Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thực tiễn giải quyết các vụ việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn trên địa bàn thành phố sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI TIẾN BÌNH

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC CHIA TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI TIẾN BÌNH

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC CHIA TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự


Mã số: 8380103

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Bùi Minh Hồng

HÀ NỘI, 2018


LÒI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng tri ân tới toàn thể quý thấy cô trƣờng Đại học Luật
Hà Nội, đặc biệt xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành nhất và lòng biết ơn sâu
sắc tới thầy TS. Bùi Minh Hồng là ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn, chỉ bảo, tạo
mọi điều kiện thuận lợi nhất, giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy Cô trong Hội đồng khoa học đã đóng
góp những góp ý, những lời khuyên quý giá cho bản luận văn này.
Xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ, chia sẻ khó khăn
và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành
luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Sơn La, tháng 8 năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Tiến Bình


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi được
thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và khảo sát tình hình thực tiễn tại
địa phương dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Bùi Minh Hồng. Các thông
tin, số liệu, các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên

cứu của Luận văn là trung thực.
HỌC VIÊN

Bùi Tiến Bình


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật dân sự

BLDS

Hôn nhân và gia đình

HN&GĐ

Quyền sử dụng đất

QSDĐ

Thời kỳ hôn nhân

TKHN

Tòa án nhân dân

TAND

Xã hội chủ nghĩa


XHCN


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TÀI SẢN CHUNG VỢ
CHỒNG VÀ CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG KHI LY HÔN .......... 7
1.1. TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG ............................................................... 7
1.1.1. Khái niệm............................................................................................. 7
1.1.2. Căn cứ xác lập tài sản chung vợ chồng trong ………………...……12
1.2. CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN ................ 22
1.2.1. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn .................. 23
1.22. Hậu quả về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.....................29
KẾT LUẬN CHƢỎNG 1................................................................................30
Chƣơng 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ, VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI
LY HÔN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ SƠN LA ..................................... 31
2.1.KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH TẠI THÀNH PHỐ SƠN LA
ẢNH HƢỞNG TỚI VIỆC GIẢI QUYẾT CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ
CHỒNG KHI LY HÔN . ................................................................................ 31
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và dân số ............................................................. 31
2.1.2. Điều kiện kinh tế - Văn hóa - Xã hội................................................. 32
2.2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ, VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TAND TP SƠN LA.........................33
2.3. MỘT SỐ VỤ VIỆC ĐIỂN HÌNH ............................................................ 35
2.3.1. Vụ án ly hôn của chị Đinh Thị Ngân và anh Đỗ Hữu Hiền. ............. 35
2.3.2. Vụ án ly hôn của anh Vũ Ngọc Anh và chị Nguyễn Thị Thanh Ngà..41
2.3.3. Vụ án ly hôn của chị Khƣơng Thị Thu Hà và anh Võ Tuấn Dũng ... 47
2.4. NHỮNG KHÓ KHĂN, VƢỚNG MẮC KHI GIẢI QUYẾT CÁC VỤ
VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG KHI LY HÔN ...................... 54

2.5. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHIA
TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN .................................. 57
2.6. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
KHI LY HÔN .................................................................................................. 61
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bên cạnh việc điều chỉnh quan hệ nhân thân, pháp luật cũng dành nhiều
quy định điều chỉnh các quan hệ tài sản giữa gia đình và các chủ thể khác
trong xã hội, giữa các thành viên trong gia đình và đặc biệt là giữa vợ chồng.
Những quy định pháp luật về tài sản của vợ chồng cũng thƣờng xuyên đƣợc
rà soát, sửa đổi, bổ sung để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh.
Tuy nhiên thực tiễn phát triển nhanh, đa dạng của đời sống kinh tế - xã
hội đã và đang làm bộc lộ nhiều điểm chƣa hợp lý của pháp luật hiện hành.
Trong đó, chia tài sản chung của vợ chồng nổi lên nhƣ là vấn đề bức thiết bởi
những năm gần đây, các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng, đặc
biệt là chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn gia tăng nhanh chóng. Hơn
nữa, những tranh chấp này thƣờng là những tranh chấp phức tạp và kéo dài,
gây ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tình cảm giữa các thành viên trong gia đình
và sự ổn định của xã hội. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên một phần do
tính chất đa dạng, phức tạp của các quan hệ tài sản của vợ chồng. Mặt khác,
tình trạng gia tăng các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng cũng
cho thấy những bất cập, điểm khuyết của pháp luật về chia tài sản chung của
vợ chồng. Các quy định này đã bộc lộ nhiều hạn chế, vƣớng mắc gây khó

khăn thậm chí lúng túng trong quá trình áp dụng pháp luật của các đƣơng sự
cũng nhƣ của Tòa án khi giải quyết các vấn đề liên quan đến chia tài sản
chung của vợ chồng. Thực trạng trên cho thấy, có một công trình nghiên cứu
sâu về chế định chia tài sản chung của vợ chồng nhằm nhận dạng những
khuyết thiếu của pháp luật dƣới góc độ thực tiễn áp dụng là hết sức cần thiết.
Đây chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài "Thực tiễn giải quyết các vụ
việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn trên địa bàn thành phố Sơn
La" làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sĩ của mình.


