Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.07 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀO NGUYỄN HỒNG MINH

BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM ĐỐI VỚI BỊ CAN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành

: Luật Hình sự và Tố Tụng hình sự

Mã số

: 83.80.104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng nghiên cứu)

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


ĐÀO NGUYỄN HỒNG MINH

BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM ĐỐI VỚI BỊ CAN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành

: Luật Hình sự và Tố Tụng hình sự

Mã số

: 83.80.104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng nghiên cứu)

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thanh Mai

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tiễn,
được sự hướng dẫn, giảng dạy của các thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ của bạn
bè, gia đình, tơi đã hồn thành Luận văn thạc sĩ luật học. Qua đây, tôi xin
được gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Các thầy cơ Khoa Hình sự và Tố tụng hình sự Trường Đại học Luật Hà
Nội đã tận tình giảng dạy và truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu
trong suốt thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian

học tập vừa qua.
Đặc biệt tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Phan Thị Thanh Mai
người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong q trình học tập và thực
hiện luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đào Nguyễn Hồng Minh


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình khoa học nghiên cứu độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đào Nguyễn Hồng Minh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

:

Bộ luật hình sự


BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

BPCC

:

Biện pháp cưỡng chế

BPNC

:

Biện pháp ngăn chặn

CQCSĐT

:

Cơ quan cảnh sát điều tra

CQĐT

:

Cơ quan điều tra


HĐXX

:

Hội đồng xét xử

TAND

:

Tòa án nhân dân

TANDTC

:

Tòa án nhân dân tối cao

TAQS

:

Tòa án quân sự

TTHS

:

Tố tụng hình sự


VKS

:

Viện kiểm sát

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VKSQS

:

Viện kiểm sát quân sự


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Số hiệu

Tên bảng


Trang

Tình hình số lượng bị can VKS đã phê chuẩn lệnh
Biểu đồ 3.1

tạm giam trên địa bàn cả nước từ năm 2013 đến

61

năm 2017
Tình hình lệnh tạm giam của CQĐT được VKS phê
Bảng 3.1

chuẩn trên địa bàn cả nước từ năm 2013 đến năm

63

2017
Tình hình thay đổi, hủy bỏ BPNC tạm giam và trả
Bảng 3.2

tự do cho bị can khi có quyết định đình chỉ từ năm

64

2013 đến năm 2017
Số lượng bị can mà VKS đã phê chuẩn lệnh tạm
Bảng 3.3

giam của CQĐT từ năm 2013 đến năm 2017


66

Số lượng bị can mà VKS đã phê chuẩn lệnh tạm
Biểu đồ 3.3

giam của CQĐT từ năm 2013 đến năm 2017

66

Tình hình quá hạn tạm giam từ năm 2013 đến năm
Bảng 3.4.

2017

71

Tình hình quá hạn tạm giam từ năm 2013 đến năm
Biểu đồ 3.4.

2017

71


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM
GIAM ĐỐI VỚI BỊ CAN ........................................................................................ 7
1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can .................................. 7

1.2. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can .............................. 18
1.3. Các quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong Bộ luật Tố tụng hình sự
của một số nước trên thế giới ................................................................................. 22
Kết luận chương 1 ................................................................................................. 26
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM ĐỐI VỚI BỊ CAN................................ 27
2.1. Khái quát lịch sử phát triển của chế định tạm giam trong pháp luật Tố tụng
Hình sự Việt Nam trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ........................ 27
2.2. Quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can trong Bộ luật Tố
tụng Hình sự năm 2015 ......................................................................................... 32
Kết luận chương 2 ................................................................................................. 59
Chương 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM
ĐỐI VỚI BỊ CAN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NÀY ..................................................................... 60
3.1. Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can .................. 60
3.2. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam đối với bị can. ................................................................................ 83
Kết luận chương 3 ................................................................................................. 89
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 91
PHỤ LỤC.............................................................................................................. 97


