám sát và thời gian giám sát ở từng nơi, từng thời kỳ, từng địa
phương và cơ sở phải được xác định rõ ràng. Có thể tăng cường số lần họp trong một năm
của Quốc hội. Những kết quả của hoạt động giám sát phải công khai và được bảo đảm
thực hiện trong thực tế.
Bốn là: Tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn và kiến thức pháp luật,
kiến thức quản lý nhà nước cho các đại biểu Quốc hội để họ không chỉ là người vững
vàng về chính trị, chí công vô tư mà còn là những người có đủ trình độ để xây dựng luật
pháp, kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật pháp và quyết đáp những vấn đề quan trọng
của đất nước.
9
Năm là: Đổi mới chế độ và tạo điều kiện làm việc tốt hơn cho các đại biểu Quốc
hội để họ có điều kiện cần và đủ hoàn thành nhiệm vụ mà nhân dân giao phó, đưa ra
những ý kiến xác thực, những kiến nghị hợp pháp, hợp lý và kịp thời. Biện pháp này đòi
hỏi sự quan tâm của Nhà nước về vật chất và tiền lương phù hợp cho các đại biểu Quốc
hội - động lực tích cực thúc đẩy hoạt động có hiệu quả của các đại biểu.
Sáu là: Việc ban hành Luật giám sát của Quốc hội tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động
của Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hội chính là khẳng định Quốc
hội chúng ta là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân.
2. Đối với Hội đồng nhân dân.
Để bảo đảm việc giám sát của Hội đồng nhân dân có chất lượng, hiệu quả, thì cần
phải chú ý đến các vấn đề sau:
Thứ nhất: Nâng cao chất lượng thảo luận tại các phiên họp toàn thể.
Đây là hình thức không thể thiếu đối với mỗi kỳ họp Hội đồng nhân dân, vì Hội đồng
nhân dân làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Việc thảo luận các báo
cáo tại phiên họp toàn thể sẽ giúp cho các đại biểu Hội đồng nhân dân tập trung ý chí,
tranh luận và thảo luận các vấn đề, nhất là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, nghe
các cơ quan trả lời về các kiến nghị của cử tri. Trên cơ sở thông tin đã được phân tích, đại
biểu sẽ quyết định chính xác các vấn đề đặt ra.
Thứ hai: Tăng cường quyền chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân:
Tình hình chất vấn và việc trả lời chất vấn đã trở thành một hoạt động bình thường tại
kỳ họp Hội đồng nhân dân. Các ý kiến đặt ra phải trên cơ sở khảo sát thực tế, nguyện
vọng chính đáng của nhân dân hoặc dựa trên cơ sở khảo sát việc thực hiện Nghị quyết của
Hội đồng nhân dân. Để bảo đảm việc thực hiện chất vấn có hiệu quả, phải hạn chế những
chất vấn mang tính kiến nghị, thông tin và sự việc không rõ; những người bị chất vấn phải
trả lời rõ ràng, cụ thể, có tính thuyết phục, không vòng vo, né tránh các nội dung chất vấn,
không để vụ việc kéo dài mà phải có biện pháp khắc phục cụ thể.
Thứ ba: Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân
dân.
Hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân trong các nhiệm kỳ đã góp phần tích
cực vào việc thực hiện nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân và đóng góp tích cực đối với chất
lượng và hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân. Nhiều đề xuất và các giải pháp của
Thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban của Hội đồng đã tháo gỡ khó khăn cho Hội
đồng nhân dân.
Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, cần
phải coi công tác kiểm tra, giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban của
Hội đồng nhân dân là một việc làm thường xuyên. Thường trực Hội đồng nhân dân phải
chủ động, sáng tạo tìm ra biện pháp hợp lý để đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng nhân
dân. Cần phân công hợp lý cho các Ban trong công tác giám sát, trong việc tiếp công dân
nhằm đảm bảo cho pháp luật và nghị quyết của Hội đồng nhân dân được thực hiện
nghiêm chỉnh, góp phần tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc cho cơ sở, động
viên, khuyến khích cơ sở phát huy những mặt tốt, và chỉ ra được những sai sót cần kịp
thời sửa chữa. Từ đó mà tạo được mối quan hệ tốt và gắn bó giữa Hội đồng nhân dân và
các đơn vị được giám sát.