2

2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết ở cấp độ
khác nhau đề cập đến vấn đề chia tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn. Có
thể phân loại các công trình nghiên cứu này thành ba nhóm lớn nhƣ sau:
Nhóm các luận văn, luận án, các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong
nhóm này có:
- Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam, Nguyễn
Văn Cừ, luận án tiến sĩ Luật học, 2005;
- Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam, thực tiễn áp
dụng và hướng hoàn thiện, Nguyễn Thị Hạnh, Luận văn thạc sĩ, năm 2014;
- Xác định chế độ tài sản của vợ chồng - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn", Nguyễn Hồng Hải, luận văn thạc sĩ, năm 2002;
- Một số vấn đề về tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, Trần Đức Hoài, luận văn thạc sĩ, năm 2006.
- Sở hữu chung của vợ chồng theo quy định của pháp luật hiện hành –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nguyễn Thùy Linh, Luận văn thạc sĩ,
năm 2012;
- Chia tài sản chung của vợ chồng theo luật HN&GĐ – Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn”, Nguyễn Thanh Huyền, năm 2013;
- Thực trạng giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại
Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, Đỗ Việt Anh, Luận văn thạc sĩ, năm
2017.
Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo, trong nhóm này có thể kể
đến một số công trình tiêu biểu nhƣ:
- Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hƣờng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về Luật HN&GĐ năm 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Phùng Trung Tập, Luận bàn về các hình thức sở hữu và sở hữu chung
hợp nhất của vợ chồng, NXB chính trị - hành chính, năm 2011.


3

- Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật HN&GĐ
Việt Nam, Nxb Tƣ pháp, 2008…
Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí, có thể kể đến một số bài nhƣ:
- Nguyễn Hồng Nam, Chia nhà đất khi vợ chồng ly hôn, Tạp chí TAND
số 06/ 2006;
- Ngô Thị Hƣờng, Đăng ký quyền sở hữu tài sản và việc xác định tài sản
chung, riêng của vợ chồng”, Tạp chí Luật học số 10/2008;
- Nguyễn Hồng Hải, Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong
TKHN theo pháp luật HN&GĐ hiện hành, Tạp chí Luật học số 5/ 2003;
- Nguyễn Phƣơng Lan, Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của
vợ chồng trong TKHN, Tạp chí Luật học số 6/2002…
Các bài viết này thƣờng phân tích rất sâu một vấn đề trong chế định chia
tài sản chung của vợ chồng, nhƣng do tính chất của một bài viết nghiên cứu,
các tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh hoặc một trƣờng hợp cụ thể liên
quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng. Một điểm chung của cả ba
nhóm công trình nghiên cứu kể trên, đó là phần lớn các tác giả thƣờng thiên

về việc phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về chia tài sản chung của vợ
chồng mà chƣa soi chiếu sự phản ánh của toàn bộ các quy định pháp luật đó
vào thực tiễn cuộc sống. Một số tác giả, trong các công trình nghiên cứu kể
trên, cũng đã có dẫn chiếu, liên hệ thực tiễn áp dụng một số quy định pháp
luật, tuy nhiên, sự liên hệ, phân tích đó chỉ có tính chất minh họa cho một số
trƣờng hợp cụ thể mà chƣa có sự soi chiếu một cách tổng thể, toàn diện tất cả
các khía cạnh của chế định chia tài sản chung của vợ chồng vào thực
tiễn. Nhƣ vậy, mặc dù đã có không ít công trình nghiên cứu liên quan đến vấn
đề chia tài sản chung của vợ chồng nhƣng những công trình này chủ
yếu nghiên cứu, phân tích chế độ tài sản của vợ chồng dƣới góc độ lý luận,
mà chƣa chuyên sâu, tập trung vào thực tiễn áp dụng pháp luật về chia tài sản
chung của vợ chồng, nhất là việc áp dụng tại một địa phƣơng (trừ đề tài luận


4

văn thạc sĩ của tác giả Đỗ Việt Anh nhƣ đã nêu ra ở trên). Do vậy, việc thực
hiện đề tài "Thực tiễn giải quyết các vụ việc chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn trên địa bàn thành phố Sơn La" là hoàn toàn mới,
không có sự trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận cũng
nhƣ nội dung, ý nghĩa các quy định của pháp luật hiện hành về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn. Đồng thời, thông qua quá trình làm việc, tìm
hiểu thực trạng giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn trên địa bàn thành phố Sơn La, phát hiện những bất cập và đƣa ra kiến
nghị nhằm bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt đƣợc mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra đối với luận văn

là:
- Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận về chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn;
- Phân tích những quy định pháp luật hiện hành về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn;
- Làm rõ thực trạng cũng nhƣ các vƣớng mắc trong quá trình áp dụng
pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn trên địa bàn thành
phố Sơn La;
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu Luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn giải
quyết các vụ việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn trên địa bàn