1

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài


Luật tố tụng hình sự (TTHS) là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, tổng
hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các hoạt
động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Cùng với pháp luật
hình sự, luật TTHS là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu của Đảng và
Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, quyền
làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, duy trì trật
tự, an tồn xã hội, góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục ý thức tôn
trọng chấp hành và tuân thủ pháp luật cho người dân.
Để đảm bảo cho việc phát hiện, xử lý tội phạm và người phạm tội một cách
chính xác, nghiêm minh, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, khơng làm oan
người vơ tội, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) được ra đời, quy định chặt chẽ về
trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động tố tụng và thi hành án hình sự. Trong các
hoạt động TTHS, biện pháp ngăn chặn (BPNC) là một chế định pháp lý có ý nghĩa
quan trọng, nằm trong nhóm của biện pháp cưỡng chế (BPCC). Việc áp dụng các
BPNC để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị
cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn cho quá
trình điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án. Trong hệ thống các
BPNC được quy định trong BLTTHS, tạm giam là BPNC quan trọng và có tính
nghiêm khắc nhất. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam sẽ bị cách ly với xã hội
trong một thời gian nhất định và bị hạn chế quyền cơng dân. Có nghĩa là việc áp
dụng biện pháp tạm giam ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền tự do cá nhân, quyền
bất khả xâm phạm về thân thể của công dân. Đây là những quyền cơ bản đã được
ghi nhận và bảo đảm trong Hiến pháp và pháp luật. Điều 20 Hiến pháp năm 2013
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác


2


xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Chính vì lẽ đó, việc
áp dụng biện pháp tạm giam cần phải hết sức thận trọng để vừa đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân vừa đảm bảo cho việc tiến hành các hoạt động tố
tụng, giải quyết vụ án một cách đúng đắn, nghiêm minh, khơng làm suy giảm lịng
tin của nhân dân vào các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
BLTTHS, trong đó có các quy định về BPNC tạm giam đã được bổ sung, hoàn
thiện ngày càng phù hợp với yêu cầu của thực tiễn TTHS, góp phần ngăn chặn kịp
thời hành vi phạm tội hay những hành vi gây khó khăn cho q trình điều tra, truy
tố, xét xử của bị can, bị cáo, đảm bảo cho việc thi hành án được thuận lợi. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn cịn có những bất cập trong quy
định của pháp luật cũng như những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
biện pháp này như: việc tạm giam bị can một cách tràn lan, tùy tiện, khơng có căn
cứ, khơng đúng trình tự thủ tục, áp dụng biện pháp tạm giam trái pháp luật, sử dụng
biện pháp tạm giam như một biện pháp nghiệp vụ điều tra, thời hạn tạm giam bị can
là quá dài, có những trường hợp giam oan, sai người dân vơ tội… Những sai sót đó
đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Mặc dù cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều biện pháp thanh tra, kiểm
tra, song thực tế vi phạm vẫn xảy ra, gây nhiều hậu quả khơng đáng có, làm giảm
chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, giảm lòng tin của nhân dân
vào Đảng, Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế nêu trên trước hết là do các quy định của
BLTTHS còn nhiều kẽ hở, thiếu chặt chẽ, chồng chéo dẫn đến khó khăn trong cách
hiểu và thống nhất áp dụng pháp luật; trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ trong
các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn bất cập, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới. Thực tiễn áp dụng các BPNC cũng đặt ra nhiều vấn
đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật TTHS tiếp tục nghiên cứu, giải quyết để làm
sáng tỏ các vấn đề về lý luận như bản chất, khái niệm của BPNC tạm giam, trong
khi đó cịn có nhiều ý kiến, quan điểm trái chiều nhau xung quanh vấn đề này. Xuất
phát từ thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu một cách đồng bộ, cụ thể, sâu sắc về



3

BPNC tạm giam đối với bị can về mặt lý luận cũng như thực tiễn trong giai đoạn
hiện nay là rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn, góp phần đảm bảo cho các cơ quan
tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong các giai đoạn điều tra, truy
tố; giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án hình sự. Để đi sâu vào nghiên cứu
phân tích việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với đối tượng là bị can, tác giả đã
lựa chọn đề tài: “Biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can trong tố tụng hình
sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ luật học.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm vừa qua, đã có rất nhiều nghiên cứu về BPNC Tạm giam ở
các mức độ và phạm vi khác nhau, có thể kể đến một số các giáo trình luật như:
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật
TTHS Việt Nam của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật TTHS Việt
Nam của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội hay là giáo trình Luật TTHS của
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh,…BPNC nói chung và BPNC Tạm
giam nói riêng cịn được nghiên cứu ở một số tài liệu chuyên khảo hoặc bình luận
như: cuốn “Biện pháp ngăn chặn, khám xét và kê biên tài sản trong BLTTHS” của
tác giả Nguyễn Mai Bộ, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2004; “Bình luận khoa học
BLTTHS năm 2015” do Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng chủ biên, Nxb. Thế giới,
Hà Nội, 2017;… Có thể nói, đây là một trong số những đề tài nhận được sự quan
tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu với nhiều bài viết được đăng trên các Tạp chí
Kiểm sát, Tạp chí Luật học, Tạp chí Tịa án nhân dân, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật hay Nghiên cứu lập pháp như: “Biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi theo quy định của BLTTHS năm 2015” của tác giả Hà Thái Thơ,

