Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư trên địa bàn tỉnh điện biên thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.09 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

THIỀU TẤT PHÚC

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LUẬT SƯ VÀ

HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐIỆN BIÊN – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

THIỀU TẤT PHÚC

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LUẬT SƯ VÀ
HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐIỆN BIÊN – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật hiến pháp và Luật hành chính


Mã số

: 8 38 01 02

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Mạnh Hùng

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Thiều Tất Phúc


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT SƯ HÀNH NGHỀ LUẬT
SƯ, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LUẬT SƯ HÀNH NGHỀ
LUẬT SƯ


7

1.1. Khái quát chung về luật sư và hành nghề luật sư

7

1.2. Khái quát chung về quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư

12

1.3.

Phân biệt quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư với hoạt
động tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư

22

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LUẬT SƯ VÀ
HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN

29

2.1. Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, dân số, kinh tế - xã hội và
hành nghề luật sư trên địa bàn tỉnh Điện Biên

29

2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư trên địa
bàn tỉnh Điện Biên


35

2.3. Đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật
sư trên địa bàn tỉnh Điện Biên

42

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LUẬT SƯ VÀ HÀNH NGHỀ
LUẬT SƯ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN

51

3.1. Phương hướng tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và
hành nghề luật sư

51

3.2. Giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và hành
nghề luật sư

58

KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HNLS

: Hành nghề luật sư

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước luôn là nhiệm vụ trung tâm trong
việc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong thời gian qua. Trong hơn 30 năm
thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về hoàn
thiện bộ máy nhà nước, không ngừng nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý của Nhà
nước, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) dưới sự lãnh đạo của Đảng là
nhiệm vụ chiến lược với phương châm Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức và mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành
Hiến pháp và pháp luật.
Cùng với việc cải cách bộ máy nhà nước và cải cách nền hành chính, Đảng

đã đề ra nhiều nghị quyết về cải cách tư pháp. Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ra
Nghị quyết số 49-NQ/TW về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020". Cải
cách tư pháp luôn được coi là một bộ phận quan trọng gắn liền với nhiệm vụ xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Mục tiêu của cải cách tư pháp là
xây dựng một hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh có phương thức tổ
chức, hoạt động khoa học, hiện đại góp phần quan trọng vào việc giữ gìn trật tự kỷ
cương phép nước. Nội dung chủ yếu của cải cách tư pháp là củng cố, kiện toàn bộ
máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm quyền của Tòa án, đổi mới tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và cơ quan, tổ
chức bổ trợ tư pháp, trong đó có tổ chức luật sư. Do đó, hoàn thiện thể chế luật sư
phải được đặt trong bối cảnh cải cách tư pháp nói riêng và trong tổng thể cải cách
bộ máy nhà nước nói chung.
Nghiên cứu các văn kiện của Đảng về cải cách tư pháp cho thấy, trong việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, Đảng ta rất chú trọng đến cải
cách tổ chức và hoạt động luật sư. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII đã nêu rõ: "Đổi mới quản lý nhà nước đối với các hoạt
động luật sư… phù hợp với chủ trương xã hội hóa, kết hợp quản lý nhà nước với vai


2
trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp. Đào tạo và phát triển đội ngũ luật sư có
phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phát huy vai trò của họ
trong tư vấn pháp luật và trong tố tụng".
Các văn kiện của Đảng ta, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra những định hướng rất quan trọng đối
với việc xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động luật sư cho phù hợp
với tình hình mới của đất nước trước xu hướng phát triển và hội nhập. Chỉ thị số
33-CT/TW ngày 30/3/2009 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với tổ chức hoạt động luật sư nêu rõ: Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước đối với tổ chức và hoạt động của luật sư; chú trọng công tác thanh tra, kiểm

tra để bảo đảm hoạt động của luật sư được thực hiện theo đúng đường lối, quan
điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh
các hành vi vi phạm pháp luật của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Đồng thời
phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trong việc
phát triển đội ngũ luật sư và nâng cao chất lượng của tổ chức và hoạt động luật sư.
Để đưa được các quan điểm chỉ đạo đó trở thành hiện thực đòi hỏi chúng ta
phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp cơ bản trong đó phải kể đến các biện pháp về
đổi mới nhận thức, đổi mới về công tác tổ chức, hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả hoạt động của luật sư. Việc thực hiện các biện pháp đó phải gắn liền với nhiệm vụ
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư (HNLS) phù
hợp với mục tiêu của cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam.
Nghề luật sư có nhiều đặc thù và được điều chỉnh bằng những quy định của
pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Ở các nước trên thế giới pháp luật đều
quy định về việc quản lý nhà nước và tự quản của tổ chức luật sư. Việc quản lý
nghề luật sư ở mỗi nước một khác và phụ thuộc vào tính truyền thống của từng
nước mà không theo một khuôn mẫu nhất định và vấn đề tự quản đối với nghề luật
sư đến đâu là do quy định của từng quốc gia.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tạo nền tảng


3
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để thực hiện được mục tiêu đó, việc nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước nói chung, quản lý nhà nước về luật sư và HNLS nói riêng là vô cùng quan
trọng, bảo đảm quản lý khoa học, hiệu quả các mặt đời sống kinh tế - xã hội, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, nhiều văn bản pháp luật về luật sư
được ban hành kịp thời và nhanh chóng triển khai trên thực tế. Hoạt động luật sư

trong cả nước nói chung cũng như trên địa bàn tỉnh Điện Biên nói riêng đã có
những chuyển biến mạnh mẽ, số lượng luật sư và tổ chức HNLS tăng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, việc tăng về số lượng luật sư và tổ chức HNLS cũng làm phát sinh
nhiều vấn đề đối với hoạt động quản lý nhà nước, đó là công tác tuyên truyền, phổ
biến về nội dung của pháp luật về luật sư, vị trí, vai trò tầm quan trọng của luật sư,
sự phối hợp giữa Sở Tư pháp với Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư trong việc quản lý
luật sư và HNLS, công tác thanh tra, kiểm tra về tình hình tổ chức, hoạt động của
luật sư... Cùng với chủ trương xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt
Nam XHCN, thì việc tăng cường quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động
luật sư là một yêu cầu cấp thiết.
Việc ban hành Luật Luật sư số 65/2006/QH11 ngày 29/6/2006