Thứ tư: Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các Ban của Hội đồng nhân
dân: Căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tại mỗi kỳ họp và chương trình công
10
tác của Hội đồng nhân dân giữa hai kỳ họp, Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban chủ
động xây dựng chương trình công tác, trong đó có kế hoạch giám sát, xác định nội dung
chi tiết nhằm vào các lĩnh vực, các ngành kinh tế, các vấn đề trọng điểm, vấn đề bức xúc,
thời gian giám sát... sau đó gửi chương trình giám sát đến các cơ quan, đơn vị được giám
sát và các cơ quan tham gia giám sát để chuẩn bị trước. Trong hoạt động giám sát, các ban
cần được sự tạo điều kiện về mọi mặt của Thường trực Hội đồng nhân dân, nhất là trong
việc điều hoà, phối hợp hoạt động giữa các Ban, phân công các Ban theo dõi kiểm tra,
giám sát đối với các vấn đề bức xúc diễn ra ở địa phương. Đồng thời, nên có sự phối hợp
giữa Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ
quốc và một số cơ quan hữu quan. Việc giám sát có thể yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá
nhân đến báo cáo, hoặc tổ chức Đoàn đi giám sát, khảo sát tình hình. Tuy nhiên, phải hết
sức tránh tổ chức Đoàn cồng kềnh, rườm rà, gây khó khăn cho các cơ quan, tổ chức được
giám sát. Khi tiến hành giám sát, tuỳ theo chuyên đề có thể giám sát tại cơ quan tổng hợp
trước, sau đó đi sâu từng đơn vị, từng địa phương cụ thể hoặc ngược lại. Qua giám sát,
các Ban góp ý, bổ sung thông tin cho các đơn vị được giám sát về các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Sau mỗi lần giám sát, các Ban phải có báo cáo, có kiến nghị
các giải pháp để thực hiện cho Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các
ngành liên quan, các đơn vị được giám sát tiếp thu, giải quyết. Hoạt động này là bảo đảm
hiệu lực hoạt động của Hội đồng nhân dân, tránh hình thức.
Thứ năm: Đại biểu Hội đồng nhân dân phải gắn bó với cử tri, vừa lắng nghe và
phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri, vừa giám sát, vừa tác động và đôn
đốc các cơ quan có thẩm quyền giải quyết thoả đáng các ý kiến, nguyện vọng của cử tri.
Hội đồng nhân dân phải có trách nhiệm nâng cao năng lực và trách nhiệm cho đại biểu
Hội đồng nhân dân như tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng, tạo điều kiện cho đại biểu
tham gia hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban của Hội
đồng nhân dân.
Thứ sáu: Tăng cuờng hơn nữa sự phối hợp hoạt động giữa Đoàn đại biểu Quốc hội
và các cơ quan, đoàn thể ở địa phương: Việc phối hợp với Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa
phuơng trong việc tham gia hoạt động giám sát, trong việc tiếp xúc với cử tri sẽ tạo điều
kiện cho các đại biểu Hội đồng nhân dân để trao đổi thông tin về kiến thức pháp luật, về
tình hình chấp hành pháp luật nói chung, cũng nhu trao đổi về kinh nghiệm trong hoạt
động nhằm góp phần nâng cao chất lượng giám sát của Hội đồng nhân dân.
Thứ bảy: Bảo đảm kinh phí và điều kiện vật chất khác cho hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân, của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân
và các đại biểu Hội đồng nhân dân.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay thì pháp chế là yêu cầu rất quan trọng
trong quản lý hành chính nhà nước. Theo đó để đảm bảo pháp chế trong quản lý hành
chính nhà nước thì cần tăng cường hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.
Trong thời gian tới, với việc đẩy mạnh cải cách hành chính sẽ nâng cao được hiệu quả
hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong
quản lí hành chính nhà nước. Nhưng để làm được điều này trước hết phải đổi mới về tính
chất và hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước đặc biệt trong hoạt động giám sát.
Trong đó, Quốc hội phải thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, phát huy được
vai trò giám sát tối cao của mình.
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2008;
2. Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb.
Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005;
3. Giáo trình luật hành chính và tài phán hành chính, Học viện hành chính quốc
gia, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005;
4. Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2009;
5. Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001);
6. Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003;
7. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003;
8. Quyền giám sát của hội đồng nhân dân và kỹ năng giám sát cơ bản, TS. Phạm
Ngọc Kỳ, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007.
9. Hoạt động giám sát của Quốc hội, Tạp chí Luật học số 1/2004, tr. 22.
10. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Tạp chí Luật học số 4/2004, tr.55.
12