5

thành phố Sơn La.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các quy định của pháp luật về tài sản
của vợ chồng, trong đó nghiên cứu cụ thể các quy định về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 và một số văn bản
hƣớng dẫn áp dụng pháp luật.
Đề tài này không nghiên cứu vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài, mà chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn đối với quan hệ hôn nhân trong nƣớc theo
pháp luật Việt Nam từ thực tiễn giải quyết các vụ việc chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn trên địa bàn thành phố Sơn La.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu đƣợc đặt ra, tác giả nghiên
cứu đề tài dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng một số phƣơng
pháp nhƣ:
- Phƣơng pháp lịch sử: Sử dụng khi nghiên cứu các quy định của pháp
luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn có trƣớc khi Luật HN&GĐ
năm 2014 ban hành.
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp đƣợc sử dụng khi phân tích về
trƣờng hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn; khái quát đƣợc những
nội dung cơ bản của từng vấn đề trong luận văn.
- Phƣơng pháp so sánh đƣợc thực hiện khi đối chiếu các quy định của
pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ
năm 2014 so với các quy định của pháp luật trƣớc đây.
- Phƣơng pháp thống kê đƣợc thực hiện trong quá trình khảo sát thực
tiễn công tác giải quyết án HN&GĐ tại Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, từ
các số liệu cụ thể giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng;


6

qua đó chỉ ra những điểm chƣa phù hợp của pháp luật hiện hành về chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu về áp dụng pháp luật về
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại một địa phƣơng có nhiều đồng
bào dân tộc thiểu số sinh sống. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần
xây dựng các giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật về sở hữu chung của vợ
chồng và việc chia tài sản chung của vợ chồng, xây dựng cơ chế thực thi pháp
luật về vấn đề này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết các
tranh chấp có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.

Luận văn có thể là tài liệu tham khảo có giá trị cho nghiên cứu, giảng
dạy và học tập luật học tại các cơ sở đào tạo luật ở nƣớc ta; đặc biệt, đối với
chuyên ngành luật HN&GĐ và pháp luật Dân sự.
Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực cho mọi cá nhân, đặc biệt là
cho các cặp vợ chồng tìm hiểu các quy định về chế độ sở hữu chung hợp nhất
của vợ chồng; biết đƣợc cơ sở pháp lý tạo lập các loại tài sản chung của vợ,
chồng; quyền và nghĩa vụ cụ thể của vợ, chồng đối với tài sản chung này; các
trƣờng hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng. Từ đó, góp phần
thực hiện pháp luật, xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc, bền
vững.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về tài sản chung vợ chồng và chia
tài sản chung vợ chồng khi ly hôn.
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn trên địa bàn thành phố Sơn La.


7

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TÀI SẢN CHUNG VỢ
CHỒNG, VÀ CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
1.1. TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm tài sản
Tài sản của vợ chồng cũng là một loại tài sản theo pháp luật dân sự,
vì vậy, nghiên cứu vấn đề tài sản của vợ chồng phải đặt trong bối cảnh của
chế định tài sản nói chung. Tài sản là đối tƣợng của quyền sở hữu, là khách

thể của phần lớn các quan hệ pháp luật dân sự, đƣợc quy định chung trong
BLDS.
Điều 105, BLDS năm 2015 quy định: "Tài sản là vật, quyền, giấy tờ có
giá và các quyền tài sản"; "tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất
động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong
tương lai". Theo cách liệt kê trên, các đối tƣợng là tài sản đƣợc xác định nhƣ
sau:
Vật: Đƣợc coi là tài sản phải là một bộ phận của thế giới vật chất và
nằm trong sự kiểm soát của con ngƣời; hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm: Những
vật đang thực tế tồn tại và những vật đang trong quá trình hình thành hoặc
những vật tuy chƣa bắt đầu hình thành nhƣng chắc chắn sẽ có trong tƣơng lai
- vật hình thành trong tƣơng lai. Hiểu theo nghĩa rộng nhƣ vậy sẽ giúp chúng
ta có một cái nhìn đa dạng về các loại tài sản, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
mở rộng quyền lựa chọn tài sản của các chủ thể trong các giao dịch dân sự.
Mặt khác, cách quy định này đã thể hiện đƣợc tinh thần của nguyên tắc "tự
do, tự nguyện cam kết" của luật dân sự.
Tiền: Theo kinh tế chính trị học là vật ngang giá chung đƣợc sử dụng
làm thƣớc đo giá trị của các loại tài sản khác. Tiền do Nhà nƣớc độc quyền


8

phát hành, việc phát hành tiền đƣợc coi là một trong những biểu hiện của chủ
quyền quốc gia. Vì thế, việc phát hành, đƣa tiền vào hay rút tiền khỏi lƣu
thông đều đƣợc Nhà nƣớc kiểm soát chặt chẽ.
Tiền thực hiện 3 chức năng chính là: Công cụ thanh toán đa năng, công
cụ tích lũy tài sản và công cụ định giá các loại tài sản khác.
Một số vấn đề còn nhiều tranh cãi đó là sự phân biệt giữa nội tệ và ngoại
tệ. Dƣới góc độ kinh tế thì nội tệ hay ngoại tệ cũng đều là tiền. Tuy nhiên, do
yêu cầu quản lý nhà nƣớc về tiền tệ, việc sử dụng ngoại tệ trong giao dịch dân

