BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TÀO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------
NÔNG THỊ NGA
KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC
SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2018
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TÀO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------
NÔNG THỊ NGA
KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC
SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380103
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ
HÀ NỘI – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Lời đầu tiên của Luận văn, học viên xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô đang
công tác và giảng dạy tại trường Đại học Luật Hà Nội nói chung và các thầy cô
công tác tại Khoa Đào tạo sau đại học và Khoa Pháp luật Dân sự nói riêng đã quan
tâm, tạo điều kiện cho học viên trong suốt quá trình học tập và thực hiện Luận văn
này. Đặc biệt, học viên xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS.TS Nguyễn Thị
Thu Hà - Giảng viên Khoa Pháp luật Dân sự, đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ học
viên hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Mặc dù nhận được nhiều sự giúp đỡ về chuyên môn, song học viên - với tư
cách là tác giả của Luận văn này, cam đoan danh dự và hoàn toàn chịu trách nhiệm
cá nhân về nội dung của Luận văn./.
Lạng Sơn, tháng 8 năm 2018
Học viên
Nông Thị Nga
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
HĐXX
Hội đồng xét xử
LTCVKSND
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
PLTTGQCVADS Pháp lệnh thủ tuc giải quyết các vụ án dân sự
TTDS
Tố tụng dân sự
TAND
Tòa án nhân dân
VADS
Vụ án dân sự
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT VỤ
ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC SƠ THẨM ............................................................7
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC SƠ THẨM .....................................................7
1.1.1. Khái niệm kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm....................7
1.1.2. Đặc điểm kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm ...................10
1.1.3. Ý nghĩa của kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm ...............14
1.2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ KIỂM SÁT GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC SƠ THẨM ....................................15
1.2.1. Các quy định của pháp luật hiện hành về kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc giải quyết vụ án dân sự của Tòa án ..........................................................16
1.2.2. Các quy định của pháp luật hiện hành về kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của người tham gia tố tụng và những người có liên quan .........................................22
1.2.3. Các quy định của pháp luật hiện hành về sự tham gia phiên tòa giải quyết vụ
án theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát ................................................................23
1.2.4. Các quy định của pháp luật hiện hành về thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị,
kháng nghị của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ
thẩm ...........................................................................................................................29
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................34
Chƣơng 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TTDS VIỆT NAM VỀ KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO
THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
LẠNG SƠN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ...............................................................35
2.1. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ VỀ SỰ THAM GIA CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ LẠNG SƠN ................................35
2.1.1. Những kết quả đạt được ..................................................................................35
2.1.2. Những hạn chế, tồn tại, khó khăn vướng mắc ................................................57
2.1.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ........................................................61
2.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VỀ KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC SƠ THẨM
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI THÀNH PHỐ LẠNG SƠN .........................67
2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về kiểm sát giải quyết vụ án
dân sự theo thủ tục sơ thẩm .......................................................................................67
2.2.2. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo
thủ tục sơ thẩm tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn .............................69
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Điều 4 Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân (LTCVKSND) năm 2014 quy định chức năng kiểm sát hoạt động
tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Trong đó, lĩnh vực kiểm sát giải
quyết vụ việc dân sự đóng vai trò quan trọng, để kiểm sát tính hợp pháp của các
hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong giải quyết vụ việc dân sự.
Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội thông qua ngày 31 tháng 12 năm 1959
lần đầu tiên quy định về chế định VKSND, theo đó LTCVKSND năm 1960 quy
định “VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của các TAND và
trong việc chấp hành các bản án” (Điều 3). Tiếp sau đó Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự năm 1989 (PLTTGQCVADS) đã quy định VKSND kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTDS. Theo đó, VKS có quyền khởi tố, kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, tham gia các phiên tòa khi VKS khởi
tố, kháng nghị hoặc khi xét thấy cần thiết. Sau nhiều năm thi hành
PLTTGQCVADS, VKSND đã thực hiện được chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhằm đảm bảo sự tuân theo
pháp luật trong việc giải quyết các VADS, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, lợi ích của nhà nước. BLTTDS năm 2004 ra đời đã hạn chế chức năng
nhiệm vụ của VKSND trong giải quyết các VADS, tuy nhiên, quá trình thi hành cho
thấy, BLTTDS năm 2004 đã bộc lộ những vướng mắc, bất cập, chưa tạo điều kiện
cho VKSND thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ theo quy định tại Hiến pháp và
LTCVKSND. Thực tiễn xét xử trong những năm qua, nhiều VADS được giải quyết
không tuân thủ đúng quy định của pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
mà VKS không kịp thời phát hiện dẫn đến bản án bị hủy, sửa ở cấp phúc thẩm.
Thông báo Kết luận của Bộ Chính trị số 230-TB/TW ngày 26/3/2009 về sơ kết 3
năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đánh giá “Tiến độ giải quyết các vụ việc còn chậm, chất lượng
xét xử các VADS còn thấp,… trong đó có nguyên nhân là chưa có cơ chế giám sát,
kiểm sát có hiệu quả việc giải quyết các VADS”.