1

đã tạo

khung pháp lý quan trọng cho quản lý nhà nước về luật sư và HNLS. Luật đã quy
định rõ vai trò của Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp đối với công tác này, cụ thể là Bộ Tư
pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và
HNLS, còn Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh thực hiện quản lý
nhà nước về luật sư và HNLS tại địa phương. Bên cạnh những kết quả đạt được,
công tác quản lý nhà nước về luật sư và HNLS trên thực tiễn vẫn còn những vướng
mắc, khó khăn nhất định.
Thực tiễn quản lý nhà nước về luật sư và HNLS trên địa bàn tỉnh Điện Biên
những năm vừa qua đã có nhiều thành tựu, nhưng cũng đã bộc lộ nhiều khó khăn,
hạn chế cần được nghiên cứu, đánh giá cụ thể, đầy đủ để đề ra phương hướng, giải
pháp khắc phục và tiếp tục nâng cao hiệu quả.
1. Luật này đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 20/2012/QH13 ngày 20/11/2012.



4
Từ những lý do nêu trên mà việc chọn và nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ
luật học: "Quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư trên địa bàn tỉnh
Điện Biên - Thực trạng và giải pháp" là cần thiết để đáp ứng yêu cầu về lý luận và
thực tiễn được đặt ra ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Lĩnh vực luật sư nói chung, quản lý nhà nước về luật sư và HNLS nói riêng
đã được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu dưới góc độ lý luận cũng như thực
tiễn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này, trong đó có thể kể đến một
số công trình tiêu biểu, có giá trị tham khảo cho việc thực hiện đề tài "Quản lý nhà
nước về luật sư và hành nghề luật sư trên địa bàn tỉnh Điện Biên - Thực trạng và
giải pháp", như: Đề tài cấp bộ năm 2005: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam"
của Nguyễn Văn Thảo, Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm
Đề tài; Đề tài cấp bộ năm 2005: "Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, thực trạng nhu cầu
và định hướng phát triển" do TS. Nguyễn Văn Tuân làm chủ nhiệm đề tài; Đề tài
nhánh KX-04-06-05: "Cải cách tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" (thuộc Đề tài cấp nhà
nước KX-04-06 do TS. Uông Chu Lưu làm chủ nhiệm đề tài bảo vệ năm 2006) do
TS. Nguyễn Văn Tuân làm chủ nhiệm đề tài; Luận án tiến sĩ năm 2003 của Phan
Trung Hoài về "Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật trong điều kiện
mới ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ năm 2010 của Dương Đình khuyến về "Vấn đề
xã hội hóa hoạt động luật sư và tư vấn pháp luật"; cuốn sách "Một số vấn đề về luật
sư và nghề luật" của TS. Nguyễn Văn Tuân, xuất bản năm 2012... Bên cạnh đó, còn
có nhiều bài báo khoa học được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành luật như Tạp
chí Luật học, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, đề cập đến những khía cạnh chuyên sâu, cụ thể của quản lý
nhà nước về luật sư và HNLS.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập và giải quyết vấn đề luật sư và
HNLS ở nhiều góc độ khác nhau, có nhiều nội dung liên quan đến quản lý nhà nước

về luật sư và HNLS, song những nghiên cứu đó mới chỉ phân tích, đánh giá vấn đề


5
luật sư và HNLS ở một số phương diện nhất định, hoặc ở một góc nhìn khác, chưa
có công trình nào nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước về luật sư
và HNLS một cách đầy đủ, đặc biệt là đối với một địa bàn cụ thể như tỉnh Điện
Biên. Mặc dù vậy, các công trình trên vẫn là nguồn tài liệu quý giá, có ý nghĩa quan
trọng đối với việc nghiên cứu đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luâ ̣n văn góp phần làm rõ cơ sở lý luâ ̣n, đánh giá thực tiễn quản lý nhà
nước về luật sư và HNLS trên địa bàn tỉnh Điện Biên, trên cơ sở đó đưa ra những
phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiê ̣u quả quản lý nhà nước về luật sư và
HNLS ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Điện Biên nói riêng.
Phù hợp với mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ nhữ ng vấn đề về cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về luật sư
và HNLS;
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về luật sư và HNLS hiện
nay trên địa bàn tỉnh Điện Biên;
- Kiến nghị phương hướng, giải pháp nhằ m tăng cường quản lý nhà nước về
luật sư và HNLS trong thời gian tới trong phạm vi cả nước nói chung và ở tỉnh Điện
Biên nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm lý luận, chính trị; hệ
thống các quy định của pháp luật thực định, thực trạng quản lý nhà nước về luật sư
và HNLS ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Điện Biên nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn quản lý nhà nước về luật sư và HNLS từ khi ban hành Luật Luật sư
năm 2006 đến nay trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
5. Các phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luâ ̣n của chủ nghiã Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điể m của Đảng về nhà nước và pháp luật, đặc
biệt là chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, cải cách nền hành chính
quốc gia và cải cách tư pháp.