sự phải phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam. Điều 22 Pháp lệnh
ngoại hối năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2013 đã quy định về hạn chế sử
dụng ngoại hối, cụ thể: Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch thanh toán,
niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng thỏa thuận và
các hình thức tƣơng tự khác của ngƣời cƣ trú, ngƣời không cƣ trú không đƣợc
thực hiện bằng ngoại hối, trừ các trƣờng hợp đƣợc phép theo quy định của
Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam.
Giấy tờ có giá: BLDS 2015 không đƣa ra định nghĩa cụ thể về "giấy tờ
có giá". Để hiểu rõ hơn khái niệm này, cần căn cứ theo quy định của luật
chuyên ngành. Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam năm
2010 đã định nghĩa: "Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ
giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong
một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác".
Dựa trên các quy định pháp luật hiện hành, thì "giấy tờ có giá" bao gồm:
hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc và các công cụ chuyển nhƣợng khác
(Điều 1 Luật Các công cụ chuyển nhƣợng 2005); trái phiếu chính phủ, trái
phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu (điểm c khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối
năm 2005); tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và các công cụ khác làm
phát sinh nghĩa vụ trả nợ (khoản 16 Điều 3 Luật Quản lý nợ công năm 2009);
các loại chứng khoán (khoản 1 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2013); trái


9

phiếu doanh nghiệp (Điều 2 Nghị định số 52/2006/NĐ-CP của Chính phủ về
Phát hành trái phiếu doanh nghiệp).
Có thể thấy, xuất phát từ định nghĩa về "giấy tờ có giá" tại khoản 8 Điều
6 Luật Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam năm 2010, cũng nhƣ từ thực tiễn đời
sống pháp lý, thực chất, "giấy tờ có giá" luôn đƣợc tiếp cận dƣới ý nghĩa là
một quyền tài sản, giá trị tài sản không nằm trực tiếp trên các loại giấy tờ này,

mà chúng chỉ đơn thuần là những "bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ", các
chủ thể không thể khai thác trực tiếp công năng của các loại giấy tờ này mà
thực tế họ chỉ khai thác quyền tài sản đƣợc ghi nhận trong các "giấy tờ có giá"
đó.
Quyền tài sản: Theo định nghĩa tại Điều 115 BLDS 2015, quyền tài sản
là quyền trị giá đƣợc bằng tiền, bao gồm: quyền tài sản đối với đối tƣợng
quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Hiện nay,
pháp luật nƣớc ta công nhận một số quyền tài sản nhƣ: QSDĐ, quyền khai
thác tài nguyên thiên nhiên, quyền yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại đối với tài sản
bị xâm hại, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp, quyền đòi nợ…
1.1.1.2. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Theo khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 "tài sản do vợ, chồng
tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong TKHN,…". Theo
khoản 13 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 "TKHN là khoảng thời gian tồn tại
quan hệ vợ chồng tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn
nhân”. Thông thƣờng, TKHN bắt đầu từ khi kết hôn, tức là ngày Ủy ban nhân
dân xã, phƣờng, thị trấn nơi cƣ trú của vợ hoặc chồng vào sổ đăng ký kết hôn
và cấp giấy chứng nhận kết hôn cho hai vợ chồng và chấm dứt khi một bên
vợ, chồng chết; vợ, chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết hoặc vợ chồng ly hôn
(từ khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật). Đối với trƣờng


10

hợp nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng trƣớc ngày 03/01/1987 mà không đăng
ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng đƣợc tính từ ngày hai bên bắt đầu thực hiện
quan hệ chung sống vợ chồng1. Nhƣ vậy, những tài sản mà vợ, chồng có đƣợc
trong TKHN đều đƣợc coi là tài sản chung của vợ chồng (trừ những tài sản

mà pháp luật quy định là tài sản riêng của vợ, chồng); vợ chồng có quyền
bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà không phụ thuộc vào
khả năng trực tiếp tạo gia tài sản hay công sức đóng góp của mỗi bên.
Về nguồn gốc của tài sản: "Tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ,
chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong TKHN…tài
sản mà vợ, chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung".
Tài sản chung của vợ chồng có thể do công sức của cả hai vợ chồng tạo
ra hoặc chỉ do vợ (chồng) tạo ra trong TKHN, bằng cách trực tiếp (lao động
sản xuất, tiền lƣơng…) hoặc gián tiếp thông qua các giao dịch dân sự (buôn
bán, đầu tƣ tìm kiếm lợi nhuận…). Hoa lợi, lợi tức từ cả tài sản chung và tài
sản riêng có đƣợc trong TKHN.
Theo điểm b khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 "lao động của
vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập", vì thế trong
cuộc sống gia đình, vì sức khỏe, vì hoàn cảnh và khả năng lao động mà tài sản
chỉ do một ngƣời tạo ra thì vẫn coi nhƣ vợ chồng cùng đóng góp công sức vào
việc tạo lập khối tài sản chung. Trong lao động của ngƣời chồng đã bao hàm
cả lao động của ngƣời vợ và ngƣợc lại, bởi vì nếu nhƣ không có vợ hoặc
chồng chăm lo cho gia đình, bảo quản tài sản, chăm sóc con cái tạo điều kiện
cho ngƣời kia lao động tạo thu nhập thì khó có thể tạo ra đƣợc khối tài sản

1

Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình;
Thông tƣ liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tƣ pháp hƣớng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày
09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình.