Võ Thị Ánh Phúc (2017); “Biện pháp tạm giam và bảo đảm quyền con người” của
tác giả Nguyễn Văn Lam (2010); “Cần bổ sung, sửa đổi quy định về căn cứ tạm
giữ, tạm giam trong BLTTHS” của tác giả Hoàng Hải Yến (2014); “Kinh nghiệm
một số nước trên thế giới về việc quy định thời hạn tạm giam trong TTHS” của tác
giả Đặng Công Trứ (2015); “Một số quy định về biện pháp tạm giam trong BLTTHS
năm 2015” của tác giả Nguyễn Hồng Thiện (2016); “Hoàn thiện một số quy định


4

của BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC” của tác giả Vũ Gia Lâm
(2012)… Bên cạnh đó, khơng thể khơng kể đến các cơng trình nghiên cứu khoa học
chuyên sâu về đề tài BPNC tạm giam như: Luận án tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn
bắt, tạm giữ, tạm giam trong TTHS Việt Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp” của tác giả Nguyễn Văn Điệp, Hà Nội, 2005; Luận văn Thạc sĩ “Tạm giam
trong TTHS Việt Nam” của tác giả Đoàn Thị Chinh, Hà Nội, 2016; Luận văn thạc sĩ
“Biện pháp tạm giam trong Luật TTHS Việt Nam” của tác giả Triệu Văn Mẫn, Hà
Nội, 2015; đề tài nghiên cứu “Thực trạng áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam trong TTHS” của Viện Khoa học Pháp lý, Hà Nội, 2010 v.v…
Các cơng trình kể trên có ý nghĩa rất lớn, đóng góp một phần đáng kể trong
việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS về BPNC tạm giam cũng như nâng cao
hiệu quả công tác áp dụng pháp luật trên thực tiễn. BLTTHS năm 2015 chính thức
có hiệu lực từ 1/1/2018, đã có một số tài liệu chun ngành hay cơng trình nghiên
cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng BPNC tạm giam theo quy định luật
hiện hành tuy nhiên số lượng này còn hạn chế, một số tác giả mới chỉ đề cập tới
những vấn đề lý luận chung hoặc nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống ở một
vài khía cạnh khác nhau; nhất là việc đi sâu nghiên cứu về BPNC tạm giam đối với
đối tượng là bị can theo quy định của BLTTHS năm 2015 ở cấp độ luận văn thạc sĩ
luật học thì chưa có bất kể cơng trình nào nghiên cứu chun sâu.
3.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn BPNC tạm giam đối với bị can, tác
giả xin kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm
giam đối với đối tượng là bị can trong thực tiễn TTHS Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra và tập trung vào
những vấn đề sau:


5

- Xây dựng khái niệm cơ bản và làm rõ ý nghĩa của BPNC tạm giam đối với
bị can trong TTHS Việt Nam, đồng thời nghiên cứu khái quát về biện pháp tạm
giam theo pháp luật một số nước trên thế giới.
- Nghiên cứu sơ lược quá trình hình thành, phát triển các quy định pháp luật
nước ta về BPNC tạm giam trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành.
Phân tích các quy định cụ thể về BPNC Tạm giam đối với bị can trong BLTTHS
năm 2015, so sánh với các quy định của BLTTHS trước đó.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về
BPNC này; xác định những vướng mắc về mặt luật pháp, những hạn chế, tồn tại
thường mắc phải trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, tìm hiểu nguyên nhân của
những tồn tại, bất cập giữa các quy định pháp luật và thực tiễn.
- Đưa ra được những kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS
năm 2015, đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng BPNC tạm giam đối với bị
can trong thực tiễn.
4.