Để khắc phục những vướng mắc, bất cập nêu trên của BLTTDS năm 2004,
đảm bảo phù hợp với thực trạng hoạt động giải quyết các VADS, đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp theo các Nghị quyết của Đảng, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XII
2
đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS ngày 29/3/2011 (sau
đây gọi tắt là BLTTDS sửa đổi, bổ sung) và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2012. Điều 21 khoản 2 BLTTDS sửa đổi, bổ sung quy định: “VKSND tham
gia … các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập
chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử
dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất, tâm thần”. Khoản 1 Điều 21 cũng khẳng định: “VKSND
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến
nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ
việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật”. Điều 45 BLTTDS quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của Kiểm sát viên. Theo đó, Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa
xét xử các VADS có quyền phát biểu quan điểm của VKS về giải quyết VADS. Khi
đề cập đến việc giải quyết các VADS, cần phải xem xét cả việc tuân theo pháp luật
tố tụng và pháp luật nội dung được áp dụng để giải quyết vụ án. Có nghĩa là, Kiểm
sát viên có quyền phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và pháp luật
nội dung. Tuy nhiên, Điều 234 khoản 1 BLTTDS sửa đổi, bổ sung quy định: “…,
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án của Thẩm phán, HĐXX; Việc chấp hành pháp luật của người tham
gia TTDS, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án…”. Theo
tinh thần của điều luật này thì Kiểm sát viên không có quyền phát biểu ý kiến về
việc tuân theo pháp luật nội dung nên chưa đảm bảo cho việc giải quyết về nội dung
các VADS được tuân thủ đúng quy định của pháp luật, dẫn đến việc bản án bị cấp
trên hủy, sửa, vì vậy, vai trò của VKS trong giải quyết các VADS chưa đạt được
hiệu quả tương xứng với vị trí của mình. BLTTDS năm 2015 được Quốc hội XIII
thông qua tại kỳ họp thứ 10 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2016 (trừ các quy định cụ
thể hóa các quy định mới có liên quan của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì có hiệu lực
từ ngày 01/01/2017), tại khoản 2 Điều 21 quy định: “Viện kiểm sát tham gia các
phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án
do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công,
lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này”. Theo quy định này phạm vi những vụ án thuộc
trường hợp VKS tham gia phiên tòa được mở rộng hơn, đồng thời về việc phát biểu
3
quan điểm của VKS tại phiên tòa sơ thẩm cũng có sự đổi mới so với BLTTDS sửa
đổi, bổ sung năm 2011. Theo đó, Điều 262 BLTTDS năm 2015 quy định: “Sau khi
những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên
phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến
về việc giải quyết vụ án.
Để thực hiện các quy định mới của BLTTDS năm 2015, VKSND thành phố
Lạng Sơn đã có nhiều nỗ lực, tuy nhiên trong việc giải quyết các VADS còn gặp
những tồn tại, hạn chế. Do đó, học viên lựa chọn đề tài “Kiểm sát giải quyết VADS
theo thủ tục sơ thẩm và thực tiễn tại VKSND thành phố Lạng Sơn” làm đề tài
nghiên cứu nhằm góp phần tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng, vai trò của
VKSND trong TTDS nói chung và trong việc giải quyết các VADS nói riêng, đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có rất nhiều công trình khoa học đề cập đến chức năng kiểm sát
giải quyết các VADS của VKSND, cụ thể:
* Các công trình được nghiên cứu trước khi ban hành LTCVKSND năm 2014
và BLTTDS năm 2015:
- Giáo trình các trường đại học như Giáo trình Luật TTDS, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2011; Giáo trình Luật TTDS, Học viện tư
pháp, Nxb CAND, Hà Nội năm 2007. Tuy nhiên, các giáo trình này đều được viết
theo BLTTDS năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm
2011.
- Các bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành Luật như bài biết “Về
quyền kháng nghị theo thủ tục phẩm dân sự của VKS” của tác giả Nguyễn Thị Thu
Hà đăng trên Tạp chí luật học số 11/2009; “Vai trò của VKSND trong TTDS” của
tác giả Phan Vũ Ngọc Quang đăng trên Tạp chí kiểm sát, tháng 4/2005; “Những khó
khăn, vướng mắc, bất cập khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong TTDS”
của tác giả Kiều Trang đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 22 tháng 11/2009; “Nhận thức
đầy đủ và thực hiện đúng quyền và trách nhiệm của VKS trong công tác kháng nghị
phúc thẩm dân sự” của tác giả Võ Huy Triết đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 5 tháng
3/2009; “Mâu thuẫn trong một số quy định của BLTTDS về việc VKSND tham gia
tố tụng và một số kiến nghị” của tác giả Nguyễn Quang Lộc đăng trên Tạp chí
4
TAND, số 12 tháng 6/2013. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu của các tác giả
còn giới hạn ở một số khía cạnh của chức năng kiểm sát trong TTDS của VKS,
chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về vai trò của VKS trong giải quyết
các VADS. Hơn nữa, các công trình này đều nghiên cứu về chức năng kiểm sát giải
quyết các VADS của VKS trong TTDS theo quy định của BLTTDS năm 2004 và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011.
* Các công trình được nghiên cứu sau khi ban hành LTCVKSND năm 2014 và
BLTTDS năm 2015:
Sau khi LTCVKSND năm 2014, BLTTDS năm 2015 ban hành thì cũng có
một số công trình đề cập đến sự tham gia của VKS trong TTDS như:
- Cuốn “Bình luận khoa học BLTTDS năm 2015”do TS. Bùi Thị Huyền chủ
biên năm 2016 và cuốn “Bình luận khoa học BLTTDS của Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2015” do PGS.TS Trần Anh Tuấn làm chủ biên năm 2017.
Hai cuốn sách chủ yếu phân tích về những điểm mới của BLTTDS năm 2015 đồng
thời có phân tích, đánh giá những quy định mới về chức năng kiểm sát giải quyết
VADS theo thủ tục sơ thẩm của VKS trong TTDS. Tuy nhiên, những bình luận,
đánh giá này mang tính chất gợi mở và chưa hệ thống về chức năng này của VKS
trong TTDS.
- Bài viết “Những sửa đổi, bổ sung về kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm trong BLTTDS năm 2015”; “Những sửa đổi, bổ sung các quy định về xét
xử phúc thẩm trong BLTTDS năm 2015” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà được đăng
trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2016, tạp chí Luật học số 7/2016 phân tích,
đánh giá những quy định mới của BLTTDS 2015 về kháng cáo, kháng nghị và về
xét xử phúc thẩm, tuy nhiên, bài viết chỉ thể hiện được một phần về sự tham gia của
VKS trong TTDS (ở cấp xét xử phúc thẩm).
Như vậy, có thể khẳng định, từ khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực đến nay
vai trò của VKS trong TTDS nhận được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu nhưng các
công trình này thường chỉ xem xét ở một khía cạnh về quyền hạn, nhiệm vụ và trách
nhiệm của VKS mà chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn
diện về chức năng kiểm sát giải quyết các VADS theo thủ tục sơ thẩm của VKSND
dưới cả góc độ lý luận, luật thực định và thực tiễn thực hiện tại thành phố Lạng Sơn.