6

Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể để
thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, như phương pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống
hóa các quy định pháp luật; số liệu thực tiễn; Trên cơ sở đó, đối sánh với vấn đề
quản lý nhà nước về luật sư và HNLS trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh Điện Biên
nhằm đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện, kiến nghị tích cực, phù hợp
và có giá trị ứng dụng cao
6. Ý nghĩa khoa ho ̣c và thực tiễn của luâ ̣n văn
Là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện ở cả
phương diện lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước về luật sư và HNLS trên địa
bàn tỉnh Điện Biên; luận văn có một số đóng góp khoa học sau đây:
- Góp phầ n làm rõ hơn cơ sở lý luâ ̣n và thực tiễn quản lý nhà nước về luật sư
và HNLS trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyề n XHCN.
- Phân tích, đánh giá thực tra ̣ng quản lý nhà nước về luật sư và HNLS trên
địa bàn tỉnh Điện Biên. Rút ra những bài ho ̣c kinh nghiê ̣m để phát huy những mă ̣t
ma ̣nh, ha ̣n chế những tồ n ta ̣i nhằ m tăng cường hiệu quả công tác này trong thực tiễn.
- Kiến nghị phương hướng và những giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý
về luật sư và HNLS trên địa bàn tỉnh Điện Biên trong thời gian tới.
Ngoài ra, kế t quả nghiên cứu của luâ ̣n văn có thể làm tài liê ̣u tham khảo
trong nghiên cứu và giảng da ̣y ta ̣i các cơ sở đào ta ̣o cử nhân luâ ̣t, cử nhân hành
chin
́ h, các trường, trung tâm đào ta ̣o, bồ i dưỡng cán, bô ̣ công chức... và trong hoa ̣t
đô ̣ng thực tiễn quản lý nhà nước về luật sư và HNLS hiê ̣n nay.
7. Kết cấu của luâ ̣n văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nhận diện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư;
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư
trên địa bàn tỉnh Điện Biên;
Chương 3: Phương hướng, giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước
về luật sư và hành nghề luật sư trên địa bàn tỉnh Điện Biên.


7

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT SƯ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ,
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LUẬT SƯ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
1.1. Khái quát chung về luật sư và hành nghề luật sư
1.1.1. Khái niệm luật sư
Luật sư là chức danh nghề nghiệp của người được công nhận có đủ tiêu
chuẩn, điều kiện "hành nghề luật sư" theo quy định của pháp luật. Trong đó, "hành
nghề luật sư" là việc luật sư thực hiện những việc chuyên môn, nghiệp vụ trong
phạm vi chức danh nghề nghiệp của mình theo quy định của pháp luật. Bên cạnh
đó, nói đến "nghề luật sư" là nói đến một nghề trong xã hội, nghề của những người
được công nhận là luật sư. Nói đến nghề luật sư là nói đến cái chung, còn nói đến
luật sư là nói đến cái cụ thể, đến con người cụ thể. Tuy nhiên tùy thuộc vào pháp
luật truyền thống của từng nước mà khái niệm, tiêu chuẩn và điều kiện, phạm vi
HNLS được quy định khác nhau 2.
Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của cá
nhân luật sư. Nói cách khác, phẩm chất và năng lực cá nhân của luật sư là yếu tố
quyết định trong nghề luật sư. Nhìn chung, người muốn HNLS phải được công nhận
là luật sư. Pháp luật các nước trên thế giới thường không đưa ra khái niệm luật sư
mà chỉ quy định về tiêu chuẩn (qualification) để trở thành luật sư. Theo đó, tiêu

chuẩn phổ biến để được công nhận luật sư là:
- Là công dân của ở nước sở tại;
- Có bằng cử nhân luật;
- Có phẩm chất đạo đức tốt;
Ngoài các tiêu chuẩn trên, muốn trở thành luật sư phải qua đào tạo nghề,
tập sự HNLS hoặc chỉ cần đỗ kỳ thi quốc gia để được công nhận luật sư và điều đó
còn phụ vào quy định của pháp luật của mỗi nước 3.
2. Nguyễn Văn Tuân (2012), Một số vấn đề về luật sư và nghề luật sư, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 125-126.
3. Nguyễn Văn Tuân, tlđd, tr. 126.


8
Căn cứ vào pháp luật của các nước trên thế giới quy định về tiêu chuẩn luật
sư và quy trình trở thành luật sư, có thể phân được thành các nhóm sau:
Thứ nhất, qua một kỳ thi quốc gia mà không phải đào tạo nghề và tập sự
HNLS. Ví dụ như ở Hoa kỳ.
Thứ hai, phải qua đào tạo nghề, nhưng không phải qua tập sự HNLS. Ví dụ
như ở Nhật Bản.
Thứ ba, phải qua hai giai đoạn đào tạo nghề. Ví dụ như ở Anh.
Thứ tư, phải qua đào tạo nghề và tập sự HNLS. Ví dụ như ở Pháp.
Thứ năm, có thể lựa chọn giữa đào tạo nghề hoặc thực tập HNLS. Ví dụ
như ở bang Victoria - Australia.
Thứ sáu, phải qua một kỳ thi quốc gia công nhận đủ tiêu chuẩn luật sư và
tập sự HNLS. Ví dụ như ở Trung Quốc.
Thứ bảy, phải qua hai kỳ thi. Ví dụ như ở Cộng hòa Liên bang Đức.
Theo quy định pháp luật về luật sư của một số nước trên thế giới, có thể rút
ra một số nhận xét sau:
- Khái niệm luật sư được hiểu là người có đủ tiêu chuẩn luật sư và được cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận chức danh nghề nghiệp luật sư.
- Về tiêu chuẩn trở thành luật sư, pháp luật các nước rất chú trọng đến tiêu