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung, những quy
định của pháp luật TTHS về BPNC tạm giam đối với bị can và thực trạng áp dụng
biện pháp này trong thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn đó là nghiên cứu khái niệm, ý nghĩa của biện
pháp tạm giam đối với bị can trong TTHS Việt Nam; nghiên cứu quy định của
BLTTHS năm 2015 về tạm giam đối với bị can và so sánh với BLTTHS năm 2003;
thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam trên phạm vi cả nước từ năm 2013 đến năm
2017. Trong luận văn này, tác giả tập trung vào thực trạng áp dụng biện pháp tạm
giam đối với bị can của CQĐT.
5.

Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta trong cơng tác đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm, về
cải cách tư pháp và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Những phương


6

pháp nghiên cứu cụ thể mà tác giả đã sử dụng kết hợp đó là: phương pháp phân tích,
tổng hợp lí thuyết, phân tích, tổng hợp thực tiễn, phương pháp so sánh, phương
pháp lịch sử, phương pháp lí luận kết hợp với thực tiễn, phương pháp nghiên cứu
điển hình.
6.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn


6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn đã góp phần ở mức độ nhất định vào việc nhận thức đầy đủ hơn một
số vấn đề lý luận về BPNC tạm giam đối với bị can, đồng thời, cũng góp phần
thống nhất trong nhận thức về những quy định của pháp luật thực định về BPNC
tạm giam đối với bị can.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu tại
Trường Đại học Luật Hà Nội và các cơ sở đào tạo luật khác. Ngồi ra, luận văn có
thể cung cấp và làm phong phú thêm vào nguồn tài liệu tham khảo cho hoạt động
thi hành các quy định pháp luật về BPNC tạm giam đối với bị can của các cơ quan
tiến hành tố tụng cũng như trong công tác xây dựng pháp luật.
7.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở Đầu, Kết Luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp
ngăn chặn tạm giam đối với bị can
Chương 3: Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can
và một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TẠM GIAM ĐỐI VỚI BỊ CAN

1.1.

Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can

1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam
Pháp luật nói chung và luật TTHS nói riêng đều mang tính giai cấp. Đó là
cơng cụ mà giai cấp thống trị đã ban hành ra làm cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng
cường quyền lực nhà nước, là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt của đời
sống xã hội, thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, bảo vệ sự bền
vững lâu dài và ổn định của chế độ mà giai cấp thống trị đã thiết lập nên. Ở bất kỳ
mỗi quốc gia nào, hiện tượng tội phạm luôn là một vấn đề quan trọng cấp thiết và
có ảnh hưởng tới không chỉ đối với từng cá nhân con người mà còn tác động một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự tồn tại, ổn định của chế độ nhà nước, chế độ
kinh tế - chính trị và xã hội. Chính vì vậy, để đảm bảo cho việc phát hiện, xác định
tội phạm và kẻ phạm tội, truy cứu trách nhiệm hình sự một cách chính xác, khơng
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, luật TTHS đã được ra đời. Thông qua
luật TTHS, Nhà nước thực hiện quyền lực của mình trong lĩnh vực đấu tranh phịng
ngừa và chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an tồn xã
hội; ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước1.
Khi nói đến nhà nước pháp quyền, phải thấy ban đầu đây là quan niệm, tư
tưởng về dân chủ và về phương thức tổ chức quyền lực, trong đó vai trị của pháp
luật luôn được đề cao và phải được bảo đảm tơn trọng2. Pháp luật giữ vị trí tối
thượng trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Sự thống trị của Hiến pháp và
pháp luật chính là cơ sở hình thành nên nhà nước pháp quyền, vì thế, tôn trọng và
thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật là một nhu cầu tự thân và là đòi hỏi
căn bản cho sự tồn tại, phát triển của nhà nước đó. Việc tạo cho được ý thức coi
1

Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, tr. 41.

Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và Pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, tr. 213-214.
2


8

trọng pháp luật trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước là một điều vơ cùng quan
trọng. Chính vì thế, khi mà các biện pháp thuyết phục được áp dụng không đem lại
hiệu quả, các cơ quan pháp luật phải sử dụng đến các biện pháp có tính quyền lực
cưỡng chế như là một công cụ tác động xã hội sắc bén và hữu hiệu để buộc các chủ
thể phải thể hiện sự tôn trọng pháp luật bằng việc thực hiện những hành vi cụ thể
phù hợp với mục tiêu và lợi ích của nhà nước được thể hiện trong các quy phạm
pháp luật mà khơng cịn sự lựa chọn nào khác.
Cưỡng chế nhà nước là yếu tố cần thiết, không thể thiếu được trong cơ chế
điều chỉnh pháp luật3. Theo từ điển Luật học thì BPCC có nghĩa là “biện pháp bắt
buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định
đã có hiệu lực của một cá nhân, tổ chức có thẩm quyền”4. Có thể thấy, đây là biện
pháp mang tính quyền lực nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo
những thủ tục, trình tự và điều kiện nhất định. Tùy vào tính chất, mức độ vi phạm
pháp luật mà cưỡng chế có nhiều hình thức khác nhau như cưỡng chế hành chính,
cưỡng chế dân sự, cưỡng chế tố tụng hình sự v.v… Khác với các BPCC trong các
lĩnh vực pháp luật khác, BPCC trong TTHS được quy định trong BLTTHS, chỉ áp
dụng đối với những chủ thể tham gia TTHS trên cơ sở những căn cứ nhất định, theo
trình tự thủ tục do pháp luật TTHS quy định. Đây là biện pháp có tính quyền lực
nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng (hoặc các cơ
quan khác được nhà nước giao quyền, trừ trường hợp bắt người phạm tội quả tang,
bắt người đang bị truy nã), có tính chất bắt buộc đối với đối tượng bị áp dụng, hạn
chế một số quyền con người, quyền công dân của họ và có mức độ nghiêm khắc cao
hơn so với các BPCC trong lĩnh vực khác. Xuất phát từ bản chất của tội phạm là

hành vi gây nguy hiểm cho xã hội cũng như nhiệm vụ phát hiện, xác định tội phạm,
ngăn chặn tiếp tục phạm tội và xử lý thích đáng đối với người phạm tội mà có thể
thấy, việc áp dụng các BPCC trong lĩnh vực TTHS thực sự là nhu cầu cần thiết
3

Nguyễn Thái Phúc (2016), “Biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế”, Những nội dung mới trong Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 237.
4
Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
tr. 64.


9

khách quan, đảm bảo cho các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án. Trong nhà nước pháp quyền, một yêu cầu trung tâm được đặt ra đó là vấn đề tơn
trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của cơng dân. So với các
lĩnh vực hoạt động nhà nước khác thì TTHS lại là lĩnh vực mà trong đó việc áp
dụng BPCC có nguy cơ xâm phạm nhiều nhất vào quyền nhân thân của cá nhân,
hạn chế đi các quyền tự do cơ bản của họ. Trường hợp áp dụng vượt quá giới hạn,
không tuân thủ các quy định của pháp luật sẽ dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền, đồng
thời các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân bị vi phạm nghiêm trọng. Vì vậy,
cần phải hạn chế việc áp dụng BPCC trong thực tiễn TTHS. Đồng thời, cần thiết
quy định một cách chặt chẽ, chính xác, cụ thể chế định các BPCC TTHS, điều này
không những thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước ta đối với các quyền tự do cá
nhân, mà còn là cơ sở pháp lý bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội đối với
tồn bộ hoạt động TTHS nói chung và áp dụng các BPCC TTHS nói riêng5.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm,
pháp luật TTHS đã quy định một loạt các BPCC khác nhau nhằm thực hiện những
mục đích tố tụng nhất định. Trong các tài liệu, sách chuyên khảo của các tác giả

trong và ngồi nước, có nhiều cách chia các BPCC tùy thuộc vào căn cứ phân loại.
Tác giả luận văn đồng ý với quan điểm phân loại BPCC thành các nhóm sau:
Nhóm thứ nhất: các BPNC, gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt,
tạm giữ, tạm giam, bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hỗn
xuất cảnh.
Nhóm thứ hai: các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ, như:
khám xét, thu giữ thư tín; xét hỏi bị can; lấy lời khai người làm chứng...
Nhóm thứ ba: các biện pháp đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án, gồm: kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, tạm đình chỉ có thời hạn
hoạt động của pháp nhân có liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân, buộc
pháp nhân nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án, áp giải bị can, bị cáo, người

5

Trần Quang Tiệp (2005), Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế Tố tụng Hình sự, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tr. 28.