Hy vọng những nghiên cứu của học viên sẽ góp phần vào kho tàng lý luận và có ý
nghĩa thực tiễn nhất định nhằm nâng cao vai trò của Ngành Kiểm sát nhân dân nói
chung và của VKSND thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn nói riêng trong TTDS.
5
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động kiểm sát giải quyết
VADS ở giai đoạn sơ thẩm của VKSND;
- Làm rõ những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật TTDS Việt
Nam hiện hành về thực hiện hoạt động kiểm sát giải quyết VADS theo thủ tục sơ
thẩm của VKSND và những vướng mắc trong thực tiễn giải quyết VADS sơ thẩm
tại Tòa án trên địa bàn thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn;
- Tìm ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả trong thực hiện chức
năng kiểm sát giải quyết VADS ở giai đoạn sơ thẩm của VKSND nói chung và tại
thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động
kiểm sát giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm; những quy định của pháp luật
TTDS và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTDS về công tác kiểm sát
giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm của VKSND trên địa bàn thành phố Lạng
Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chỉ đề cập đến Kiểm sát giải quyết VADS sơ thẩm theo thủ tục tố
tụng thông thường, luận văn không nghiên cứu về kiểm sát giải quyết VADS theo
thủ tục TTDS rút gọn, thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm cũng như kiểm
sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong TTDS.
- Kiểm sát giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm có thể được nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả
chủ yếu nghiên cứu kiểm sát giải quyết VADS theo thủ tục dưới góc độ hoạt động.
- Luận văn tập trung nghiên cứu công tác kiểm sát giải quyết các VADS theo
thủ tục sơ thẩm theo quy định của BLTTDS năm 2015 và thực tiễn kiểm sát giải
quyết VADS tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn trong khoảng thời gian từ năm
2015 đến nay.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu khoa học
Để hoàn thành luận văn này, học viên sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
khác nhau, trong đó đặc biệt coi trọng các phương pháp sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của triết học Mác - Lê Nin
về nhà nước và pháp quyền; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật;
6
- Phương pháp phân tích quy phạm được sử dụng khi đánh giá chuyên sâu
những quy định của pháp luật TTDS về chức năng kiểm sát giải quyết VADS ở
giai đoạn sơ thẩm;
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát chung về những vướng
mắc từ thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật TTDS về chức năng kiểm sát
giải quyết VADS ở giai đoạn sơ thẩm của VKSND;
- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử hình
thành và phát triển các quy định pháp luật TTDS về chức năng kiểm sát giải quyết
VADS ở giai đoạn sơ thẩm của VKSND;
- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn của
công tác kiểm sát giải quyết VADS sơ thẩm trên địa bàn thành phố Lạng Sơn, tỉnh
Lạng Sơn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu công phu, có tính hệ thống những vấn đề
liên quan đến chức năng kiểm sát giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm của
VKSND, thể hiện ở các nội dung cơ bản sau đây:
- Luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về hoạt động kiểm sát giải quyết
VADS theo thủ tục sơ thẩm, góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, chức
năng của VKS trong TTDS.
- Phân tích các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về hoạt động kiểm sát
giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm, chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, nguyên
nhân của những hạn chế, vướng mắc, từ đó đưa ra kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao
hiệu quả trong thực hiện kiểm sát giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm trên địa
bàn thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
- Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho các công trình
nghiên cứu tiếp theo về các vấn đề có liên quan.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có kết cấu 2 chương, gồm:
- Chương 1: Những vấn đề chung về kiểm sát giải quyết VADS theo thủ tục sơ
thẩm;
- Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật TTDS Việt Nam về kiểm sát giải
quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm tại VKSND thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn
và một số kiến nghị.
7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC SƠ THẨM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC SƠ THẨM
1.1.1. Khái niệm kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm
Trong TTDS, nếu như vị trí, vai trò của Tòa án và các bên đương sự được xác
định một cách rõ ràng thì vị trí, vai trò của Viện công tố không hoàn toàn giống
nhau giữa các quốc gia trên thế giới. Sở dĩ có sự khác nhau này là do quan niệm về
quyền lực Nhà nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, truyền
thống văn hóa, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội ở các quốc gia khác
nhau, dẫn đến có những quy định khác nhau về vị trí, vai trò và chức năng của Viện
công tố, đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự. Trong tố tụng hình sự, Viện công tố giữ
quyền công tố có vai trò nhân danh quyền lực Nhà nước để truy tố và buộc tội kẻ
thực hiện hành vi phạm tội trước Tòa án. Trong TTDS, do bị chi phối bởi nguyên
tắc quyền tự định đoạt của đương sự nên vai trò của Viện công tố trong TTDS bị
hạn chế hơn so với tố tụng hình sự, không những thế vị trí, vai trò của Viện công tố
trong TTDS của các nước còn được quy định khác nhau. “Ở các nước theo truyền
thống luật án lệ Anh, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ... do tranh chấp, mâu thuẫn dân sự
là của các đương sự, nên các chủ thể không có lợi ích thì không được quyền kiện
dân sự hay kháng cáo. Thậm chí, các nước này còn cho rằng trong quan hệ dân sự,
kinh tế, lao động càng ít sự can thiệp của công quyền càng tốt”.1Do đó, trong TTDS
ở các nước theo truyền thống luật án lệ, Viện công tố hầu như không tham gia trong
quá trình giải quyết các VADS mà chủ yếu giữ quyền công tố trong các vụ án hình
sự. “Ở các nước theo truyền thống luật dân sự (như Cộng hòa Pháp, Cộng hòa liên
bang Nga, Nhật Bản…) với mục đích là để đại diện cho lợi ích chung và bảo vệ trật
tự công nên VKS có thể tham gia tố tụng với tư cách là một bên đương sự hoặc với
tư cách là người giám sát”.2 Dù Viện công tố tham gia với tư cách là một bên
đương sự hay với tư cách là người giám sát thì cũng đều xuất phát từ việc bảo vệ lợi
ích Nhà nước, lợi ích công cộng, bảo đảm công bằng xã hội và sự tuân thủ pháp
luật. Trong các trường hợp này Viện công tố không có lợi ích liên quan đến vụ án
1
2
Nguyễn Thị Thu Hà (2011), Phúc thẩm trong TTDS Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Hà Nội, tr. 31.