chuẩn về trình độ. Tuy nhiên, việc xác định trình độ chuyên của một người muốn
trở thành luật sư thì được đánh giá bằng việc thi quốc gia hoặc thông qua khóa đào
tạo nghề. Về tập sự HNLS thì rất ít nước quy định hoặc quy định mang tính hình
thức, có nghĩa là sau kỳ tập sự không phải kiểm tra hoặc trong thời gian tập sự vẫn
được hành nghề như luật sư chính thức. Ngoài ra, còn cho phép người muốn trở
thành luật sư có quyền lựa chọn một trong các hình thức là qua đào tạo nghề hoặc
hoặc qua thực tập luật sư.
- Thẩm quyền công nhận luật sư có thể là Tòa án tối cao hay Bộ Tư pháp
hoặc chỉ cần đăng ký gia nhập một Đoàn luật sư thì trở thành luật sư 4.
Khái niệm luật sư luôn là vấn đề gặp nhiều khó khăn trong quá trình xây
dựng pháp luật về luật sư và HNLS. Tham khảo pháp luật về luật sư một số nước
4. Nguyễn Văn Tuân, tlđd, tr. 126.


9
cho thấy, không phải nước nào cũng đưa ra khái niệm hoặc định nghĩa về luật sư.
Khái niệm luật sư quy định không giống nhau giữa các nước trên thế giới. Hầu hết ở
các nước có nghề luật sư phát triển, việc đưa ra khái niệm hoặc định nghĩa về luật
sư chỉ mang tính quy ước, khái niệm luật sư thường mang tính hình thức hơn là khái
niệm về mặt nội dung.
Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 của nước ta đã chính thức hóa thuật
ngữ "luật sư". Tuy nhiên, Pháp lệnh chưa đưa ra được một khái niệm hay định nghĩa
hoàn chỉnh về luật sư. Theo quy định Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987, người
muốn trở thành luật sư phải gia nhập Đoàn luật sư. Thành viên của Đoàn luật sư là
các luật sư và luật sư tập sự. Một người muốn trở thành luật sư hoàn toàn do Hội
nghị toàn thể Đoàn luật sư quyết định.
Pháp lệnh luật sư năm 2001 được ban hành thay thế Pháp lệnh tổ chức luật
sư năm 1987. Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã định nghĩa: "Luật sư là người có đủ
điều kiện hành nghề theo quy định của Pháp lệnh này và tham gia hoạt động tố
tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá

nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp
luật" (khoản 1 Điều 1).
Kế thừa và phát triển những quy định nêu trên, Luật luật sư sửa đổi năm
2012 định nghĩa "Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy
định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức (sau đây gọi chung là khách hàng)" (Điều 2). Như vậy, khái niệm luật sư ở
nước ta được thể hiện theo hướng xác lập chức danh luật sư gắn với nghề luật sư và
điều kiện HNLS theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Khái niệm hành nghề luật sư
Trong ngôn ngữ Việt Nam, chúng ta thường gặp thuật ngữ "hành nghề luật
sư", "nghề luật sư". Thực ra như vậy không hoàn toàn chính xác về mặt ngôn ngữ,
bởi vì "luật sư" là danh từ chỉ người, chứ không phải chỉ nghề. Theo thói quen của
việc sử dụng ngôn ngữ Việt Nam trong văn nói cũng như văn viết thì thuật ngữ
"nghề luật sư" có thể chấp nhận được, cũng như thuật ngữ "nghề kiến trúc sư",
"nghề bác sĩ", "nghề giáo viên"… còn trong tiếng Anh có thể dịch "lawyer" là luật


10
sư và "paractice of law" là HNLS hoặc hành nghề luật. Tuy nhiên, thuật ngữ "nghề
luật" và "hành nghề luật" thì sẽ được hiểu rộng hơn "nghề luật sư" và "hành nghề
luật sư", bởi nghề thẩm phán, nghề công tố… cũng có thể được hiểu là nghề luật 5.
Pháp lệnh luật sư năm 2001 chính thức chấp nhận các cụm từ "nghề luật sư",
"nghề nghiệp luật sư" và "hành nghề luật sư". Theo quy định của Pháp lệnh này thì
"hành nghề luật sư" được hiểu là việc luật sư tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện
tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 1).
Luật luật sư sửa đổi năm 2012 đã khái quát, mở rộng hơn khái niệm "hành
nghề luật sư". Theo đó, HNLS là việc luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý bao gồm
tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và làm các
dịch vụ pháp lý (Điều 4).

"Hành nghề luật sư" theo quy định của Luật luật sư sửa đổi năm 2012 là
phải hành nghề chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn sâu về kiến thức pháp lý và
kỹ năng hành nghề. Việc HNLS chủ yếu bằng trình độ và kinh nghiệm chuyên môn
mà đối tượng phục vụ là khách hàng. Luật sư cung cấp "dịch vụ pháp lý" cho khách
hàng và nhận thù lao từ khách hàng.
Chức năng xã hội của luật sư là tham gia bảo vệ công lý, góp phần bảo đảm
công bằng xã hội, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ quyền, lợi
ích của hợp pháp của cá nhân, tổ chức thông qua việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp
luật, đại diện ngoài tố tụng, tư vấn pháp luật và thực hiện dịch vụ pháp lý khác. Các
nước trên thế giới và các nước trong khu vực đều có quan niệm chung là coi nghề
luật sư là một nghề đặc biệt so với các ngành nghề khác. Tính đặc thù của nghề luật
sư được thể hiện như sau:
Thứ nhất, nghề luật sư không lấy điểm xuất phát là vốn và cũng không dựa
vào vốn mà chủ yếu dựa vào kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề của luật sư.
Nghề luật sư gắn với pháp luật và việc thi hành pháp luật. Chính vì vậy luật sư
trước hết là một chuyên gia pháp luật, một cố vấn pháp luật. Theo đó, để có những
kỹ năng nghề nghiệp thực thụ, các luật sư cần có kiến thức pháp luật, thông thạo kỹ
5. Nguyễn Văn Tuân, tlđd, tr. 125.