10

bị kết án, dẫn giải người làm chứng, những biện pháp xử lý do thẩm phán chủ tọa
phiên tòa áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nội quy phiên tòa.6
Trong hệ thống các BPCC TTHS, các BPNC chiếm một vị trí trung tâm và
có vai trị đặc biệt quan trọng. Việc áp dụng BPNC tác động trực tiếp đến khả năng
ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm, trốn tránh, tiêu hủy chứng cứ, ngăn ngừa
tội phạm mới, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; thơng
qua đó, góp phần to lớn vào cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung,
giải quyết các nhiệm vụ của TTHS nói riêng. Việc áp dụng các BPNC còn trực tiếp
hạn chế các quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, nhất là các quyền tự do cơ bản
của con người được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Qua

quá trình nghiên cứu, tác giả thấy BPNC có những dấu hiệu đặc trưng sau đây:
+ Về đối tượng có thể bị áp dụng: người chưa bị khởi tố về hình sự (người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang), bị can, bị cáo, người bị
kết án.
+ Về mục đích áp dụng: nhằm ngăn chặn không cho hành vi phạm tội xảy ra,
ngăn ngừa khả năng tiếp tục phạm tội, các hành vi trốn tránh pháp luật, gây cản trở cho
quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
được tiến hành một cách thuận lợi, nhanh chóng, đúng quy định của pháp luật.
+ Về chủ thể có thẩm quyền áp dụng: đối với người có thẩm quyền thì pháp
luật quy định đó là những người có thẩm quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng
như Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKSQS các cấp; Chánh án, Phó
Chánh án TAND và TAQS các cấp,….hoặc những người giữ chức vụ trong các cơ
quan Nhà nước được giao thực hiện một số hoạt động tố tụng (trừ trường hợp công
dân tham gia vào việc bắt người phạm tội quả tang, bắt người theo lệnh truy nã). Có
thể thấy, chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC là rất rộng tùy theo từng trường hợp,
tính chất, đặc điểm của từng giai đoạn tố tụng hay chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan.

6

Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà
Nội, tr. 229-230 và Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 247.


11

+ Trường hợp áp dụng: chỉ áp dụng BPNC này trong những trường hợp thật
sự cần thiết, dựa trên những căn cứ mà luật đã quy định. Các chủ thể có thẩm quyền
phải xem xét cẩn thận trước khi quyết định áp dụng các BPNC và nếu xét thấy cần
thiết thì có thể thay thế BPNC đang áp dụng bằng BPNC khác.

Từ những dấu hiệu đặc trưng đã nêu trên, có thể hiểu BPNC là: biện pháp
cưỡng chế trong tố tụng hình sự do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với
người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hay phạm tội quả tang) nhằm kịp
thời ngăn chặn hành vi phạm tội xảy ra, ngăn ngừa khả năng tiếp tục phạm tội, trốn
tránh pháp luật, hoặc các hành vi gây cản trở cho quá trình giải quyết vụ án, bảo
đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Tạm giam là BPNC có tính nghiêm khắc nhất trong số các BPNC. Tuy vậy,
biện pháp này khơng phải là hình phạt bởi vì mục đích của nó cũng như mục đích
của BPNC nói chung, khơng nhằm trừng trị người phạm tội hay giáo dục cải tạo họ
trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của
cuộc sống XHCN. Tạm giam được áp dụng trong thời hạn tương đối dài, thậm chí
trong trường hợp đặc biệt thì thời hạn đó cịn dài hơn mức tối thiểu của hình phạt tù
có thời hạn. Bản chất của biện pháp tạm giam không phải là tước bỏ quyền tự do
của bị can, bị cáo mà là tạm thời hạn chế tự do thân thể, tự do đi lại và một số quyền
tự do cá nhân khác nhằm ngăn chặn bị can tiếp tục phạm tội, bảo đảm cho quá trình
giải quyết vụ án hình sự một cách thuận lợi, nhanh chóng. So với các BPNC khác
như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, tạm hỗn xuất cảnh thì
các biện pháp này chỉ ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại trong phạm vi nhất định
hoặc quyền, lợi ích về tài sản mà khơng ảnh hưởng đến các quyền tự do khác của
công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Các biện pháp bắt người, tạm
giữ cũng là BPNC nghiêm khắc, cũng hạn chế một số quyền tự do cơ bản của công
dân nhưng thời hạn hạn chế quyền tự do trong bắt, tạm giữ ngắn hơn nhiều so với
tạm giam.