11


chung một cách trọn vẹn. Đó chính là đặc trƣng mang tính cộng đồng của
cuộc sống vợ chồng.
Những tài sản mà "vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung" (khoản 1 Điều
33 Luật HN&GĐ năm 2014 ): Điều này có thể hiểu, có những tài sản của sở
hữu riêng của vợ hoặc chồng, cho vợ (chồng) có đƣợc trƣớc khi kết hôn, đƣợc
thừa kế, đƣợc tặng cho riêng về nguyên tắc là tài sản riêng. Tuy nhiên, những
tài sản đó sẽ là tài sản chung, nếu nhƣ trong TKHN vợ chồng có thỏa thuận
coi là tài sản chung của vợ chồng. Quyết định này hoàn toàn hợp lý và có cơ
sở, bởi vì, trong cuộc sống gia đình, nhiều tài sản riêng của vợ chồng đƣợc
đƣa vào sử dụng chung, phục vụ nhu cầu sinh hoạt chung thì đó là tài sản
chung của vợ chồng nếu cả hai bên vợ chồng đều có thỏa thuận và đồng ý
nhập vào khối tài sản chung, thì đó là tài sản chung của vợ chồng.
Nếu vợ chồng xảy ra tranh chấp, để xác định tài sản chung, riêng nhƣng
mỗi bên đều không có chứng cứ chứng minh đó là tài sản riêng của mình thì
coi đó là tài sản chung của vợ chồng (khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ năm
2014). Quy định này mang tính nguyên tắc suy đoán, đƣợc áp dụng trong
trƣờng hợp chia tài sản chung khi ly hôn hoặc trƣờng hợp khác khi có tranh
chấp về tài sản chung của vợ chồng.
"QSDĐ mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ,
chồng. QSDĐ mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế
riêng chỉ là tài sản chung khi thỏa thuận" (khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ
năm 2014). QSDĐ là tài sản đặc biệt và có giá trị lớn. Trên thực tế, ngƣời
chồng thƣờng nắm giữ tài sản trong gia đình và thƣờng đứng tên trong các
giấy chứng nhận QSDĐ. Vì vậy, việc quy định QSDĐ có đƣợc sau khi kết
hôn cũng là tài sản chung của vợ chồng có ý nghĩa bảo đảm sự bình đẳng của
vợ chồng (khoản 2 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014).
Quy định này hoàn toàn phù hợp với nội dung của BLDS về quyền sở
hữu. Theo quy định tại Điều 207, 210 BLDS năm 2015, "sở hữu chung là sở



12

hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản, bao gồm sở hữu chung theo phần và
sở hữu chung hợp nhất. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó
phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu không đƣợc xác định đối với tài sản
chung. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối
với tài sản thuộc sở hữu chung". Chế độ sở hữu chung hợp nhất của của vợ
chồng hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với truyền thống gia đình Việt Nam.
Khoản 1 Điều 34 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định tài sản thuộc sở hữu
chung của vợ chồng theo quy định của pháp luật đăng ký quyền sở hữu,
quyền sử dụng thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận
quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trƣờng hợp vợ chồng có thoả
thuận khác. Đây là quy định khẳng định sự bình đẳng vợ chồng trong quan hệ
về tài sản, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ quyền sở hữu của vợ,
chồng. Theo khoản 1 Điều 12 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng
12 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ thì tài
sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký phải ghi tên cả vợ chồng,
bao gồm: QSDĐ, những tài sản khác mà pháp và pháp luật quy định phải
đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu. Thực hiện quy định này, hiện nay các
cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền trong việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ, cấp
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và giấy đăng ký ô tô, xe máy2 đã tiến
hành ghi tên vợ chồng, những ngƣời đã đƣợc cấp giấy chứng nhận có thể yêu
cầu cấp lại giấy tờ ghi tên cả vợ và chồng.
1.1.2. Căn cứ xác định tài sản chung vợ chồng
Pháp luật của nhiều nƣớc trên thế giới thừa nhận quyền tự do thỏa
thuận của vợ chồng về chế độ tài sản hay còn đƣợc gọi là khế ƣớc hôn
nhân hoặc hôn ƣớc. "Hôn ƣớc là chứng thƣ thể hiện sự thỏa thuận của ngƣời
kết hôn hay của vợ chồng về chế độ tài sản của họ trong hôn nhân" 3. Bởi vậy,


2
3

Thông tƣ 15/2014/TT-BCA của Bộ Công an ngày 04/04/2014 quy định về đăng ký xe.
Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của yợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam, Luận án tiến sĩ, năm 2005