Nguyễn Thị Thu Hà (2011),Tlđd, tr. 31.
8
và kể cả trong trường hợp tham gia tố tụng với tư cách là một bên đương sự thì
Viện công tố cũng vì lợi ích chung của xã hội, lợi ích của những người không có
khả năng tự thực hiện quyền dân sự hoặc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Tại Việt Nam, tổ chức Bộ máy Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên
nguyên tắc quyền lực Nhà nước thống nhất, tập trung vào Quốc hội, có sự phân
công, phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ, Toà án và VKS để mỗi cơ quan có
hiệu lực chức năng, nhiệm vụ của mình, với sự phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ, tạo
nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực Nhà nước.
Một trong những dấu mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi về vị ví, vai trò,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND chính là sự ra đời của Hiến pháp năm 1959, theo
đó, VKSND được quy định thành một cơ quan tách khỏi hệ thống Toà án. Sự tham
gia của VKSND trong bộ máy Nhà nước góp phần bảo vệ chế độ xã hội, chống mọi
sự vi phạm đến quyền lợi dân chủ nhân dân; Tăng cường đấu tranh chống bọn phản
cách mạng; Nâng cao chất lượng các khâu công tác kiểm sát, xây dựng từng bước
ngạch Kiểm sát viên, tăng cường đào tạo cán bộ, cải tiến lề lối làm việc. Bước vào
hoạt động, VKSND thực hiện 3 chức năng: Công tác kiểm sát chung; Công tác kiểm
sát hình sự; Công tác kiểm sát dân sự.
Đến Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung thì VKSND là một hệ
thống cơ quan có vị trí độc lập trong bộ máy nhà nước, được tổ chức thành một hệ
thống từ trung ương xuống địa phương (cấp huyện), có chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Theo Điều 20 LTCVKSND năm 2002,
VKSND là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực TTDS.
Đến Hiến pháp năm 2013 và LTCVKSND năm 2014 thì VKS tiếp tục thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS và có nhiệm vụ bảo
vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất.
Như vậy, so với Viện công tố các nước, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS
trong TTDS ở Việt Nam được quy định rộng hơn nhiều, VKS Việt Nam còn được
trao thêm một số quyền mà Viện công tố các nước không có như: Quyền kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của TAND và những người tham gia tố tụng, quyền kháng
nghị tất cả các bản án, quyết định dân sự của Toà án theo thủ tục phúc thẩm, giám
9
đốc thẩm hoặc tái thẩm…
Với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTDS thì VKS có thẩm quyền khởi tố VADS hay không?
Nếu trước khi BLTTDS năm 2004 ra đời thì VKSND có quyền khởi tố VADS
nhưng khi BLTTDS năm 2015 ra đời, chức năng này đã bị bãi bỏ. Bởi vì, thứ nhất,
để bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên trong quan hệ dân sự; thứ hai, nếu quy
định thẩm quyền khởi tố VADS của VKS thì VKS phải là một bên đương sự, như
vậy sẽ làm mất đi sự bình đẳng giữa các bên trong TTDS vì VKS còn là cơ quan
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS. Đối với những trường hợp không có
khả năng tự bảo vệ khi quyền dân sự bị vi phạm thì nên giao cho các tổ chức xã hội
khởi kiện thay3. Vì vậy, theo quy định của BLTTDS năm 2004, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều BLTTDS năm 2011 và BLTTDS năm 2015, VKS là cơ quan tiến
hành tố tụng, thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS.
Theo đó, VKS có thẩm quyền kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; kiểm
sát việc thụ lý, giải quyết vụ án; thu thập tài liệu, chứng cứ trong trường hợp pháp
luật quy định; tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan điểm của VKSND về
việc giải quyết vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật; kiểm sát bản án, quyết
định của Tòa án; kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu,
kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố
tụng vi phạm pháp luật; kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi
phạm pháp luật; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt
động tố tụng…
Việc loại bỏ thẩm quyền khởi tố của VKS đã làm thay đổi vị trí, vai trò của
VKSND khi tham gia giải quyết các vụ việc dân sự, trước đây, VKSND có thể tham
gia TTDS với hai tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng (Kiểm sát viên là người tiến
hành tố tụng) và người tham gia tố tụng (với tư cách là người khởi tố), mặc dù khi
tham gia phiên tòa, vai trò này của Kiểm sát viên không được tách bạch một cách rõ
ràng, nhưng nó khá giống với vị trí, vai trò của Viện công tố một số nước phát triển
trên thế giới, tuy nhiên, việc xóa bỏ thẩm quyền khởi tố của VKSND trong TTDS
đã loại bỏ luôn cả vai trò người tham gia TTDS của VKS. Hiện nay, Điều 46 của
BLTTDS năm 2015 quy định VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng. Được coi là cơ
quan tiến hành tố tụng, song các quyền và nghĩa vụ của VKSND chủ yếu để thực
3
Trần Văn Trung (2004), “Thẩm quyền khởi tố các VADS của VKSND”, Tạp chí Luật học - Đặc san góp ý
Dự thảo BLTTDS.
10
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ
việc dân sự tại Toà án, nhằm đảm bảo tính hợp pháp và có căn cứ trong hoạt động
xét xử của Toà án.
Với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng, VKS thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong TTDS để đảm bảo sự tuân thủ đúng pháp luật của
Tòa án và những người tham gia tố tụng, qua đó đảm bảo pháp chế XHCN, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ công lý.