12

Trong khoa học pháp lý hiện nay, có khá nhiều quan điểm hay cách diễn đạt
khác nhau về khái niệm BPNC tạm giam. Tác giả xin đưa ra một số quan điểm điển

hình như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo
với xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản
trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo đảm bảo cho
việc điều tra, truy tố, xét xử thi hành án được thuận lợi7. Tác giả luận văn thấy đây là
một khái niệm tương đối ngắn gọn, súc tích, thể hiện được nhiều khía cạnh về biện
pháp tạm giam, trong đó có đề cập đến đối tượng áp dụng và bản chất của biện pháp
tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định. Việc
áp dụng biện pháp tạm giam không chỉ cách ly bị can, bị cáo ra khỏi xã hội mà còn
hạn chế một số quyền tự do của công dân đối với họ. Bên cạnh đó, quan điểm này
cũng nêu được mục đích của tạm giam là nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp
luật, cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo đảm
bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử thi hành án được thuận lợi. Có thể thấy, khái
niệm trên có những hạt nhân hợp lý nhưng chưa thực sự đầy đủ, chưa đề cập đến
thẩm quyền áp dụng tạm giam đó là những người có thẩm quyền ở các cơ quan tiến
hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án cũng như căn cứ áp
dụng biện pháp tạm giam được quy định trong BLTTHS.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất được quy
định trong BLTTHS do CQĐT, VKS hoặc Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo
nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm
thi hành án8. Đây là một khái niệm phản ảnh khá đầy đủ về BPNC tạm giam, bao
gồm các khía cạnh về đối tượng áp dụng, thẩm quyền, căn cứ áp dụng của biện pháp
này. Tuy nhiên, định nghĩa chưa nêu lên được điểm đặc trưng của biện pháp tạm
7

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học Luật hình sự, Luật tố tụng hình
sự, Nxb. CAND, Hà Nội, tr. 224.
8


Nguyễn Mai Bộ (2004), Biện pháp ngăn chặn khám xét và kê biên tài sản trong Bộ luật tố tụng hình sự,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 108.


13

giam so với các BPNC khác đó là cách ly bị can, bị cáo khỏi xã hội trong một thời
gian nhất định, hạn chế một số quyền tự do công dân của họ. Đồng thời, về mặt thẩm
quyền áp dụng biện pháp tạm giam, khái niệm này đề cập đến chủ thể có thẩm quyền
là CQĐT, VKS, Tịa án là chưa cụ thể. Ở đây, các cơ quan tiến hành tố tụng đều
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình nhưng thông qua những chủ thể cụ thể chứ
bản thân các cơ quan này không thể tự thực hiện được. Theo quy định của pháp luật
TTHS, việc ra lệnh, quyết định tạm giam thuộc về nhiệm vụ, quyền hạn của những
người có thẩm quyền nhất định trong các cơ quan tiến hành tố tụng và chính họ
cũng là chủ thể sẽ chịu trách nhiệm đối với lệnh, quyết định mà mình đã ban hành
(hoặc phê chuẩn).
Quan điểm thứ ba thì cho rằng: Tạm giam là BPNC trong TTHS do những
người có thẩm quyền của CQĐT, VKS, Tịa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm
tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị
cáo phạm tội nghiêm trọng; phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù
trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội9. Với cách định nghĩa như vậy, biện pháp
tạm giam đã thể hiện được một cách khá rõ ràng về thẩm quyền áp dụng là những
người có thẩm quyền của CQĐT, VKS, Tịa án; đối tượng áp dụng là bị can, bị cáo
cũng như căn cứ áp dụng đúng với quy định tại khoản 1 Điều 88 của BLTTHS Việt
Nam năm 2003. Tuy nhiên, theo ý kiến của tác giả luận văn, việc định nghĩa khái
niệm bám khá sâu vào các căn cứ áp dụng BPNC tạm giam được quy định trong
BLTTHS sẽ mang nặng tính liệt kê, nhất là chỉ phù hợp với các quy định pháp luật
TTHS trước đây và tình hình thực tiễn trong một giai đoạn nhất định. Vấn đề đặt ra
đó là việc các căn cứ áp dụng trước đây khơng cịn phù hợp với tình hình thực tiễn

và khi có luật mới ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung về căn cứ áp dụng thì cách định
nghĩa như trên sẽ khơng đảm bảo tính ổn định, lâu dài và thống nhất.
Qua những phân tích ở trên, có thể thấy, để xây dựng một khái niệm đầy đủ
về BPNC tạm giam cần đưa ra được những điểm đặc trưng của biện pháp đó, gồm có
9