13

thành phần, nguồn gốc của khối tài sản chung của vợ chồng thƣờng phụ thuộc
vào sự thỏa thuận của vợ chồng đƣợc thể hiện trong hôn ƣớc. Điển hình cho
cách quy định này là BLDS Pháp, BLDS Nhật Bản…
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chế độ tài sản của vợ chồng
là chế độ tài sản có thể là chế độ theo thỏa thuận. Chế độ tài sản pháp định là
chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu từ trƣớc về căn cứ, nguồn gốc,
thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có);
quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với từng loại tài sản đó; các trƣờng hợp
và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phƣơng thức thanh toán liên
quan đến các khoản nợ chung hay nợ riêng của vợ, chồng. Theo chế độ tài sản
này, vợ chồng phải tuân theo quy định pháp luật về các vấn đề liên quan đến
tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng nhƣ nguồn gốc tài
sản, nguyên tắc sử dụng, định đoạt tài sản…Quan điểm lập pháp này đƣợc
duy trì và thể hiện thống nhất trong Luật HN&GĐ của Nhà nƣớc ta qua các
thời kỳ.
Luật HN&GĐ năm 1959 đã có những quy định về quyền bình đẳng của
vợ chồng về tài sản chung theo hƣớng: "vợ và chồng có quyền sở hữu,
hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi
cưới". Với quy định trên, mọi tài sản của vợ, chồng đều là tài sản
chung của vợ chồng không phân biệt tài sản do ai tạo ra, có trƣớc hay trong
TKHN. Do đó, khái niệm tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng

không tồn tại trong các quy định của Luật HN&GĐ năm 1959.
Luật HN&GĐ năm 1986 đã sửa đổi quy định trên của Luật HN&GĐ
năm 1959 theo hƣớng vợ chồng có tài sản chung và mỗi bên có quyền có tài
sản riêng; nội dung này tiếp tục đƣợc kế thừa và phát triển trong Luật
HN&GĐ năm 2000 và Luật HN&GĐ năm 2014.
Khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về tài sản chung của
vợ chồng nhƣ sau: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo


14

ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong TKHN, trừ trường
hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng
được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng
thỏa thuận là tài sản chung. QSDĐ mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là
tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế
riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản
riêng”.
Từ quy định nói trên có thể thấy việc hình thành tài sản chung rất đa
dạng, gồm những loại tài sản sau:
1.1.2.1. Thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong TKHN
Theo từ điển tiếng Việt thì “thu nhập” đƣợc hiểu là “nhận đƣợc tiền bạc,
của cải vật chất từ một hoạt động nào đó”4. Thu nhập hợp pháp đƣợc hiểu là
thu nhập đƣợc tạo ra từ những hoạt động hợp pháp của vợ, chồng và đƣợc
Nhà nƣớc kiểm soát, bảo vệ. Đối với những thu nhập không chứng minh đƣợc
là bất hợp pháp thì cũng đƣợc coi là thu nhập hợp pháp.
Việc xác định thời điểm phát sinh quan hệ hôn nhân, theo nguyên tắc
chung phải dựa trên Giấy chứng nhận kết hôn. Vì sau khi kết hôn, vợ chồng
cùng chung sống với nhau, cùng tạo dựng tài sản nhằm đảm bảo cuộc sống

gia đình, vì lợi ích gia đình. Quan hệ hôn nhân dƣới chế độ XHCN đƣợc xác
lập dựa trên cơ sở tình cảm yêu thƣơng, gắn bó chung sống với nhau suốt đời
giữa vợ và chồng. TKHN là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng trƣớc
pháp luật. Những tài sản (bao gồm cả động sản và bất động sản) do vợ, chồng
tạo ra trong TKHN (trừ tài sản riêng của vợ, chồng) đều thuộc khối tài sản
chung của vợ chồng.
Thứ nhất, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và
những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong TKHN.
4

Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2003


15

Thu nhập của vợ chồng thuộc khối tài sản chung là những lợi ích vật
chất mà vợ, chồng có đƣợc do tham gia lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Thông thƣờng những tài sản đó có thể là do vợ và chồng cùng trực tiếp
lao động, hoặc do một trong hai bên trực tiếp lao động để làm ra sản phẩm;
sản phẩm này để dùng trong gia đình hoặc đem bán để có sự tích lũy; tài sản
chung cũng có thể hình thành qua việc vợ, chồng đƣợc trả công lao động hoặc
vợ, chồng tổ chức sản xuất, kinh doanh mà có thu nhập, v.v…
Có thể thấy rằng thông qua sức lao động của vợ, chồng đƣợc thể hiện
dƣới các hình thức khác nhau để tạo nguồn thu nhập, tạo ra tài sản trong gia
đình, dù các tài sản đó đƣợc hình thành dƣới bất kỳ hình thức nào, nhƣng nếu
đó là kết quả của lao động chân chính, đều đƣợc công nhận là tài sản chung
của vợ chồng hoặc đƣợc hiểu là vợ chồng dựa theo công việc, chuyên môn
của mình đã trực tiếp tạo ra tài sản đó bằng chính sức lao động của mình nhƣ
xây dựng nhà ở, mua sắm đồ nội thất trong gia đình…hay thuê ngƣời khác tạo
ra những tài sản đó thông qua các hợp đồng cụ thể. Vợ hoặc chồng cũng có