Qua việc phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về kiểm sát giải quyết VADS
theo thủ tục sơ thẩm như sau: Là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp
của các hành vi, quyết định TTDS của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trong việc giải quyết VADS theo thủ tục sơ
thẩm nhằm bảo đảm việc giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm được thực hiện
đúng quy định của pháp luật cũng như bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
1.1.2. Đặc điểm kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm
Kiểm sát giải quyết VADS thuộc về chức năng của VKS:
Hiến pháp năm 2013 quy định VKSND có chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp. LTCVKSND cụ thể hóa chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp của VKSND là hoạt động kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi,
quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, trong đó có việc
giải quyết VADS của Tòa án, nhằm bảo đảm việc giải quyết VADS được thực hiện
đúng quy định của pháp luật4
Lịch sử Hiến pháp các thời kỳ cũng đã khẳng định, chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp là của VKSND, cụ thể: Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa I (từ ngày
16/4/1958 đến ngày 29/4/1958) Quốc hội đã quyết định Viện công tố Trung ương
trực thuộc Chính phủ được thành lập trên cơ sở tách bộ phận công tố trực thuộc ra
khỏi Tòa án. Tuy nhiên ngay cả trong mô hình này thì Viện công tố cũng đã có
những nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp như giám sát việc chấp hành pháp luật
việc xét xử của Tòa án, giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các
bản án dân sự và tham gia tố tụng những VADS. Như vậy, ngay từ lúc mới hình
thành, Cơ quan công tố đã thể hiện rõ xu hướng độc lập cả về tổ chức lẫn thẩm
quyền hoạt động, chức năng không chỉ giới hạn ở thực hành quyền công tố mà còn
4
Xem Điều 107Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 LTCVKSND năm 2014.
11
giám sát hoạt động điều tra, giám sát đối với các hoạt động tư pháp và tham gia hoạt
động TTDS, kháng nghị bản án dân sự. Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp đầu tiên
trong lịch sử lập hiến của nước ta ghi nhận sự ra đời của một loại hình cơ quan nhà
nước mới trong bộ máy nhà nước, đó là cơ quan Viện kiểm sát. Sự ra đời của mô
hình Viện kiểm sát thay thế cho mô hình Viện công tố ở nước ta gắn liền với yêu
cầu của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất, điều kiện nền tảng cho việc xây
dựng nhà nước kiểu mới. Đến Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến
pháp năm 2013 tuy có những bổ sung, thay đổi về tổ chức, hoạt động của Viện kiểm
sát nhưng chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp vẫn luôn được giao cho Viện
kiểm sát, trong đó bao gồm chức năng kiểm sát giải quyết các VADS của Tòa án.
- Kiểm sát giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm nhằm mục đích bảo đảm cho
việc chấp hành pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 LTCVKSND năm 20145đã khẳng
định: "VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất”. Trong TTDS, VKSND thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
pháp luật thông qua việc kiểm sát hoạt động tư pháp. Thực chất chức năng kiểm sát
các hoạt động tư pháp của VKSND là bảo đảm cho việc giải quyết VADS được
thực hiện đúng quy định của pháp luật; bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh; bảo đảm mọi vi phạm pháp luật trong
hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
Vì vậy, quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, VKS có thẩm
quyền kiểm sát các hoạt động tố tụng của Tòa án như kiểm sát việc trả lại đơn khởi
kiện, thụ lý VADS, kiểm sát bản án, quyết định và các văn bản tố tụng khác có liên
quan đến việc giải quyết VADS của Tòa án; kiểm sát việc tống đạt các văn bản tố
tụng... và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật
TCVKSND và BLTTDS.
- Kiểm sát giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm để bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng.
Mặc dù chức năng, vị trí, vai trò của VKSND có thể có sự thay đổi qua các
giai đoạn để phù hợp với tình hình phát triển chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước
nhưng dù là thời kỳ nào thì cũng nhằm mục đích bảo vệ quyền con người, quyền
5
Xem Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 LTCVKSND năm 2014
12
công dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích của những người yếu
thế trong xã hội như: người chưa thành niên, người mất hoặc hạn chế năng lực hành
vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi… cũng là nhiệm
vụ và mục đích hướng đến của VKSND.
Trong TTDS, với tư cách người tiến hành tố tụng thì VKSND thực hiện chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết VADS kể từ khi
Tòa án thụ lý vụ án đến khi Tòa án ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
- VKS thực hiện chức năng Kiểm sát giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm
phải tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Trước hết, TTDS là một ngành luật hình thức và chức năng chủ yếu của VKS
trong TTDS chính là kiểm sát việc tuân thủ các trình tự, thủ tục mà pháp luật quy
định đối với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Do đó, để đảm bảo
hoạt động của VKS có hiệu quả, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ thì cần được tiến
hành theo những quy định về trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Đồng thời, là
một cơ quan Nhà nước với chức năng đặc thù, VKS phải tiến hành và tuân thủ
những quy định về trình tự, thủ tục một cách nghiêm ngặt để bảo vệ trật tự chung
của bộ máy nhà nước.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động giải quyết VADS tại phiên toà,
trong phạm vi quyền hạn của mình Kiểm sát viên phải tiến hành theo trình tự, thủ
tục mà pháp luật TTDS quy định như thứ tự hỏi tại phiên tòa, phạm vi phát biểu ý
kiến, thời hạn và cách thức để thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị…
Ngoài ra, kiểm sát giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm có đặc điểm riêng
sau:
- VKS thực hiện chức năng kiểm sát giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm
thông qua nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng VKS cùng cấp với
Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Kiểm sát viên và Kiểm tra viên
VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình
giải quyết VADS. Theo đó, VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và
kiểm sát việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng. Tuy nhiên,
hoạt động kiểm sát này thực hiện thông qua những con người cụ thể đó là, Viện
trưởng VKS, Kiểm sát viên và Kiểm tra viên.
Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm,
Viện trưởng VKS cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm là người tổ chức và chỉ
đạo thực hiện công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự (kiểm sát việc tuân
13
theo pháp luật trong TTDS); quyết định phân công Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát
việc tuân theo pháp luật; quyết định thay đổi Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án; yêu cầu, kiến
nghị; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.