11
năng nghề nghiệp để thực hiện tốt nhiệm vụ cung cấp dịch vụ pháp lý của mình.
Luật sư phải là người có bằng cử nhân luật, qua đào tạo nghề luật sư và tập sự
HNLS (Điều 10 Luật luật sư sửa đổi năm 2012).
Thứ hai, luật sư với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể pháp lý nên luật sư có nhiệm vụ đảm bảo sự công bằng, khách quan của
pháp luật. Thông qua việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và cung cấp các dịch
vụ pháp lý khác, luật sư góp phần trực tiếp vào việc thi hành pháp luật, đưa pháp
luật vào cuộc sống. Vì thế, các nước trên thế giới đều cho rằng nghề luật sư là một
nghề trong xã hội, là công cụ hữu hiệu góp phần bảo vệ công lý. Bằng hoạt động

nghề nghiệp của mình luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ
của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh (Điều 3 Luật luật sư sửa đổi năm 2012).
Thứ ba, nguyên tắc của nghề luật sư là phải độc lập, liêm chính, nhân đạo
và dũng cảm. Tính khách quan trong nghề luật sư được đề cao. Nghề luật sư là nghề
không chịu chi phối của quyền lực. Vì vậy, nghề luật sư rất chú trọng đến vai trò cá
nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư và tính chất của nghề tự do trong tổ chức
HNLS. Đây là yêu cầu cần thiết để luật sư có thể hoàn thành tốt trách nhiệm của
mình. Nguyên tắc HNLS được quy định tại Điều 5 Luật Luật sư sửa đổi năm 2012.
Thứ tư, nghề luật sư là một nghề tự do, các luật sư độc lập trong hành nghề,
tự chịu trách nhiệm về việc hành nghề của mình theo quy định của pháp luật. HNLS
không chỉ đòi hỏi về mặt chuyên môn, tuân thủ pháp luật mà còn phải chịu sự điều
chỉnh khắt khe bởi quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư do tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư ban hành, cụ thể là Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Luật sư được cung cấp các dịch vụ pháp lý nêu trên, tuy nhiên ngoài luật sư
còn có trợ giúp viên pháp lý được cung cấp dịch vụ pháp lý như luật sư nhưng
không được thu phí như luật sư và khi cung cấp dịch vụ pháp lý không với tư cách
luật sư mà với tư cách trợ giúp viên pháp lý. Hay nói cách khác trợ giúp pháp lý
không được HNLS. Ngoài ra, còn có tư vấn viên pháp luật được tư vấn pháp luật
theo quy định của Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/07/2008 của Chính phủ


12
về tư vấn pháp luật (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 05/2012/NĐ-CP
ngày 02/02/2012).
1.2. Khái quát chung về quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư
Khi bàn đến hoạt động quản lý và người quản lý cần khởi đầu từ khái niệm
"tổ chức". Do tính đa nghĩa của thuật ngữ này mà có thể xem xét thuật ngữ này ở
những phương diện khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt, "Tổ chức là tập hợp người

được tổ chức lại, hoạt động vì những quyền lợi chung, nhằm một mục đích chung" 6.
Nói cách khác, xét về hình thức, tổ chức được hiểu như là một nhóm có cấu trúc
nhất định những con người cùng hoạt động vì một mục đích chung nào đó mà để
đạt được mục đích gì đó một con người riêng lẻ không thể đạt đến. Bất luận một tổ
chức có mục đích gì, cơ cấu và quy mô ra sao đều cần phải có sự quản lý và có
người quản lý để tổ chức hoạt động và đạt được mục đích của mình. Nói cách khác,
xét về nội dung, "Tổ chức tức là phối hợp, liên kết hoạt động của nhiều người để
thực hiện mục tiêu đã đề ra, là yếu tố quyết định đem lại hiệu quả cho quản lý" 7.
Cốt lõi của khái niệm quản lý, đó là trả lời câu hỏi; Ai quản lý? (Chủ thể
quản lý); Quản lý ai? Quản lý cái gì? (Đối tượng quản lý); Quản lý như thế nào?
(Phương thức quản lý); Quản lý bằng cái gì? (Công cụ quản lý); quản lý để làm gì?
(Mục tiêu quản lý). Có thể nói quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học khác nhau, vì vậy, mà cũng có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý.
Trong đó, định nghĩa về quản lý theo Điều khiển học được thừa nhận là định nghĩa
bao quát nhất, cụ thể: "Quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá
trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ
thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được
những mục đích đã định trước"8.
Quản lý là hiện tượng tồn tại trong mọi chế độ xã hội. Bất kỳ ở đâu, lúc nào
con người có nhu cầu kết hợp với nhau để đạt mục đích chung đều xuất hiện quản
6. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 1007.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 11.
8. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tlđd, tr. 10.


13
lý. Quản lý trong xã hội nói chung là quá trình tổ chức điều hành các hoạt động
nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất định dựa trên những quy luật khách
quan. Xã hội càng phát triển, nhu cầu và chất lượng quản lý càng cao.