thể tạo ra tài sản bằng cách sử dụng tiền bạc thông qua các hợp đồng để mua
sắm tài sản nhƣ ti vi, tủ lạnh, xe máy, xe ô tô…hay chuyển quyền sở hữu tài
sản từ ngƣời khác sang quyền sở hữu của mình hoặc để đầu tƣ kinh doanh thu
lợi nhuận. Nhƣ vậy những tài sản tạo ra trong TKHN thuộc khối tài sản chung
của vợ chồng.
Thu nhập hợp pháp của vợ chồng do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh đƣợc coi là loại tài sản chủ yếu thuộc tài sản chung của vợ chồng. Thu
nhập của vợ chồng thuộc khối tài sản chung của vợ chồng là những giá trị vật
chất mà vợ, chồng có đƣợc do tham gia lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh. Cụ thể theo tính chất nghề nghiệp, chuyên môn, công việc mà vợ
chồng thực hiện, vợ chồng đƣợc hƣởng thành quả lao động hoặc các lợi nhuận
do kinh doanh mang lại, hoa lợi, lợi tức thu đƣợc từ các loại tài sản của vợ
chồng do kinh doanh mang lại. Thu nhập của vợ chồng gồm nhiều loại nhƣng


16

thu nhập do lao động là loại thu nhập ổn định, cơ bản nhất. Theo điểm b
khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 “lao động của vợ, chồng trong gia
đình được coi như là lao động có thu nhập”, vì thế trong cuộc sống gia đình
vì sức khoẻ, hoặc vì hoàn cảnh và khả năng lao động mà tài sản chỉ do một
ngƣời tạo ra thì vẫn coi nhƣ vợ, chồng cùng đóng góp công sức vào việc tạo
lập khối tài sản chung. Dù vợ, chồng làm việc ở những ngành, nghề khác
nhau với mức thu nhập khác nhau song mọi thu nhập từ lao động, hoạt động
sản xuất kinh doanh của vợ chồng đều là tài sản chung của vợ chồng. Điều
này phù hợp với điều kiện kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng XHCN ở nƣớc
ta hiện nay và cũng hoàn toàn phù hợp với quy định về quyền nhân thân của
vợ chồng là tự do lựa chọn việc làm. Chính công việc cũng nhƣ công sức lao
động của mỗi ngƣời đều góp phần vào khối tài sản chung của gia đình.
Theo tính chất nghề nghiệp chuyên môn, công việc mà vợ chồng thực

hiện, đƣợc hƣởng thành quả lao động hoặc các lợi nhuận do kinh doanh mang
lại, cũng nhƣ các hoa lợi, lợi tức thu đƣợc từ các loại tài sản của vợ chồng
trong quá trình lao động sản xuất, kinh doanh. Trong đời sống xã hội hiện
nay, thu nhập chủ yếu của các cặp vợ chồng là tiền lƣơng, tiền công lao động,
làm kinh tế gia đình (trồng trọt, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp…) hoặc lợi
nhuận thông qua kinh doanh, sản xuất.
Ngoài ra, khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 còn quy định tài sản
chung của vợ chồng cũng bao gồm các thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân. Cụ thể hóa quy định này, tại Điều 9 Nghị định
126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ Quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật HN&GĐ (Nghị định 126/2014/NĐ-CP) xác
định rõ: Thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong TKHN gồm:
“1. Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ trường
hợp quy định tại Khoản 3 Điều 11 của Nghị định này;


17

2. Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của
BLDS đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ
quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước;
3. Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật”.
Ta có thể thấy, tài sản chung của vợ chồng đƣợc tạo dựng không phụ
thuộc công đóng góp ít hay nhiều khác nhau của vợ và chồng. Trong thực tế,
do điều kiên sức khỏe, nghề nhiệp…đã dẫn tới thu nhập của mỗi ngƣời cao
thấp khác nhau, nhƣng không vì thế mà quyền và nghĩa vụ của họ đối với
khối tài sản chung khác nhau. Tại Điều 213 BLDS năm 2015 đã dự liệu: “Sở
hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất. vợ chồng cùng nhau tạo
lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền
ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Vợ

chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung. Tài sản chung vủa vợ chồng có thể chia theo thỏa
thuận hoặc theo quyết định của Toà án.”
Thứ hai, tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm QSDĐ mà vợ chồng
có được sau khi kết hôn (khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014).
Theo Điều 53 Hiến pháp năm 2013 và quy định trong BLDS năm 2005
về hình thức sở hữu thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nƣớc thống nhất
và quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật bảo đảm đúng mục đích và có
hiệu quả. BLDS và pháp luật đất đai có quy định QSDĐ là một loại tài sản có
tính chất đặc thù. Nhà nƣớc giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng lâu
dài (Điều 53, 54 Hiến pháp năm 2013). Cá nhân có quyền chuyển đổi, chuyển
nhƣợng, cho thuê, thế chấp, để lại QSDĐ. QSDĐ mà vợ chồng có đƣợc sau
khi kết hôn thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Trong thực tế khi xảy ra
vấn đề chia tài sản là QSDĐ khi ly hôn thì luật phải dự liệu để xác định rõ tài
sản chung của vợ chồng là QSDĐ có thuộc khối tài sản chung của vợ chồng
hay không hay thuộc tài sản riêng để căn cứ vào đó mà Toà án có thể giải