Về quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của VKS “ở các nước theo
truyền thống luật dân sự, nhìn chung Viện công tố có quyền kháng cáo phúc thẩm
trong các vụ án liên quan đến lợi ích công cộng, bảo vệ quyền lợi của những người
không có khả năng tự thực hiện quyền dân sự hoặc không có khả năng tự bảo vệ
mình như người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần,
người bị Tòa án tuyên bố mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự…”.6 Ở Việt Nam,
mặc dù hiện nay không có bất kỳ một sự hạn chế nào đối với việc kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm của VKS. Tuy nhiên, cần phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa việc
VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và việc tôn trọng quyền tự
định đoạt của đương sự. Bởi vì, việc quy định quyền kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm của VKSND là cần thiết để bảo đảm pháp luật TTDS được thực hiện nghiêm
chỉnh và thống nhất. Hơn nữa, trong một số trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm
sau khi tuyên xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của các đương sự mà họ
không có khả năng tự thực hiện quyền dân sự hoặc không có khả năng tự bảo vệ
mình hoặc xâm phạm đến quyền lợi của người thứ ba không được triệu tập với tư
cách là đương sự ở Tòa án cấp sơ thẩm hoặc vụ án chưa có điều luật để áp dụng thì
VKS cần thiết phải kháng nghị. Còn các trường hợp khác thì cần tôn trọng quyền tự
định đoạt của đương sự. Do đó, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng cần phải
hạn chế quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS.7
Đối với Kiểm sát viên khi được phân công kiểm sát giải quyết VADS theo thủ
tục sơ thẩm thì Kiểm sát viên sẽ kiểm sát các hoạt động tố tụng của Tòa án khi giải
quyết VADS như kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện; kiểm sát việc thụ lý VADS;
nghiên cứu hồ sơ, yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ phục vụ cho việc
giải quyết vụ án trong quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án; thu thập tài liệu,
chứng cứ; tham gia phiên tòa và phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết
VADS; kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng theo quy
định của pháp luật; đề nghị Viện trưởng VSK kháng nghị bản án, quyết định của
6
Nguyễn Thị Thu Hà (2011), Phúc thẩm trong TTDS Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, tr. 60.
Nguyễn Thị Thu Hà (Chủ nhiệm đề tài) (2017), Cơ chế đảm bảo quyền con người, quyền cơ bản của công
dân trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp và thi hành Hiến pháp năm 2013, Đề tài cấp trường,
Đại học Luật Hà Nội, tr.51.
7
14
Tòa án có vi phạm pháp luật; kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án. Ngoài ra,
Kiểm sát viên kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi
phạm pháp luật.
- Kiểm sát giải quyết VADS tại phiên tòa sơ thẩm được thực hiện trong một số
trường nhất định
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS theo quy định tại Điều 21 BLTTDS
năm 2015, Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giải quyết VADS sơ thẩm đối với một
số trường hợp: Vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ, đối tượng tranh chấp
trong VADS là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở; vụ án có
đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi và các vụ án Tòa án thụ lý mà chưa có điều luật để áp dụng. Với quy định này thì
phần lớn các VADS Tòa án đưa ra xét xử đều thuộc trường hợp VKS tham gia
phiên tòa, vì chỉ cần Thẩm phán có hoạt động lấy lời khai đương sự, người làm
chứng trong vụ án đã là thu thập chứng cứ.8
Tuy nhiên, đối với việc tham gia phiên tòa sơ thẩm và phát biểu ý kiến của
VKS về việc giải quyết VADS thì có quan điểm cho rằng, việc VKS được tham gia
các phiên tòa sơ thẩm và phát biểu về việc tuân theo pháp luật cũng chưa hợp lý, ít
nhiều ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án. Qua thực tiễn thực hiện
công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án thấy VKS tham gia phiên
tòa là để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, nhằm đảm bảo cho pháp
luật TTDS được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất. Hơn nữa việc đề xuất phát
biểu quan điểm giải quyết vụ án chỉ là một trong những đề nghị để HĐXX xem xét,
không ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án.
1.1.3. Ý nghĩa của kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm
- Khi kiểm sát giải quyết VADS, VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS của VKS chính là
hoạt động giám sát, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ đối với hành vi của các
chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng, đối với văn bản áp dụng pháp luật giải
8
Xem Điều 97 BLTTDS năm 2015.
15
quyết VADS của Tòa án; đồng thời, đó là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước.
Vì vậy, pháp luật quy định VKS có quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân chấm dứt vi phạm, nhằm đảm bảo cho hành vi của các chủ
thể tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng và việc áp dụng pháp luật phải đúng quy
định. Thông qua đó, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất.
- VKS là một thiết chế quan trọng để thực hiện cơ chế kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. VKS thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp để bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; kiềm chế, kiểm sát sự lạm dụng quyền
lực của các cơ quan được nhà nước giao thực hiện các hoạt động tư pháp.
Quyền tư pháp là một dạng quyền lực nhà nước, được khẳng định trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, khi quyền lực nhà nước phân chia thành ba
quyền độc lập với nhau, bổ trợ cho nhau và kiểm soát lẫn nhau. Đó là các quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Mặc dù pháp luật Việt Nam không thừa
nhận và không tổ chức Nhà nước theo nguyên lý tam quyền phân lập, nhưng có thể
nói pháp luật Việt Nam đã có sự tiếp thu nhiều yếu tố hợp lý của thuyết tam quyền.
Đó là coi trọng tính độc lập của hoạt động tư pháp, xác định Toà án là trung tâm của
hệ thống tư pháp cùng với phương hướng tăng cường kiểm soát quyền lực nói
chung và kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nói riêng.
