BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
VÕ VĂN LÝ
XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP BA
ĐƯỜNG CÔNIC NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG
DẠY HỌC TOÁN
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN TOÁN
Mã số: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ĐINH HÙNG
VINH - 2007
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam (Khóa IV, 1993) nêu rõ: "Mục tiêu giáo dục - đào tạo phải hướng
vào việc đào tạo những con người lao động tự chủ, sáng tạo, có năng lực giải
quyết những vấn đề thường gặp, qua đó mà góp phần tích cực thực hiện mục
tiêu lớn của đất nước".
Điều 24, Luật Giáo dục quy định: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh, bồi
dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên, rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh".
Vì vậy, phương hướng đổi mới phương pháp dạy học là làm cho học sinh
học tập tích cực, chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Phải làm sao
trong mỗi tiết học học sinh được suy nghĩ nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, hoạt
động nhiều hơn. Đây chính là tiêu chí, là thước đo đánh giá sự đổi mới phương
pháp dạy học.
1.2. Về thực trạng dạy và học Toán ở nước ta hiện nay Giáo sư Nguyễn
Cảnh Toàn cho rằng: "Cách dạy phổ biến hiện nay là thầy đưa ra kiến thức (khái
niệm, định lý) rồi giải thích, chứng minh, trò cố gắng tiếp thu nội dung khái
niệm, nội dung định lý, hiểu chứng minh định lý, cố gắng tập vận dụng các công
thức định lý để tính toán, chứng minh …" [38, tr.4].
Lối dạy học theo kiểu "Thầy nói, trò nghe" lâu nay vẫn còn phổ biến đã làm
cho trò trở nên bị động, lệ thuộc vào thầy giáo, giáo viên khó kiểm soát được
việc học của trò. Mâu thuẫn giữa yêu cầu đào tạo con người của xã hội công
nghiệp hoá, hiện đại hoá với thực trạng lạc hậu của phương pháp dạy học đã
2
thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học Toán với định hướng tổ chức
cho học
sinh học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực.
1.3. Để góp phần nâng cao chất lượng học tập, việc đổi mới phương pháp
dạy học cần được đổi mới theo định hướng hoạt động hoá người học, tức là tổ
chức cho học sinh học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực,
chủ động và sáng tạo. Đòi hỏi này xuất phát từ những yêu cầu xã hội đối với sự
phát triển nhân cách của thế hệ trẻ, từ những đặc điểm của nội dung mới và từ
bản chất của quá trình học tập. Để đáp ứng đòi hỏi đó, chúng ta không chỉ dừng
ở việc nêu định hướng đổi mới phương pháp dạy học mà cần phải đi sâu vào
những phương pháp dạy học cụ thể như những biện pháp để thực hiện định
hướng nói trên [21, tr.179].
1.4. Hiện nay, nhiều nơi đã phát động phong trào cải cách phương pháp dạy
học nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Phải nói rằng, họ đã có
nhiều nhiều cố gắng thiết thực, những biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích học
sinh hoạt động tích cực hơn như: đối thoại, thảo luận, tự nghiên cứu tài liệu học
tập…
Tư tưởng nhấn mạnh vai trò tích cực, chủ động của người học, xem người
học là chủ thể của quá trình nhận thức đã có từ lâu. Ở thế kỷ XVII, A.Komenxki
đã viết: "Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng
đắn, phát triển nhân cách… hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên dạy ít
hơn, học sinh học nhiều hơn". Tư tưởng này trở nên đa dạng trong thế kỷ XX.
Đặc biệt, trào lưu giáo dục hướng vào người học xuất hiện đầu tiên ở Mỹ, sau đó
lan sang Tây Âu và châu Á mà chủ yếu là ở Nhật, thể hiện ở các thuật ngữ "Dạy
học hướng vào người học", "Dạy học lấy học sinh làm trung tâm"…
3
Ở nước ta, có nhiều nhà nghiên cứu, nhà giáo dục đã có nhiều bài viết,
nhiều công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học tích cực, lấy học sinh làm
trung tâm, phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học như: Nguyễn Kỳ,
Nguyễn Cảnh Toàn, Trần Kiều, Thái Duy Tuyên, Nguyễn Kế Hào, Trần Bá
Hoành, Lê Khánh Bằng… Đáng chú ý là các dự án đổi mới phương pháp dạy
học ở phổ thông, có nhiều công trình nghiên cứu, các tài liệu tập huấn về đổi
mới phương pháp dạy học - phát huy tính tích cực của người học. Những kết quả
nghiên cứu đó giúp chúng ta hiểu sâu hơn về phương pháp tích cực và phát huy
tính tích cực của học sinh trong dạy học nói chung và dạy học môn toán nói
riêng.
1.5. Dạy Toán là dạy hoạt động Toán học (A.A.Stôliar), trong đó hoạt động
chủ yếu là hoạt động giải Toán. Bài tập Toán mang nhiều chức năng: chức năng
giáo dục, chức năng giáo dưỡng, chức năng phát triển tư duy và chức năng kiểm
tra đánh giá. Khối lượng bài tập Toán ở trường phổ thông là vô cùng nhiều và
hết sức phong phú, đa dạng. Có những lớp bài toán có thuật giải nhưng phần lớn
là những bài toán chưa có hoặc không có thuật giải. Đứng trước những bài toán
đó, giáo viên gợi ý và hướng dẫn học sinh như thế nào để giúp học sinh giải
quyết được bài toán là một vấn đề hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đây cũng là
vấn đề rất khó khăn bởi vì để đề ra được những gợi ý hợp lý, đúng lúc, đúng chỗ
thì còn là cả một quá trình nghệ thuật sư phạm của chính người giáo viên.