18

quyết các tranh chấp theo quy định pháp luật. Theo quy định tại Luật
HN&GĐ năm 2014:
+ QSDĐ mà cả vợ chồng hoặc mỗi bên vợ, chồng đƣợc Nhà nƣớc giao,
kể cả giao khoán là tài sản chung của vợ chồng (các QSDĐ đối với đất nông
nghiệp trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối, đất lâm
nghiệp trồng rừng….).
+ Sau khi kết hôn, QSDĐ mà cả vợ và chồng hay chỉ mỗi bên vợ hoặc
chồng đƣợc Nhà nƣớc cho thuê là tài sản chung của vợ chồng, cũng là tài sản
chung của vợ chồng đối với đất mà vợ chồng nhận thế chấp QSDĐ của ngƣời
khác.

+ QSDĐ mà vợ hoặc chồng có đƣợc trƣớc khi kết hôn, đƣợc thừa kế
riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tóm lại, kể từ thời điểm kết hôn và trong suốt TKHN hợp pháp của vợ
chồng, thì mọi thu nhập của cả hai vợ chồng hoặc thu nhập của vợ hoặc của
chồng có đƣợc đều là tài sản chung của vợ chồng, không có sự phân biệt tài
sản nào do vợ hay chồng tạo ra, nhiều hay ít. Đây là một đặc điểm rất đặc biệt
trong căn cứ xác lập quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng khác biệt so
với sở hữu chung theo phần là phần quyền của mỗi một chủ thể đều đƣợc xác
định trong khối tài sản chung của nhiều chủ thể. Đây là loại tài sản phổ biến
trong khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi kết hôn, quan hệ vợ chồng
đƣợc thiết lập, vợ chồng cùng chung sức đồng lòng trong việc tạo dựng tài
sản bảo đảm các nhu cầu của đời sống chung…
1.1.2.2. Vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung
- Tài sản vợ chồng được hình thành do được thừa kế chung:
Đây là trƣờng hợp xác lập quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng
dựa trên quyền định đoạt của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật về
thừa kế (Điều 234, 609 và 661 BLDS năm 2015). Trong TKHN vợ hoặc
chồng có thể đƣợc thừa kế chung một khối di sản từ ngƣời thân trong gia đình


19

hoặc ngƣời khác. Những tài sản này thuộc khối tài sản chung của vợ chồng.
Tuy nhiên tài sản của vợ chồng đƣợc thừa kế chung mà nằm trong khối tài sản
chung của vợ chồng thì trong di chúc của ngƣời để lại thừa kế, chủ sở hữu
phải tuyên bố rõ là thừa kế chung mà không phân định rõ phần của từng
ngƣời. Còn trƣờng hợp vợ chồng cùng hàng thừa kế theo quy định của pháp
luật về thừa kế thì tài sản đƣợc thừa kế “theo hàng thừa kế” đó thuộc tài sản
riêng của vợ chồng.
Theo quy định của pháp luật thừa kế thì vợ chồng không thể cùng đƣợc

thừa kế chung theo pháp luật của bố mẹ vợ hoặc bố mẹ chồng. Vợ và chồng
chỉ đƣợc thừa kế chung theo di chúc. Điều này đƣợc hiểu là trong di chúc chỉ
định vợ chồng cùng là ngƣời thừa kế chung phần di sản đƣợc định trong di
chúc của ngƣời để lại di sản. Việc xác định vợ chồng cùng đƣợc hƣởng thừa
kế chung theo di chúc là căn cứ xác lập quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng, nhằm phân biệt với trƣờng hợp vợ hoặc chồng đƣợc hƣởng thừa kế
riêng. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp vợ hoặc chồng đều đƣợc thừa kế theo di
chúc của một ngƣời thì phần di sản mà mỗi ngƣời đƣợc hƣởng đã xác định
trong nội dung di chúc thì không đƣợc xem là căn cứ xác lập quyền sở hữu
chung hợp nhất của vợ chồng. Trong trƣờng hợp này thì vợ chồng đƣợc thừa
kế riêng, phần di sản của mỗi ngƣời đƣợc thừa kế là tài sản riêng. Tài sản này
chỉ đƣợc quy định là tài sản chung của vợ chồng khi hai ngƣời đồng ý sáp
nhập vào khối tài sản chung.
- Tài sản chung được hình thành từ việc được tặng cho chung
Đối với trƣờng hợp đƣợc tặng cho chung thì tài sản đó là tài sản chung
của vợ chồng. Vợ chồng có thể đƣợc tặng cho tài sản thông qua hợp đồng
bằng văn bản, và cũng có thể là hợp đồng miệng, hay còn gọi là tặng cho trên
thực tế.
Trong TKHN, vợ chồng có thể đƣợc ngƣời khác tặng cho chung một số
tài sản xác định, những tài sản này thuộc quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng. Trong thực tế, những loại tài sản này rất đa dạng, nhƣng phổ biến nhất


×