“Trong TTDS, Tòa án là chủ thể đại diện cho Nhà nước, được Nhà nước trao
cho quyền lực để giải quyết các VVDS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước. Do đó, toàn bộ
hoạt động thụ lí VVDS, lập hồ sơ, hòa giải, thu thập, xác minh chứng cứ, nghiên
cứu hồ sơ và tổ chức các phiên tòa, phiên họp giải quyết VVDS đều do Tòa án thực
hiện. Điều này rất dễ và hoàn toàn có khả năng dẫn đến tình trạng Tòa án (cụ thể
là những người tiến hành tố tụng) lạm dụng quyền lực trong khi giải quyết các
VVDS”9. Do đó, VKS với chức năng kiểm sát tố tụng tư pháp, tức là không chỉ kiểm
sát quá trình xét xử mà còn kiểm sát quá trình thụ lý, lập hồ sơ giải quyết VADS
của Tòa án và các chủ thể có liên quan trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
1.2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ KIỂM SÁT
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC SƠ THẨM
9
Nguyễn Công Bình, Nguyễn Thị Thu Hà (2017), “Những nguyên tắc cơ bản của luật TTDS”, Bình luận
khoa học BLTTDS sửa đổi, Nxb Lao động-xã hội, tr.22.
16
1.2.1. Các quy định của pháp luật hiện hành về kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự của Tòa án
1.2.1.1. Về kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự
BLTTDS quy định kiểm sát việc thụ lý vụ án hoặc không thụ lý vụ án (trả lại
đơn khởi kiện) là hoạt động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đầu tiên của VKSND
khi kiểm sát việc giải quyết VADS.10 Quy định này được khẳng định trong
LTCVKSND năm 2014.11 Thực hiện công tác kiểm sát này VKS chỉ tập trung vào
kiểm sát sự tuân theo pháp luật của TAND và Thẩm phán được phân công thụ lý
giải quyết vụ án trên cơ sở Thông báo thụ lý hoặc Thông báo trả lại đơn khởi kiện
của Tòa án. Mặc dù hoạt động này chưa thể hiện rõ vai trò của VKS, nhưng là một
hoạt động quan trọng nhằm bảo đảm cho việc thụ lý hoặc không thụ lý VADS của
Tòa án được chính xác ngay từ giai đoạn đầu của quá trình giải quyết vụ án. Tạo ra
mối quan hệ chặt chẽ giữa VKS và Tòa án cùng cấp; Là tiền đề để Kiểm sát viên
xác định quan hệ tranh chấp dân sự, chủ động trong các hoạt động thực hiện chức
năng, quyền hạn tiếp theo của VKS khi kiểm sát việc giải quyết VADS. Đảm bảo
việc giải quyết vụ án của Tòa án tuân thủ đúng thời hạn tố tụng được quy định tại
Điều 203 BLTTDS 2015. Qua đó, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên đương sự.
- Hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện:
Trường hợp Tòa án không chấp nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện thì
Tòa án trả lại đơn khởi kiện. Tuy nhiên, Tòa án phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại
đơn khởi kiện và gửi cho VKS cùng cấp12. Quy định này đã loại trừ sự tùy tiện của
Tòa án trong việc trả lại đơn khởi kiện, làm ảnh hưởng quyền khởi kiện của đương
sự.
Để đảm bảo việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án là chính xác thì BLTTDS
năm 2015 quy định, VKS có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.13
Theo đó, VKS thực hiện quyền kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện trong thời
hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện. Đây là quy định
có sửa đổi so với BLTTDS năm 2011 thay cho việc quy định thời hạn 03 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện.14 Quy định mới đảm bảo
về thời hạn để VKS thu thập các tài liệu, chứng cứ đảm bảo cho việc kiến nghị. Tuy
10
Xem Điều 58 BLTTDS năm 2015.
Xem Điều 27 LTCVKSND 2014.
12
Xem Điều 192 BLTTDS năm 2015.
13
Xem Điều 194 BLTTDS năm 2015.
14
Xem Điều 170 Bộ luật tố tụng năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011.
11
17
nhiên, vì quy định thời hạn thực hiện quyền kiến nghị của VKS đã bỏ từ “ngày làm
việc” nên nếu Tòa án gửi văn bản trả lại đơn khởi kiện cho VKS vào trước những
ngày nghỉ Tết nguyên đán (do thời gian nghỉ Tết nguyên đán thường kéo dài từ 7- 9
ngày) nên việc thực hiện chức năng, quyền hạn của VKS về nội dung này lại là điều
bất cập.
- Hoạt động kiểm sát việc thụ lý VADS:
Theo quy định tại Điều 196 BLTTDS 2015 thì trong thời hạn ba ngày làm
việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho VKS
cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án. Văn bản thông báo phải có các nội dung
chính quy định tại Khoản 2 Điều 196 BLTTDS. Nội dung kiểm sát thông báo thụ lý
VADS của VKS cụ thể như sau:
+ Kiểm sát về thẩm quyền thụ lý vụ án của Tòa án, nhằm đảm bảo việc thụ lý
giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, kịp thời phát hiện và có yêu cầu khắc phục,
chấm dứt vi phạm về thụ lý vụ án sai thẩm quyền. Tạo tiền đề cho việc giải quyết
vụ án đúng quy định của pháp luật.
Đối với VADS đã được thụ lý không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
đã thụ lý, thì Tòa án đã thụ lý ra quyết định chuyển hồ sơ VADS cho Toà án có
thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 41 BLTTDS, đồng thời quyết định này
phải được gửi ngay cho VKS cùng cấp.
+ Kiểm sát về trình tự, thủ tục thụ lý vụ án được thực hiện theo quy định tại
Điều 195 BLTTDS 2015.
1.2.1.2. Về kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án dân sự
Lập hồ sơ VADS là việc Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc tiếp
nhận các tài liệu, chứng cứ của đương sự, người tham gia tố tụng khác; tài liệu,
chứng cứ do Tòa án thu thập liên quan đến vụ án; văn bản tố tụng của Tòa án, VKS
về việc giải quyết VADS.15 Kiểm sát việc lập hồ sơ VADS là một trong những hoạt
động thực hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết các VADS của VKS, nhằm đảm
bảo cho việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án được khách quan, đầy
đủ, đúng pháp luật, có đủ cơ sở pháp lý để Tòa án đưa ra bản án, quyết định đúng
đắn.