Trong chương trình Toán phổ thông có khá nhiều bài tập Toán về ba đường
cônic. Thực tiễn sư phạm cho thấy, khi đứng trước những bài tập này học sinh
thường gặp rất nhiều khó khăn và lúng túng. Rất nhiều giáo viên có kinh nghiệm
cũng đã cho rằng: "Những bài Toán về ba đường cônic luôn không dễ đối với
học sinh và bản thân học sinh thường có tâm lý e ngại, thậm chí sợ sệt loại Toán
4
này". Giáo viên nhiều người cũng có tâm lý lảng tránh khi dạy về ba đường
cônic, bởi vì thực tế nó là một nội dung tương đối phức tạp.
Người thầy giáo sau khi truyền thụ những kiến thức cơ bản cho học sinh,
thường đòi hỏi học sinh thể hiện sự lĩnh hội kiến thức, kỹ năng bằng việc vận
dụng các kiến thức đã học để giải quyết các bài tập. Vì vậy xây dựng một hệ
thống bài tập tốt sẽ giúp học sinh từ thụ động đến chủ động độc lập trong việc
giải quyết các bài tập Toán; giúp giáo viên thực hiện tốt các yêu cầu của bài
giảng nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy học.
Từ những sự phân tích trên đây, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu của Luận
văn là: "Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập ba đường cônic nhằm phát
huy tính tích cực của học sinh THPT trong dạy học Toán".
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng hệ thống bài tập ba đường
cônic có tác dụng phát huy tính tích cực của học sinh THPT góp phần nâng cao
chất lượng dạy học Toán.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Làm rõ khái niệm phát huy tính tích cực của học sinh trong học Toán và
những biểu hiện của nó trong dạy học Toán, đặc biệt trong dạy học giải bài tập
Toán.
3.2. Nghiên cứu nội dung sách giáo khoa Hình học lớp 10 THPT (ban nâng
cao) hiện nay và các tài liệu tham khảo liên quan để xây dựng hệ thống bài tập
và sử dụng vào việc dạy học ba đường cônic.
3.3. Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập ba đường cônic phù hợp với
phương pháp dạy học.
3.4. Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính hiệu quả của các
biện pháp được đề xuất trong đề tài của luận văn.
5
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Trên cơ sở nghiên cứu sách giáo khoa Hình học lớp 10 THPT hiện nay và
một số tài liệu có liên quan, nếu ta xây dựng được một hệ thống bài tập ba
đường cônic có tác dụng phát huy tính tích cực của học sinh thì có thể sẽ góp
phần nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở bậc THPT, góp phần thực hiện
tốt mục tiêu và nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy học Toán trong giai đoạn
hiện nay.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các tài liệu về lý luận và phương pháp
giảng dạy môn Toán, các tài liệu về Tâm lý học, Giáo dục học… có liên quan
đến đề tài luận văn.
5.2. Điều tra, quan sát: Điều tra qua thực tiễn sư phạm, qua các tài liệu.
Quan sát thực trạng dạy học ở một số trường trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh.
5.3. Thực nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm sư phạm để xem xét tính
khả thi và hiệu quả của việc xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập ba đường
cônic nhằm phát huy tính tích cực của học sinh THPT trong dạy học Toán như
đã đề xuất.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
6.1. Về mặt lý luận
Làm rõ được nét đặc trưng của tính tích cực của học sinh gồm 3 mức độ:
- Tính tích cực chấp nhận, bắt chước và tái hiện: Được đặc trưng bởi sự bắt
chước, tính tích cực tái hiện chủ yếu dựa vào trí nhớ và tư duy tái hiện. Học sinh
tái hiện được các kiến thức đã học, thực hiện được các thao tác, kỹ năng mà giáo
viên đã nêu ra. Loại này phát triển mạnh ở học sinh có năng lực nhận thức ở
mức độ dưới trung bình và trung bình.
6
- Tính tích cực tìm tòi và áp dụng: Được đặc trưng bởi sự tìm tòi về mặt
nhận thức, óc sáng kiến, lòng khát khao hiểu biết, hứng thú học tập. Tính tích
cực đó không bị hạn chế trong khuôn khổ những yêu cầu của giáo viên trong giờ
học, nó xuất hiện không chỉ do yêu cầu của giáo viên mà còn hoàn toàn tự phát
trong quá trình nhận thức. Loại này phát triển mạnh ở học sinh có năng lực nhận
thức ở mức độ trên trung bình, khá và giỏi.
- Tính tích cực sáng tạo: Là mức độ cao nhất của tính tích cực. Nó đặc
trưng bởi sự khẳng định con đường riêng của mình, không giống với con đường
mà mọi người thừa nhận, tự mình cũng có thể tìm được những kiến thức mới,
kết quả mới hay thực hiện tốt các yêu cầu do giáo viên đưa ra mà không cần nhờ
đến sự gợi ý của giáo viên. Loại này thường thấy ở học sinh có năng lực nhận
thức ở mức độ khá, giỏi, học sinh năng khiếu.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Xây dựng được hệ thống bài tập phù hợp với các nét đặc trưng của tính
tích cực.
- Lựa chọn được hệ thống bài tập ba đường cônic phục vụ cho việc dạy học.
6.3. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên Toán Trung
học phổ thông.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Giả thuyết khoa học
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của Luận văn
7
Chương 1. Một số vấn đề về cơ sở lý luận
1.1. Cơ sở lý luận về dạy học tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh
1.1.1. Khái niệm về tính tích cực trong học tập
1.1.2. Các cấp độ của tính tích cực
1.1.3. Về nguyên nhân của tính tích cực nhận thức
1.1.4. Một số cơ sở lý luận về việc tích cực hoá hoạt động nhận thức
1.1.5. Dạy học tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh
1.1.6. Một số khía cạnh cơ bản của tư tưởng tích cực hoá hoạt động học tập
của học sinh
1.2. Phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực của học sinh
1.2.1. Các nguyên tắc đặc trưng tích cực của một phương pháp dạy học
1.2.2. Các biện pháp phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh
1.2.3. Một trong những giải pháp nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh
1.3. Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh
1.3.1. Những dấu hiệu đặc trưng của các phương pháp tích cực
1.3.2. Một số phương pháp hạy học phát huy tính tích cực của học sinh cần
được phát triển.