Các nhà kinh điển Mác - Lênin đưa ra quan điểm về quản lý lao động trong
quá trình sản xuất nhưng chúng ta có thể áp dụng trong bất kỳ hoạt động quản lý
chung nào của con người, theo đó "quản lý" được hiểu "là một chức năng đặc biệt
nảy sinh từ bản chất xã hội loài người". Mác cho rằng: "Quản lý là một chức năng
đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động và lao động giám sát và
quản lý cần thiết ở tất cả những nơi mà hoạt động sản xuất trực tiếp có hình thức
của một quá trình phối hợp mang tính xã hội chứ không phải là lao động riêng lẻ
của những người sản xuất độc lập"9. "Chúng ta có thể thấy ở đâu cứ có sự hợp tác
của nhiều con người ở đó có nhu cầu quản lý, quản lý sinh ra như một tất yếu xuất
phát từ đòi hỏi thực tiễn của xã hội"10.
Chủ thể quản lý xã hội là con người hoặc tổ chức của con người. Hoạt động
do họ điều hành đối với cá nhân, tổ chức khác là hoạt động quản lý xã hội. Suy cho
cùng đối tượng của quản lý xã hội là con người và tổ chức của con người (cá nhân,
tổ chức trong xã hội). Khách thể của quản lý xã hội, nói một cách ngắn gọn đó là
"trật tự xã hội" - trật tự quản lý do các quy phạm xã hội (quy phạm đạo đức, quy
phạm chính trị, quy phạm tôn giáo, quy phạm pháp luật, v.v...) quy định11. Bởi mục
đích cần đạt được của chủ thể quản lý xã hội là làm sao cho hành vi (hành động và
không hành động) của đối tượng quản lý phải thực hiện theo ý chí của chủ thể quản
lý. Mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý được thể hiện thông
qua mối quan hệ "quyền uy - phục tùng".
Từ khi xuất hiện nhà nước, "một lực lượng nảy sinh từ xã hội", một lực
lượng "tựa hồ như đứng trên xã hội" có nhiệm vụ làm giảm bớt, dịu bớt những xung
đột, điều hòa các lợi ích cá nhân và giữ cho sự xung đột đó nằm trong một trật tự
nhất định, thì phần quản lý xã hội quan trọng nhất do nhà nước đảm nhiệm. Đó
9. C. Mác (1960), Tư bản, Quyển I, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 29-30.
10. Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu (2009), Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Giao thông vận tải, Hà
Nội, tr. 22.
11. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tlđd, tr. 13.



14
chính là quản lý nhà nước. Quản lý phần công việc còn lại của xã hội ngoài nhà
nước vẫn được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác như các tổ chức chính trị, đảng
phái, gia đình… Khái niệm quản lý nhà nước chỉ xuất hiện và tồn tại cùng với sự ra
đời và tồn tại của nhà nước.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của cả
bộ máy nhà nước, là sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà nước trên các phương
diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách hiểu này, quản lý nhà nước là hoạt
động của cả ba hệ thống cơ quan nhà nước: cơ quan thực thi quyền lập pháp, cơ
quan thực thi quyền hành pháp, cơ quan thực thi quyền tư pháp. "Nói cách khác,
quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực nhà nước, chủ yếu
bằng pháp luật, tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội và
đối ngoại của nhà nước"12. Theo đó, quản lý nhà nước có các đặc điểm sau đây:
- Chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan, cán bộ, công chức trong bộ máy
nhà nước được trao quyền lực công gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp.
- Đối tượng quản lý nhà nước là tất cả các cá nhân, tổ chức sinh sống và
hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
- Quản lý nhà nước có tính toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao…
Mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và
phát triển bền vững trong xã hội.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước được hiểu chủ yếu là quá trình tổ chức,
điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người theo mục tiêu nhất định nhằm đạt được mục
tiêu theo yêu cầu của quản lý nhà nước. Nói cách khác, theo nghĩa này, quản lý nhà
nước được hiểu đồng nhất với "quản lý hành chính nhà nước" - "Một hình thức hoạt
động của nhà nước được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành
chính nhà nước, có nội dung là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết
của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp

12. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tlđd, tr. 13-14.


15
và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa - xã hội và hành chính chính trị. Nói cách khác quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành điều hành của nhà nước"13. Sở dĩ, có quan niệm quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp
như trên là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó, chủ yếu là do các văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành ở Việt Nam rất hiếm khi sử dụng thuật ngữ "quản lý
hành chính nhà nước" mà thay vào đó lại chủ yếu sử dụng thuật ngữ "quản lý nhà
nước" để biểu đạt cho chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của các cơ quan hành chính
nhà nước, cũng như cho việc thực thi quyền hành pháp.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nước là hoạt động mang quyền lực nhà nước (quyền
hành pháp). Các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nước thông qua phương
tiện nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng được sử dụng là
quyết định hành chính. Bằng việc ban hành quyết định hành chính, chủ thể quản lý
nhà nước thể hiện ý chí của mình dưới dạng các chủ trương, chính sách, pháp luật
nhằm tổ chức, chỉ đạo các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Thứ hai, quản lý nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi những chủ thể
được sử dụng quyền hành pháp. Theo cách hiểu phổ biến hiện nay thì quyền lực nhà
nước gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Theo đó, hoạt động
sử dụng quyền lập pháp là hoạt động lập pháp (xây dựng và ban hành văn bản luật);
hoạt động sử dụng quyền hành pháp là hoạt động quản lý nhà nước (hoạt động chấp
hành - điều hành của nhà nước); hoạt động sử dụng quyền tư pháp là hoạt động tư
pháp (điều tra, truy tố, xét xử). Trong đó, quyền hành pháp trước hết và chủ yếu
thuộc về các cơ quan hành chính nhà nước. Do đó, có thể nhận thấy chủ thể quản lý
hành chính nhà nước trước hết và chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước.
Tất nhiên, các cơ quan nhà nước nói chung cũng được sử dụng quyền hành
pháp, cũng là chủ thể quản lý hành chính nhà nước khi tiến hành các hoạt động nhằm
xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình, chẳng hạn ra
quyết định thành lập, chia tách, sát nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình; đề

bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc nội bộ, v.v...
13. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tlđd, tr. 14.