Khi nhận được hồ sơ vụ án do Tòa án chuyển đến, Kiểm tra viên, Kiểm sát
viên được phân công kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với vụ án có trách nhiệm
nghiên cứu hồ sơ theo quy định tại Điều 59, khoản 3 Điều 58 BLTTDS năm 2015.
15
Xem Điều 204 BLTTDS 2015.
18
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng
của Thẩm phán; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ
lý đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu hồ
sơ, Kiểm sát viên nắm chắc nội dung vụ án để chuẩn bị các tài liệu, gồm: Báo cáo
án, trong đó, Kiểm sát viên đề xuất về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong
thời gian chuẩn bị xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng và
đề xuất cả về hướng giải quyết vụ án; Chuẩn bị đề cương hỏi, dự kiến các tình
huống phát sinh tại phiên tòa và phương án xử lý tình huống; dự thảo phát biểu của
Kiểm sát viên tại phiên tòa. Theo đó, Kiểm sát viên tập trung nghiên cứu, kiểm sát
toàn diện cả về thủ tục tố tụng giải quyết vụ án và nội dung của các tài liệu, chứng
cứ khác có trong hồ sơ. Cụ thể:
- Xác định yêu cầu của đương sự hay nói cách khác là xác định phạm vi giải
quyết của vụ án để yêu cầu và thu thập chứng cứ, chứng minh yêu cầu của đương
sự. Bởi, BLTTDS quy định Tòa án chỉ giải quyết vụ án trong phạm vi đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu của đương sự.16 Những vấn đề mà đương sự không yêu cầu thì
Tòa án không giải quyết. Qua đó, xác định chính xác về quan hệ tranh chấp và xác
định đúng tư cách đương sự, mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng.17
Để xác định quan hệ tranh chấp, Kiểm sát viên nghiên cứu, xem xét nội dung
đơn khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo do nguyên đơn cung cấp, xem xét
nguyên đơn khởi kiện yêu cầu vấn đề gì; quan hệ pháp luật từ đó phát sinh tranh
chấp là quan hệ gì; loại tranh chấp nguyên đơn khởi kiện tương ứng với khoản, điều
nào thuộc một trong các điều 26, 28, 30 và 32 của BLTTDS năm 2015.
- Xác minh, thu thập chứng cứ: Chứng cứ là phương tiện của việc chứng minh,
của việc xác định các sự kiện có ý nghĩa với quá trình giải quyết vụ án. Kiểm sát
viên nghiên cứu, kiểm tra tính xác thực của chứng cứ, đánh giá chứng cứ đầy đủ và
toàn diện, xác định sự phù hợp để tìm ra hướng giải quyết tranh chấp.
Điều 93 BLTTDS năm 2015 quy định: “Chứng cứ trong VADS là những gì có
thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa
án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do
Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết
khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là
có căn cứ và hợp pháp”.
16
Xem Điều 5 BLTTDS năm 2015.
Xem Điều 68 BLTTDS năm 2015.
17
19
Theo quy định của BLTTDS, khi nghiên cứu hồ sơ nếu thấy hồ sơ chưa đủ
chứng cứ để bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ án thì VKS có quyền yêu cầu Tòa án
xác minh, thu thập chứng cứ.18 Tuy nhiên, thời hạn nghiên cứu hồ sơ của VKS chỉ
có 15 ngày nên việc thực hiện quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ
vụ án còn hạn chế. Vì vậy, trong trường hợp chứng cứ có thể bổ sung tại phiên tòa
qua lời khai của các đương sự, Kiểm sát viên tập hợp những tình tiết của vụ án chưa
đủ chứng cứ, tài liệu chứng minh, làm rõ (nếu có) để đưa vào phương án hỏi đương
sự, người tham gia tố tụng khác hoặc Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân
theo pháp luật trong việc thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ của Thẩm phán,
HĐXX tại phiên tòa và xét thấy cần thiết phải thu thập xác minh thêm chứng cứ
mới giải quyết được vụ án thì áp dụng Điều 259 BLTTDS đề nghị HĐXX tạm
ngừng phiên tòa.
1.2.1.3. Về kiểm sát hoạt động hòa giải vụ án dân sự
Hòa giải trong TTDS là hoạt động bắt buộc phải tiến hành trước khi mở phiên
tòa sơ thẩm, trừ những VADS không được tiến hành hòa giải hoặc không hòa giải
được. Đây là hoạt động do Tòa án tiến hành nhưng về bản chất là sự thỏa thuận của
các đương sự, giúp cho các đương sự giải quyết vụ án một cách nhanh chóng và
hiệu quả nhất, giảm bớt được nhiều thời gian và công sức giải quyết vụ án cho các
chủ thể tham gia tố tụng. Do đó, hòa giải có ý nghĩa rất quan trọng khi giải quyết
VADS. Việc thỏa thuận của các đương sự phải xuất phát từ ý chí tự nguyện, không
vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Để đảm bảo việc ra quyết
định công nhận thỏa thuận của các đương sự đúng pháp luật thì VKS có quyền kiểm
sát việc hòa giải của Tòa án. Việc kiểm sát này có ý nghĩa phát hiện sai sót trong
quá trình hòa giải để kiễn nghị hoặc báo cáo đề nghị cấp trên kháng nghị quyết định
công nhận sự thỏa thuận theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. VKSND hoàn toàn
không tham gia việc hòa giải của đương sự mà chỉ kiểm sát thông qua quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự được Tòa án cùng cấp gửi tới trong vòng
5 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương
sự.19 Tuy nhiên, quy định của pháp luật TTDS về vấn đề này còn bất cập và hoạt
động kiểm sát loại quyết định này không dễ phát hiện vi phạm của Tòa án trong quá
trình hòa giải VADS. Nguyên nhân là do VKSND chỉ kiểm sát quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự mà không có điều kiện kiểm sát biên bản hòa
18
19
Xem Điều 58BLTTDS năm 2015.
Xem Điều 212BLTTDS năm 2015.