1.4. Kết luận chương 1
Chương 2. Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập ba đường cônic nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh THPT trong dạy học Toán
2.1. Đặc điểm xây dựng chương trình sách giáo khoa Hình học lớp 10
hiện nay
2.1.1. Một số nguyên nhân cần đổi mới chương trình sách giáo khoa
2.1.2.Đặc điểm xây dựng chương trình sách giáo khoa Hình học 10 hiện nay
2.1.3. Nội dung chương trình sách giáo khoa Hình học 10 hiện nay
2.2. Những định hướng xây dựng hệ thống các bài tập nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh
8
2.2.1. Phát huy tính tích cực trong dạy học giải bài tập Toán
2.2.2. Định hướng xây dựng hệ thống các bài tập Toán
2.2.3. Hệ thống bài tập ba đường cônic
2.3. Kết luận chương 2
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
3.1. Mục đích thực nghiệm
3.2. Tổ chức và nội dung thực nghiệm
3.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm
3.4. Kết luận chung về thực nghiệm
Kết luận
Tài liệu tham khảo
9
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DẠY HỌC TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA HỌC SINH
1.1.1. Khái niệm về tính tích cực trong học tập
1.1.1.1. Tính tích cực
Theo từ điển Tiếng Việt [Viện ngôn ngữ học, 1999] tích cực nghĩa là có ý
nghĩa, có tác dụng khẳng định, thúc đẩy sự phát triển. Người tích cực là người tỏ
ra chủ động, có những hoạt động nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng phát triển
ví dụ như đấu tranh tích cực, phương pháp phòng bệnh tích cực. Theo một nghĩa
khác, tích cực là đem hết khả năng và tâm trí vào việc làm nào đó chẳng hạn như
công tác rất tích cực.
Tích cực là một trạng thái tinh thần có tác dụng khẳng định và thúc đẩy sự
phát triển [Trần Kiều, Nguyễn Thị Lan Anh].
Tích cực là chủ động, hăng hái, nhiệt tình với nhiệm vụ được giao [từ điển
Tiếng Việt, 1994, Hoàng Phê chủ biên].
Tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội. Để
tồn tại và phát triển, con người luôn tìm tòi, khám phá, cải biến môi trường để
phục vụ cho con người. Tuy vậy, tính tích cực có mặt tự phát và tự giác. Theo
Thái Duy Tuyên, mặt tự phát của tính tích cực là những yếu tố tiềm ẩn bên
trong, bẩm sinh, thể hiện tính tò mò, hiếu kỳ, linh hoạt trong đời sống hàng ngày.
Mặt tự giác của tính tích cực là trạng thái tâm lý tích cực có mục đích và đối
tượng rõ rệt, do đó có hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng đó. Tính tích cực tự
giác thể hiện ở óc quan sát, tính phê phán trong tư duy, trí tò mò khoa học…
Nhờ tính tích cực tự giác, có ý thức, con người có thể đạt được nhiều tiến bộ
trong đời sống và phát triển nhanh hơn so với tính tích cực tự phát. Vì vậy, hình
10
thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong các nhiệm vụ chủ yếu của
giáo dục, nhằm đào tạo
những con người năng động góp phần phát triển cộng đồng.
1.1.1.2. Tính tích cực nhận thức
Nhận thức thế giới xung quanh không chỉ là một trong những nhu cầu quan
trọng nhất mà còn là tiền đề cơ bản của sự phát triển xã hội nói chung, ở một
mức độ tương tự nó còn là đặc trưng cho từng người riêng biệt. Tuy nhiên, với
từng người thì chức năng này lại thực hiện biến đổi, đó là nắm vững những kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo đã tích luỹ được. Trong giáo dục học, người ta nhận thức
rằng, đây là quá trình phức tạp không kém nhận thức khoa học. Bởi vậy, dạy học
cho thế hệ trẻ có một chức năng xã hội đặc biệt và rất cơ bản. Người ta tiến hành
xử lí về mặt sư phạm khiến cho quá trình này xẩy ra dễ dàng hơn, nhanh hơn và
nhiều hơn. Theo Kharlamop "tính tích cực là trạng thái hoạt động con người
hành động. Tính tích cực nhận thức của học sinh là trạng thái hoạt động của học
sinh, đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá
trình nắm vững kiến thức". Theo P.M.Ecđơniep "sự học tập là trường hợp riêng
của sự nhận thức, một sự nhận thức đã được làm cho dễ dàng đi và thực hiện
dưới sự chỉ đạo của giáo viên". Có thể xem xét tính tích cực hoạt động nhận thức
dưới các góc độ khác nhau:
Dưới góc độ triết học, tính tích cực thể hiện ở thái độ cải tạo của chủ thể
nhận thức đối với thể giới xung quanh. Đối với học sinh tính tích cực nhận thức
đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình
nắm vững trí tuệ.
1.1.1.3. Tính tích cực học tập
11
Học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi đi học. Thông qua quá trình học tập
con người nhận thức được, lĩnh hội được những tri thức loài người đã tích luỹ
được đồng thời có thể nghiên cứu và tìm ra những tri thức mới cho khoa học.
Tính tích cực trong hoạt động học tập về thực chất là tính tích cực nhận
thức đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá
trình chiếm lĩnh tri thức. Trong hoạt động học tập, nó diễn ra ở nhiều phương
diện khác nhau: tri giác tài liệu, thông hiểu tài liệu, ghi nhớ, luyện tập, vận
dụng… và được thể hiện ở nhiều hình thức đa dạng, phong phú.