16
Thứ ba, quản lý nhà nước là hoạt động có tính thống nhất, được tổ chức
chặt chẽ. Để bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động hành pháp, bộ máy các cơ quan
hành chính nhà nước được tổ chức thành một khối thống nhất từ trung ương tới địa
phương, đứng đầu là chính phủ, nhờ đó các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo,
điều hành thống nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả nước, bảo đảm sự liên kết, phối
hợp nhịp nhàng giữa các địa phương, tạo ra sức mạnh tổng hợp, tránh được sự cục
bộ phân hóa giữa các địa phương hay vùng miền khác nhau. Tuy nhiên, do mỗi địa
phương đều có những nét đặc thù riêng về điều kiện kinh tế - xã hội, nên để có thể
phát huy tối đa những yếu tố của từng địa phương, tạo sự năng động sáng tạo trong
quản lý điều hành, bộ máy hành chính nhà nước còn được tổ chức theo hướng phân
cấp, trao quyền tự quyết, tạo sự chủ động sáng tạo cho chính quyền địa phương.
Thứ tư, quản lý nhà nước mang tính chấp hành và điều hành của nhà nước.
Tính chấp hành và điều hành của quản lý nhà nước thể hiện trong việc những hoạt
động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục đích thực hiện pháp
luật, cho dù đó là hoạt động chủ động sáng tạo của chủ thể quản lý thì cũng không
được vượt quá khuôn khổ pháp luật, điều hành cấp dưới, trực tiếp áp dụng pháp luật
hoặc tổ chức những hoạt động thực tiễn…, trên cơ sở quy định pháp luật nhằm hiện
thực hóa pháp luật.
Như vậy, thuật ngữ "quản lý nhà nước" có thể được hiểu theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp khác nhau. Tuy vậy, để phù hợp với mục đích và phạm vi nghiên cứu đề
tài mà Luận văn này thống nhất sử dụng thuật ngữ này theo nghĩa hẹp.
Từ các luận cứ đã nêu trên, có thể hiểu: Quản lý nhà nước về luật sư và
HNLS là một hình thức của quản lý nhà nước do các chủ thể được sử dụng quyền
hành pháp thực hiện, có nội dung là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị
quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước và tổ chức thực hiện pháp luật đối với

luật sư và HNLS.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư
Cũng giống như bất kỳ một hoạt động có mục đích nào, quản lý nhà nước
về luật sư và HNLS được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đó là
những tư tưởng chỉ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ


17
thể quản lý thực hiện có hiệu quả các công việc của mình khi được phân công. Các
nguyên tắc quản lý nhà nước về luật sư và HNLS được xác định là những tư tưởng
chỉ đạo bắt nguồn từ cơ sở của khoa học quản lý, từ bản chất của chế độ, được quy
định trong pháp luật. Các nguyên tắc trong quản lý nhà nước về luật sư và HNLS
được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật, thể hiện tính chất pháp lý của
nó tạo ra cơ sở để buộc các chủ thể phải tuân thủ một cách thống nhất và chính xác
trong hoạt động quản lý của mình.
Do quản lý nhà nước về luật sư và HNLS là một hình thức của quản lý nhà
nước, nên quản lý nhà nước về luật sư và HNLS cần phải tuân thủ tất cả các nguyên
tắc cơ bản của quản lý nhà nước nói chung, như: Nguyên tắc Đảng lãnh đạo;
Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý nhà nước; Nguyên
tắc tập trung dân chủ; Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc; Nguyên tắc pháp chế
XHCN; Nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa
phương; Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng và phối
hợp quản lý liên ngành14. Trong đó, do luật sư và HNLS là một lĩnh vực cụ thể của
quản lý nhà nước, Điện Biên là nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống,
nên hoạt động quản lý nhà nước về luật sư và HNLS trên địa bàn tỉnh Điện Biên cần
phải đặc biệt chú trọng đến việc phát huy vai trò quản lý của Sở Tư pháp tỉnh Điện
Biên và những chính sách, biện pháp ưu tiên cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Điện
Biên có cơ hội ngang bằng với các dân tộc khác trong việc trở thành luật sư và thụ
hưởng các dịch vụ HNLS. Bên cạnh đó, quản lý nhà nước về luật sư và HNLS còn
phải tuân thủ những nguyên tắc pháp lý đặc thù được quy định tại Điều 6 Luật luật

sư sửa đổi năm 2012, cụ thể:
Thứ nhất, quản lý luật sư và HNLS được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp
quản lý nhà nước với chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ
chức HNLS
Nguyên tắc này thể hiện tầm quan trọng trong việc quản lý nhà nước đối
với luật sư, đồng thời khẳng định vai trò tham gia quản lý luật sư của các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư và tổ chức HNLS; mối quan hệ, sự phối hợp của cơ
14. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tlđd, tr. 85-114.


18
quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư và tổ chức
HNLS. Tăng cường quản lý nhà nước đối với luật sư và phát huy tính tự quản của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư và tổ chức HNLS là đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Đảm bảo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về luật sư với phát huy vai trò
tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư và tổ chức HNLS có nghĩa là:
- Thể chế hóa đầy đủ, phân định rõ thẩm quyền quản lý nhà nước, nội dung
quản lý nhà nước, nội dung tự quản và sự phối hợp trong công tác quản lý luật sư
giữa nhà nước và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức HNLS.
- Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước và tổ chức xã hội nghề
nghiệp của luật sư, tổ chức HNLS trong việc quản lý luật sư. Đồng thời trong quá
trình thực hiện quy định của pháp luật về quản lý luật sư cũng được quán triệt và
triệt để nhằm phát huy hết hiệu lực, hiệu quả quản lý luật sư của nhà nước và tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức HNLS.
Thứ hai, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức HNLS thực hiện
quản lý luật sư và HNLS của tổ chức mình theo quy định của pháp luật, Điều lệ của
Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư
Việt Nam; Nhà nước thống nhất quản lý về luật sư và HNLS theo quy định của
pháp luật.