1.1.1.4. Các hình thức biểu hiện của tính tích cực
- Hoạt động nhận thức: Thể hiện ở các thao tác tư duy, ngôn ngữ, sự quan
sát, ghi nhớ, tư duy hình thành khái niệm, phương thức hành động, hình thành
kỹ năng, kỹ xảo, các câu hỏi nhận thức của học sinh, giải đáp các câu hỏi do
giáo viên đưa ra nhanh chóng chính xác, biết nhận rõ đúng sai khi bạn đưa ra ý
kiến, hoài nghi, phê phán và xác lập các quan hệ liên nhân cách giúp ích cho
hoạt động nhận thức.
- Xúc cảm học tập: Thể hiện ở niềm vui, sốt sắng thực hiện yêu cầu của giáo
viên, hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên đưa ra; thích phát biểu ý kiến của
mình trước vấn đề nêu ra. Hay thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề
chưa đủ rõ.
- Chú ý: Thể hiện ở việc các em có tập trung chú ý học tập, lắng nghe, theo
dõi mọi hành động của giáo viên hay không?
- Sự nỗ lực của ý chí: Thể hiện ở sự kiên trì, nhẫn nại, vượt khó khăn khi
giải quyết nhiệm vụ nhận thức. Kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản lòng
trước những tình huống khó khăn. Có quyết tâm, có ý chí vươn lên trong học
tập.
12
- Hành vi: Hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập: hay
giơ tay phát biểu ý kiến, bổ sung các câu trả lời của bạn; ghi chép cẩn thận, đầy
đủ, cử chỉ khẩn trương khi thực hiện các hành động tư duy.
- Kết quả lĩnh hội: Nhanh, đúng, tái hiện được khi cần, chủ động vận dụng
được kiến thức, kỹ năng khi gặp tình huống mới để nhận thức những vấn đề
mới.
Đặc biệt, tính tích cực học tập có mối liên hệ nhân quả với các phẩm chất
nhân cách của người học như:
- Tính tự giác: Đó là sự tự nhận thức được nhu cầu học tập của mình và
có
giá trị thúc đẩy hoạt động có kết quả.
- Tính độc lập tư duy: Đó là sự tự phân tích, tìm hiểu, giải quyết các nhiệm
vụ nhận thức. Đây là biểu hiện cao của tính tích cực.
- Tính chủ động: Thể hiện ở việc làm chủ các hành động trong toàn bộ hoặc
trong từng giai đoạn của quá trình nhận thức như đặt ra nhiệm vụ, lập kế hoạch
thực hiện nhiệm vụ đó, tự đọc thêm, làm thêm các bài tập, tự kiểm tra… Lúc
này, tính tích cực đóng vai trò như một tiền đề cần thiết để tiến hành các hoạt
động học tập của học sinh.
- Tính sáng tạo: Thể hiện khi chủ thể nhận thức tìm ra cái mới, cách giải
quyết mới, không bị phụ thuộc vào cái đã có. Đây là mức độ biểu hiện cao nhất
của tính tích cực.
Nói về tính tích cực, người ta thường đánh giá nó ở cấp độ cá nhân người
học trong quá trình thực hiện mục đích dạy học chung. Một cách khái quát,
I.F.Kharlamop viết: "Tính tích cực trong hoạt động nhận thức là trạng thái hoạt
động của học sinh được đặc trưng bởi khát vọng học tập, sự cố gắng trí tuệ với
nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức cho chính mình".
13
1.1.2. Các cấp độ của tính tích cực
G.I. Sukina đã chia tính tích cực ra làm ba cấp độ.
- Tính tích cực chấp nhận, bắt chước và tái hiện: Được đặc trưng bởi sự bắt
chước, tính tích cực tái hiện chủ yếu dựa vào trí nhớ và tư duy tái hiện. Học sinh
tái hiện được các kiến thức đã học, thực hiện được các thao tác, kỹ năng mà giáo
viên đã nêu ra. Loại này phát triển mạnh ở học sinh có năng lực nhận thức ở
mức độ thấp như dưới trung bình hay trung bình. Có thể giáo viên chỉ thay đổi
một chút dữ kiện là học sinh đã cảm thấy lúng túng, khó khăn và không làm
được. Nhưng nó lại là tiền đề cơ bản giúp các em nắm được nội dung bài giảng
để có điều kiện nâng cao tính tích cực lên mức cao hơn.
- Tính tích cực tìm tòi và áp dụng: Được đặc trưng bởi sự tìm tòi về
mặt
nhận thức, óc sáng kiến, lòng khát khao hiểu biết, hứng thú học tập. Tính tích
cực đó không bị hạn chế trong khuôn khổ những yêu cầu của giáo viên trong giờ
học, nó xuất hiện không chỉ do yêu cầu của giáo viên mà còn hoàn toàn tự phát
trong quá trình nhận thức. Nó tồn tại không chỉ ở dạng trạng thái, cảm xúc mà
còn ở dạng thuộc tính bền vững của hoạt động. Ở mức độ này, tính độc lập cao
hơn mức trên, cho phép học sinh tiếp nhận nhiệm vụ và tìm tòi cho mình phương
tiện thực hiện. Loại này phát triển mạnh ở học sinh có năng lực nhận thức ở mức
độ trên trung bình, khá và giỏi.
Ý thức tìm tòi giúp các em say mê đi tìm kiến thức mới, khai thác kiến thức
đã học theo chiều hướng khác nhau, kiểm tra lại những kiến thức đã học trước
đó. Ý thức tìm tòi là phẩm chất của trí tuệ. Đó là sự độc lập trong tư duy, tự
mình phát hiện ra vấn đề, tự mình xác định phương hướng và tìm cách giải đáp,
tự mình kiểm tra, thử lại, đánh giá kết quả đạt được. Đây cũng là tiền đề cơ bản
của tính tích cực sáng tạo.
14
- Tính tích cực sáng tạo: Là mức độ cao nhất của tính tích cực. Nó đặc
trưng bởi sự khẳng định con đường riêng của mình, không giống với con đường
mà mọi người thừa nhận, tự mình cũng có thể tìm được những kiến thức mới,
kết quả mới hay thực hiện tốt các yêu cầu do giáo viên đưa ra mà không cần nhờ
đến sự gợi ý của giáo viên ngoài ra còn có tính sáng tạo trong phương pháp. Ở
mức này, học sinh có khả năng tư duy phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, tương
tự… để tìm tòi phát hiện kiến thức mới. Loại này thường thấy ở học sinh có
năng lực nhận thức ở mức độ khá, giỏi, học sinh năng khiếu.
1.1.3. Về nguyên nhân của tính tích cực nhận thức
Tính tích cực nhận thức tuy nảy sinh trong quá trình học tập nhưng nó lại là
hậu quả của nhiều nguyên nhân. Nhìn chung tính tích cực nhận thức phụ thuộc
vào những nguyên nhân sau đây:
- Hứng thú
- Nhu cầu
- Động cơ
- Năng lực
- Ý chí
- Sức khoẻ
- Môi trường
Trong những nhân tố trên đây, có những nhân tố có thể hình thành ngay,
nhưng cũng có những nhân tố chỉ được hình thành qua một quá trình lâu dài
dưới ảnh hưởng của rất nhiều tác động. Vì vậy, việc tích cực hoá hoạt động nhận
thức của học sinh đòi hỏi một kế hoạch lâu dài và toàn diện của giáo viên trong
khi dạy học.
Trong các yếu tố trên hứng thú được các thầy giáo quan tâm nhất bởi vì. Nó
có thể hình thành ở học sinh một cách nhanh chóng và bất cứ lúc nào trong quá
15
trình dạy học. Có thể gây hứng thú ở học sinh mọi lứa tuổi. Điều quan trọng nhất
là nó nằm trong tầm tay người thầy. Người thầy có thể điều khiển hướng dẫn học
sinh qua các yếu tố của quá trình dạy học: nội dung, phương pháp, phương tiện,
hình thức tổ chức…
Về phía học sinh vai trò hứng thú đối với kiến thức giữ vị trí rất quan trọng
trong học tập. Điều mà thầy giáo phải thực hiện thường xuyên là kích thích hứng
thú trong quá trình dạy học, thông qua các yếu tố của nó: nội dung, phương
pháp, phương tiện, hình thức tổ chức, mở bài, giảng bài mới lúc kiểm tra, đánh
giá…
1.1.4. Một số cơ sở lý luận về việc tích cực hoá hoạt động nhận thức
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là một trong những hoạt
động chủ yếu của người thầy trong quá trình dạy học. Vì vậy việc nghiên cứu nó
về lý luận và thực tiễn, việc vận dụng nó trong dạy học như thế nào luôn là trung
tâm chú ý của các nhà giáo dục.
Tích cực hoá là một tập hợp các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của
người học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ
thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả của học tập.
1.1.4.1. Cơ sở triết học
Theo quan điểm triết học duy vật biện chứng, mâu thuẫn là động lực thúc
đẩy sự phát triển. Một vấn đề được gợi cho học sinh học tập chính là mâu thuẫn
giữa yêu cầu nhận thức kiến thức mới và vốn liếng kiến thức cùng kinh nghiệm
sẵn có của bản thân học sinh.
1.1.4.2. Cơ sở tâm lý học
Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh dựa trên cơ sở tâm lý học cho
rằng nhân cách của trẻ em được hình thành thông qua các hoạt động chủ động và
sáng tạo, thông qua các hành động có ý thức. Theo Rubestein: "Con người chỉ
16
thực sự nắm vững cái mà chính bản thân giành được bằng lao động của mình".
Học sinh sẽ thông hiểu và ghi nhớ những gì đã trải qua trong hoạt động nhận
thức của bản thân bằng cách này hay cách khác. Con người chỉ bắt đầu tư duy
tích cực khi đứng trước một khó khăn về nhận thức cần phải khắc phục, một tình
huống gợi vấn đề.
1.1.4.3. Cơ sở giáo dục
Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh còn phù hợp với nguyên tắc
phát huy tính tích cực và tự giác trong giáo dục, vì nó gợi được động cơ học tập
của chủ thể, phát huy nội lực bên trong, giúp người học có năng lực phát hiện và
giải quyết vấn đề, làm cho việc giải quyết vấn đề không chỉ còn trong phạm trù
của phương pháp dạy học mà còn mang sắc thái của phạm trù mục tiêu, góp
phần phát triển năng lực, bồi dưỡng nhân tài.
1.1.4.4. Cơ sở lý thuyết hoạt động
Việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên cơ sở "nhân
cách được hình thành thông qua hoạt động, sáng tạo và có ý thức".
Quá trình dạy học là quá trình thống nhất, biện chứng giữa các hoạt động
dạy của thầy và hoạt động học của trò, trong đó hoạt động học là trung tâm. Sự
thống nhất của các quá trình dạy và học được thể hiện ở sự tương ứng các giai
đoạn hoạt động của thầy và trò. Chỉ có sự kết hợp chặt chẽ giữa những tác động,
điều khiển bên ngoài của giáo viên - tạo môi trường học tập (hình thức tổ chức
dạy học, phương thức hành động, phương tiện vật chất, thái độ tình cảm của
thầy…) - với sự căng thẳng trí tuệ bên trong của học sinh nhằm thích nghi với
môi trường đó, mới có thể tạo nên cơ sở cho việc học tập có kết quả.