Theo nguyên tắc này, Nhà nước không chỉ thống nhất quản lý về luật sư và
HNLS trực tiếp đối với các cá nhân luật sư mà còn được thực hiện thông qua việc
quản lý đối với các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức HNLS. Theo
đó, các tổ chức này được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật và chịu
sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc làm này là cần thiết
nhưng không được can thiệp vào quyền tự chủ và công việc nội bộ của tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức HNLS.
Theo quy định của Luật luật sư sửa đổi năm 2012, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư được thành lập để đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
luật sư, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ luật sư, giám sát việc tuân theo pháp luật,
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, thực hiện quản lý HNLS


19
theo quy định của pháp luật. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư là Đoàn luật
sư ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Tổ
chức HNLS gồm văn phòng luật sư và công ty luật. Ngoài việc tuân thủ các quy
định của pháp luật về doanh nghiệp, văn phòng luật sư và công ty luật còn phải tuân
thủ các quy định có liên quan của pháp luật về luật sư và HNLS.
Để phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và HNLS cần
vận dụng một cách phù hợp, sáng tạo các nguyên tắc quản lý nêu trên trong từng
giai đoạn phát triển của nghề luật sư. Nhà nước không thể áp dụng một cách máy
móc các nguyên tắc quản lý, đề cao nguyên tắc chung coi nhẹ nguyên tắc riêng,
nguyên tắc đặc thù hay ngược lại.
1.2.3. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề
luật sư
Muốn tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động luật sư nhằm củng cố
vai trò của luật sư đối với đời sống kinh tế - xã hội, cần thiết phải xác định những
nội dung cụ thể của hoạt động quản lý nhà nước về luật sư và HNLS.
Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về luật sư và HNLS, một trong

những vấn đề quan trọng là phải xác định rõ những nội dung mà nhà nước cần thực
hiện. Thông lệ chung trên thế giới, nội dung quản lý nhà nước về luật sư và HNLS
thường tập trung vào những vấn đề như xây dựng chiến lược và chính sách phát
triển nghề luật sư, ban hành hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật về
luật sư và HNLS, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
pháp về luật sư và HNLS.
Tuy nhiên, những nội dung quản lý nhà nước được quy định phải tương ứng
với sự phát triển của luật sư và nghề luật sư, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của mỗi nước.
Theo quy định của Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987, quản lý nhà nước
về luật sư được giao cho Bộ Tư Pháp, Hội đồng nhân dân, UBND. Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc cấp tỉnh và Giám đốc Sở Tư pháp (trong phạm vi một số việc được Bộ
trưởng Bộ Tư pháp ủy quyền). Pháp lệnh này còn quy định chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn của Đoàn luật sư trong việc quản lý luật sư. Nhưng những quy định này


20
còn chung chung, chưa có sự phân cấp rõ ràng. Việc quản lý nhà nước về luật sư
còn thiếu chặt chẽ, nội dung, phương thức quản lý còn chưa thực sự phù hợp.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta có sự chuyển biến to
lớn về mọi mặt trong đời sống xã hội. Trong tình hình đó, nhiều quy định của Pháp
lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 không còn phù hợp với thực tiễn, làm cho hoạt động
luật sư không đáp ứng nhu cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng cao của xã hội. Trong đó
phải kể đến các quy định về điều kiện và thủ tục công nhận luật sư, hình thức hành
nghề, đặc biệt là vấn đề quản lý luật sư và HNLS.
Pháp lệnh Luật sư năm 2001 được ban hành thay thế Pháp lệnh Tổ chức
luật sư năm 1987, cùng với việc nâng cao vai trò tự quản của tổ chức luật sư,
khuyến khích phát triển nghề luật sư ở Việt Nam và tăng cường sự quản lý của nhà
nước đối với luật sư và HNLS. Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã quy định rõ hơn nội
dung quản lý, thẩm quyền quản lý và phân định rõ hơn quản lý nhà nước với tự
quản của các Đoàn luật sư và phát huy vai trò tự quản của các Đoàn luật sư. Pháp

lệnh luật sư năm 2001 đã thể hiện theo hướng vừa bảo đảm sự quản lý của Nhà
nước đối với tổ chức luật sư và HNLS, vừa phát huy tính tự quản, tự chịu trách
nhiệm của các Đoàn luật sư.
Tuy nhiên Pháp lệnh Luật sư chưa làm rõ mối quan hệ giữa quản lý nhà
nước với tự quản của Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Từ đó dẫn đến công
tác quản lý còn chung chung, có nơi có lúc cơ quan nhà nước làm thay công việc
của Đoàn luật sư, can thiệp vào hoạt động nghề nghiệp luật sư. Ngược lại có tình
trạng phó thác cho Đoàn luật sư, buông lỏng quản lý đối với luật sư và HNLS.
Một trong những quan điểm chỉ đạo, định hướng xây dựng Luật Luật sư
năm 2006 là "Phân định rõ và hợp lý giữa công tác quản lý nhà nước về luật sư và
chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư theo hướng Nhà nước
chỉ làm những gì thuộc về chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, tổ chức xã hội nghề nghiệp phát huy vai trò tự quản đối với luật sư và tổ chức hành nghề luật sư".
Nếu như Pháp lệnh Luật sư năm 2001 chỉ có một chương (Chương VI) quy
định về "Quản lý nhà nước về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư" thì nay, Luật
Luật sư sửa đổi năm 2012 đã dành Chương VII quy định về "Quản lý hành nghề


×