1.1.5. Dạy học tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh
Xu hướng nhấn mạnh vai trò tích cực, chủ động của người học, xem người
học là chủ thể của quá trình học tập đã được đề cập ở những mức độ khác nhau,
17
đặc biệt rõ nét và trở nên rất đa dạng trong suốt thế kỷ XX. Chẳng hạn, J.Dewey
và C.Rogers đề xuất cần phải đề cao nhu cầu, lợi ích của người học, đề xuất việc
để người học lựa chọn chiến lược nội dung học, tự lực tìm tòi nghiên cứu, lấy
việc khai thác kinh nghiệm của chủ thể học tập làm chỗ dựa quyết định cho việc
lựa chọn và kỹ thuật giảng dạy. Tuy nhiên, ở đây các tác giả quá coi trọng vai trò
của những kinh nghiệm, ấn tượng của cá nhân trong quá trình giáo dục và dạy
học ở trường, quá coi trọng vai trò của học sinh mà ít chú ý đến những hạn chế
nhất định của lứa tuổi học sinh và xem nhẹ vai trò của giáo viên trong quá trình
giáo dục và dạy học. Bruner cho rằng "chỉ lấy hứng thú từ chính học sinh làm
xung lực cho dạy học là phi lý". Theo ông (và những người kế tục ông), hứng
thú chỉ có thể có từ tài liệu học tập, bằng cách hình thành việc học tập như là
một hành vi khám phá, kiến thức thu được bằng con đường tự khám phá là vững
chắc và đáng tin cậy nhất.
1.1.5.1. Học tập là một quá trình nhận thức tích cực
Học tập là một loại hoạt động của học sinh. Với tư cách là một hoạt động,
việc học tập chỉ xảy ra khi nào mà những hành động của con người được điều
khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội tri thức, kỹ năng kỹ xảo, những hành vi và
những hoạt động nhất định. Vì vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên chỉ nên
tạo điều kiện cần thiết để kích thích hoạt động nhận thức của học sinh, còn việc
nắm kiến thức thì được diễn ra tuỳ theo mức độ biểu lộ tính tích cực trí tuệ và
lòng ham hiểu biết ở mỗi học sinh, và dĩ nhiên phải kể thêm cả năng khiếu trí tuệ
nữa. Trong quá trình học tập, học sinh phải vượt ra khỏi những giới hạn kiến
thức đã có của mình và nghiên cứu những cái mà các em chưa nhận thức được.
Quá trình học tập của học sinh diễn ra như sau:
- Quá trình này phải xuất phát từ việc xác định nhiệm vụ nhận thức (xác
định vấn đề cần nghiên cứu). Giáo viên cần phải làm cho nó xuất hiện trong quá
18
trình nhận thức dưới dạng những tình huống có vấn đề chứ không nên ở dạng
chuẩn bị sẵn.
- Tiếp theo, để phát hiện được bản chất của các sự vật hiện tượng (bản chất
của vấn đề nghiên cứu) học sinh cần phải giải quyết nhiệm vụ nhận thức (giải
quyết vấn đề) với câu hỏi tại sao?. Ở đây, để giải quyết nhiệm vụ nhận thức đòi
hỏi học sinh phải thực hiện các thao tác tư duy nhất định như đối chiếu, so sánh,
phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá… và phải vận dụng những kỹ
năng, kỹ xảo và các kiến thức đã học để vạch ra các dấu hiệu bản chất của vấn
đề cần giải quyết. Tuy nhiên quá trình trên không tự diễn ra mà phải có sự kích
thích, tích cực trí tuệ (đó là những nhiệm vụ nhận thức nảy sinh trên cơ sở tri
giác, là những nghịch lý, là những ngạc nhiên), ở đây giáo viên cần phải thấy
cần phải sử dụng những biện pháp sư phạm thích hợp để giúp học sinh hiểu
được bản chất của vấn đề và giải quyết được nhiệm vụ nhận thức. Kết quả là học
sinh thông hiểu các sự vật, hiện tượng, khái quát hoá hình thành khái niệm, quy
tắc, định lý…
- Giai đoạn tiếp theo trong quá trình hoạt động nhận thức của học sinh là
quá trình luyện tập vận dụng kiến thức vào thực tế, hình thành kỹ năng, kỹ xảo.
Trong quá trình luyện tập, học sinh phải lĩnh hội, tái hiện được những sự kiện,
khái niệm, kết luận rút ra từ chúng, lôgic sắp xếp tài liệu và cả những vấn đề đặc
trưng cho mối liên hệ giữa đề tài mới và những điều đã học trước đó. Trong quá
trình vận dụng bước đầu những kiến thức vừa lĩnh hội vào thực tiễn và cả công
việc luyện tập đề hoàn thành hoạt động đó, các kỹ năng kỹ xảo của học sinh
được hình thành và được rèn luyện. Sự hình thành kỹ năng kỹ xảo của học sinh
sẽ diễn ra thông minh hơn nếu ngoài hoạt động thực hành, quá trình đó còn kèm
cả hoạt động trí tuệ tích cực của học sinh nữa. Vì thế các bài luyện tập của học
19
sinh cần được "phức tạp hoá" bằng những bài thực hành đa dạng có đòi hỏi sự
suy nghĩ và đôi chút sáng tạo khi vận dụng kiến thức.
- Hoạt động sau cùng của học sinh đòi hỏi ôn tập kiến thức đã học, đào sâu
hệ thống hoá kiến thức, hiểu sâu trình tự lôgic của chúng.
Như vậy, học tập là một quá trình nhận thức tích cực của học sinh. Muốn
nắm kiến thức một cách sâu sắc và vững chắc học sinh phải thực hiện đầy đủ
những hoạt động trí tuệ và theo đúng con đường nhận thức mà Lênin đã vạch ra:
"Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn đó là quy luật của con đường nhận thức". Trong quá trình dạy học môn toán,
kết quả của việc học toán chỉ thực sự có được khi học sinh tích cực và chủ động
tham gia vào quá trình này. Chỉ trong quá trình học tập tích cực, học sinh mới
rèn luyện được kỹ năng kiến thức, sự say mê học tập và cả sự hoàn thiện những
năng lực chung và riêng. Tất cả những cái đó dẫn đến việc làm hoàn thiện nhân
cách nói chung và làm phong phú thêm những nhu cầu nhận thức và tinh thần.
Do đó việc học toán cần được dựa trên nền tảng của hoạt động nhận thức tích
cực của học sinh và đòi hỏi học sinh phải có được thái độ và tinh thần tích cực
như vậy. Chỉ có sự phối hợp hữu cơ và sự liên hệ qua lại chặt chẽ giữa tác động
"bên ngoài" của giáo viên, biểu lộ trong việc trình bày tài liệu chương trình và tổ
chức công tác học tập của học sinh, với sự căng thẳng trí tuệ "bên trong" của các
em mới tạo nên được cơ sở của sự học tập có kết quả. Tính tích cực nhận thức
của học sinh càng cao thì những kiến thức được lĩnh hội lại càng sâu sắc hơn,
đầy đủ hơn và vững chắc hơn.
1.1.5.2. Dạy học tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là cách
dạy học phù hợp với quy luật nhận thức
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là việc thực hiện một tập
hợp các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người học từ thụ động sang
20
chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng
cao hiệu quả học tập. Vì vậy, dạy học tích cực hoá hoạt động nhận thức của học
sinh là cách dạy học phù hợp với quy luật nhận thức.
Trong quá trình dạy học, hai nhân vật trực tiếp quyết định chất lượng của
quá trình là giáo viên và học sinh. Mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động dạy
của giáo viên và hoạt động học của học sinh trở thành quy luật cơ bản của quá
trình dạy học. Trong quá trình này, giáo viên là chủ thể tổ chức điều khiển, chỉ
đạo tiễn trình dạy học, học sinh vừa là đối tượng của quá trình tổ chức ấy, vừa là
chủ thể tự giác, tích cực chủ động trong quá trình nhận thức và rèn luyện kỹ
năng. Hai nhân vật này tồn tại song song, hoạt động phối hợp nhịp nhàng với
nhau, thiếu một trong hai, lập tức hệ thống dạy học bị phá vỡ. Vì vậy trong mọi
trường hợp giáo viên luôn là chủ thể sáng tạo có trình độ cao về kiến thức và
nghiệp vụ sư phạm, có năng lực tổ chức điều khiển, chỉ đạo quá trình dạy học,
học sinh là người chủ động tích cực tham gia vào quá trình học tập tự lực. Với
sự đề cao tính sáng tạo của mối người học thì vai trò của người giáo viên không
còn là người truyền thụ tri thức nữa, mà là người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ
học sinh tìm tòi, khám phá tri thức, phát triển trí tuệ. Điều đó đòi hỏi người giáo
viên phải có năng lực thực sự để góp phần phát triển tột bậc của học sinh, thông
qua sự tham gia tích cực của các em.
Trong dạy học tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh , toàn bộ quá
trình dạy học phải hướng vào nhu cầu, khả năng, lợi ích của học sinh, với mục
đích phát triển ở học sinh kỹ năng và năng lực độc lập học tập và giải quyết các
vấn đề. Vài trò của giáo viên để đạt được mục đích này là những tình huống để
phát hiện vấn đề, giúp cho học sinh phát hiện vấn đề, lập giả thuyết làm sáng tỏ
và thử nghiệm các giả thuyết đó để rút ra kết luận.
21
Vì vậy phương pháp dạy học tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh
đòi hỏi phải thoả mãn hai điều kiện sau:
+ Đảm bảo các yêu cầu cơ bản:
- Mọi đối tượng học sinh đều được tích cực hoá hoạt động tư duy.
- Học sinh được tự lực tiếp cận kiến thức với những mức độ khác nhau.
- Học sinh được hướng dẫn hoạt động nhận thức, giải quyết vấn đề theo quy
trình.
+ Xác lập quan hệ thầy - trò theo hướng:
- Giáo viên giữ vai trò chủ đạo, tổ chức các tình huống học tập, hướng dẫn
học sinh giải quyết vấn đề, khẳng định kiến thức mới trong vốn tri thức của học
sinh, đảm bảo an toàn của quá trình dạy học.
- Học sinh là chủ thể nhận thức, giữ vai trò chủ động hoạt động trí óc, tự
học, tự lực chiếm lĩnh tri thức từ nhiều nguồn khác nhau (từ tình huống sư phạm
của bài giảng, từ vấn đề thực tế, từ tài liệu giáo khoa, qua trao đổi trong tập thể
học sinh…).
Như vậy, có thể hiểu phương pháp dạy học tích cực hoá hoạt động nhận
thức của học sinh là phương pháp dạy học trong đó người giáo viên tổ chức quá
trình dạy học dựa trên sức lực và trí tuệ học sinh, để mỗi học sinh tự nghiên cứu,
thực hành tìm ra kiến thức và hình thành kỹ năng nhận thức kỹ năng hành động.
Tính tích cực ở đây là tích cực một cách chủ động và được hiểu theo nghĩa là
người học được chủ động trong toàn bộ quá trình tìm tòi, phát hiện và giải quyết
nhiệm vụ nhận thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên (chứ không phải
trong tình trạng giáo viên dẫn dắt tới đâu thì giải quyết tới đó). Dạy học phát huy
tính tích cực nhận thức của học sinh là dạy học theo định hướng tích cực hoá
hoạt động nhận thức của học sinh trên cơ sở học sinh tự giác, tự khám phá (với
yêu cầu cụ thể là tìm hiểu, phát hiện và giải quyết vấn đề) theo sự tổ chức và
22
hướng dẫn của giáo viên, từ đó xây dựng phương pháp tự học thích hợp cho bản
thân theo hướng tích cực [17, tr.25].
1.1.6. Một số khía cạnh cơ bản của tư tưởng tích cực hoá hoạt động học
tập của học sinh
Dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh dựa trên nguyên
tắc "Phát huy tính tích cực, tự giác và sáng tạo của học sinh". Thực chất, đó là
quá trình tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phát hiện vấn đề và giải quyết
vấn đề trên cơ sở tự giác và được tự do, được tạo khả năng và điều kiện để chủ
động trong hoạt động học tập của học. Sau đây là một số khía cạnh cơ bản của tư
tưởng đó:
1.1.6.1. Đề cao tính nhân văn trong giáo dục
- Giáo dục không chỉ phục vụ số đông mà còn phục vụ cho nhu cầu của số
đông: nhu cầu về các lĩnh vực khác nhau, một người không chỉ giới hạn hiểu
biết ở một lĩnh vực mà có nhu cầu hiểu biết nhiều lĩnh vực khác nhau, làm nhiều
nghề khác nhau. Theo đó, giáo dục cung cấp cho họ những kiến thức, kỹ năng
cần thiết với những khoảng thời gian linh hoạt, phù hợp, tôn trọng nhu cầu của
mọi người.
- Con người vốn có sẵn tiềm năng, giáo dục cần và có thể khai thác tối đa
tiềm năng đó, đặc biệt là tiềm năng sáng tạo. Vì vậy có thể nói học tập là sáng
tạo. Giáo dục giúp con người qua học tập trở thành con người có tri thức và kỹ
năng mới, tạo điều kiện cho con người thể hiện mình trên các lĩnh vực, phát triển
nhân cách con người. Trên cơ sở hiểu biết, con người sống tốt hơn, có ích hơn
cho cộng đồng .
- Giáo dục tạo ra cho người học một môi trường, là tổ hợp các thành tố, để
họ có thể tự giác, tự do (trong suy nghĩ, trong việc làm, trong tranh luận hướng
tới mục đích mà họ tự giác chấp nhận), tự khám phá. Các thành tố đó gồm: hình
23
thức học tập đa dạng; nội dung học tập phù hợp với khả năng và mong muốn của
người học; quan hệ thầy, trò mang tính hợp tác, dân chủ, bình đẳng… Tuy nhiên,
sự tự giác, tự do, khám phá đó phải nằm trong khuôn khổ có sự kết hợp hài hoà
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, giữa nhu cầu người học với nhu cầu phát
triển quốc gia; giữa hiệu quả tác động của giáo viên với mục tiêu xã hội.
1.1.6.2. Đề cao tính hoạt động
Tối đa hoá sự tham gia hoạt động của người học với phương thức chỉ đạo tự
nhận thức, tự phát triển, tự thực hiện, tự kiểm tra, tự đánh giá. Qua đó hình thành
và phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của mỗi học sinh. Bốn yêu cầu đối với khía
cạnh trên là:
- Xác lập vị trí chủ thể của người học, bảo đảm tính tự giác, tích cực sáng
tạo của hoạt động học tập.
- Dạy học phải dựa trên sự nghiên cứu tác động của những quan niệm và
kiến thức sẵn có của người học, nhằm khai thác những mặt thuận lợi, hạn chế
mặt khó khăn, nghiên cứu những chướng ngại hoặc sai lầm có thể có của những
kiến thức đó trong quá trình học tập của học sinh.
- Dạy học không chỉ nhằm mục đích là tri thức và kỹ năng bộ môn, mà quan
trọng hơn cả là dạy việc học, dạy cách học cho học sinh.
- Quá trình dạy học phải bao hàm cả việc dạy và cách tự học thông qua việc
để học sinh tự hoạt động nhằm đáp ứng các nhu cầu của bản thân và của xã hội.
1.1.6.3. Đề cao vai trò thúc đẩy tiềm năng ở mỗi học sinh của thầy giáo
Cụ thể hoá ở các nhiệm vụ sau:
- Thiết kế: Thầy giáo xác định, hoạch định toàn bộ kế hoạch giảng dạy (mục
đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức…).
24
- Uỷ thác: Thầy giáo biến được ý đồ dạy của mình thành nhiệm vụ nhận
thức tự nguyện, tự giác của học sinh và học sinh đảm nhiệm quá trình hoạt động
để kiến tạo tri thức.
- Điều khiển: Thầy hướng dẫn, tổ chức quá trình học tập sao cho học sinh tự
tìm tòi, tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ đó.
- Thể thức hoá: Đánh giá hoạt động học tập của học sinh, xác định vị trí
kiến thức mới trong hệ thống tri thức đã có và hướng dẫn khả năng vận dụng
kiến thức đó.
Ba khía cạnh trên có mối liên hệ biện chứng với nhau: Đề cao tính nhân
văn thể hiện sự tôn trọng nhu cầu, lợi ích, mục đích của cá nhân người học. Giáo
dục phải tạo điều kiện để họ "tự sinh thành và phát triển" theo tiềm năng của bản
thân, đồng thời phù hợp với những đòi hỏi và điều kiện cụ thể của xã hội. Đề
cao tính hoạt động mang hàm ý phát huy tối đa tính tích cực của mỗi học sinh
theo nghĩa họ cần và phải được chủ động trong quá trình học tập. Vì thế mà giáo
viên với tư cách là người hướng dẫn và tổ chức quá trình học tập sao cho vừa
đảm bảo tôn trọng "cái đang có" ở người học, vừa đảm bảo để họ chủ động hình
thành "cái muốn có" sẽ trở nên rất khó khăn và đóng vai trò quan trọng đối với
chất lượng học tập của học sinh.
Tóm lại, tích cực hoá hoạt động học tập là quá trình làm cho người học trở
thành chủ thể tích cực trong hoạt động học tập của chính họ. Để phát huy được
tính tích cực, chúng ta cần phải có những giải pháp đồng bộ, từ mục đích đến nội
dung, từ giáo trình, sách giáo khoa đến tài liệu tham khảo, trang thiết bị trường
lớp… đều phải tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc học cá nhân, học nhóm.
Đặc biệt, một trong những giải pháp đóng vai trò hết sức quan trọng đó là cải
tiến phương pháp dạy học - là hoạt động chủ đạo của giáo viên, nhưng được đặt
trong sự gắn chặt với hoạt động học tập của học sinh theo các yêu cầu đã nêu.
25