Nguyễn Văn Điệp (2005), Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt Nam
– Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 66


14

các nội dung sau: về bản chất của tạm giam là BPNC trong TTHS với đặc trưng là
cách ly đối tượng áp dụng với xã hội trong thời gian nhất định, hạn chế một số quyền
công dân; chỉ ra đối tượng áp dụng của BPNC này là bị can, bị cáo; thẩm quyền áp
dụng là người có thẩm quyền của CQĐT, VKS, Tòa án; căn cứ áp dụng là những căn
cứ do BLTTHS quy định đồng thời đề cập tới mục đích áp dụng của biện pháp này là
nhằm ngăn chặn việc bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc gây cản trở
cho quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án. Từ những vấn đề đã nêu, tác giả xin đưa ra quan điểm của mình về khái
niệm BPNC này như sau: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự,
do người có thẩm quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng, cách
ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định, hạn chế một số quyền cơng dân
của họ, khi có căn cứ do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, nhằm ngăn chặn việc họ có
điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc gây cản trở cho quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm
cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.”. Tác giả cho rằng đây là một
khái niệm hợp lý, khắc phục được những thiếu sót, hạn chế của những khái niệm
khác, bởi vì nội hàm của nó đã nêu được đầy đủ những đặc điểm của biện phạm tạm
giam. Việc xây dựng được một khái niệm hoàn chỉnh về BPNC tạm giam sẽ tạo ra
cách hiểu thống nhất, góp phần giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đúng

quy định pháp luật, giam đúng đối tượng, giải quyết kịp thời, nhanh chóng vụ án hình
sự, bảo đảm hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, tôn trọng
quyền bất khả xâm phạm về thân thể và các quyền cơ bản khác của công dân được Hiến
pháp và pháp luật quy định.
1.1.2. Khái niệm bị can
Quan hệ pháp luật TTHS là quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tố tụng
được các quy phạm pháp luật TTHS điều chỉnh, trong đó, quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Đây là quan hệ mang
tính quyền lực nhà nước, phát sinh từ khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện hoặc
tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố10. Chủ thể của quan hệ
10

Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, tr. 14.


15

pháp luật TTHS bao gồm một bên là cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng đại diện cho quyền lực nhà nước, một bên là người tham gia tố tụng cũng như
cá nhân, cơ quan, tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án. Luật TTHS quy
định các chủ thể có tư cách pháp lý khác nhau thì có quyền và nghĩa vụ tố tụng khác
nhau. Trong các chủ thể này, bị can là một trong số những người tham gia tố tụng
có quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án hình sự.
Trước hết, theo quy định của pháp luật hiện hành, bị can là người bị buộc tội.
Có thể hiểu, khái niệm buộc tội với đặc điểm là một dạng hoạt động TTHS, có tính
chất đối lập so với hoạt động bào chữa. Nó có vai trị quan trọng và mang tính quy
luật, khơng có chức năng buộc tội thì sẽ khơng có chức năng bào chữa và tất nhiên
cũng khơng có xét xử. Chức năng buộc tội bắt đầu từ thời điểm khởi tố bị can, trừ
một số trường hợp đặc biệt như trường hợp người bị cơ quan có thẩm quyền tạm giữ
hoặc bị bắt và buộc tội kết thúc khi bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp

luật. Những chủ thể thực hiện hoạt động buộc tội bao gồm CQĐT - Điều tra viên,
VKS - Kiểm sát viên; người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ. Nội dung của
chức năng buộc tội đó là phát hiện tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội,
chứng minh lỗi của người đó11. Như vậy, một cách khái quát, người bị buộc tội là
người bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước cơ quan có thẩm quyền khi có căn cứ
cho rằng người đó thực hiện hành vi phạm tội.
Khái niệm bị can được chính thức quy định tại Điều 34 BLTTHS Việt Nam
năm 1988. Cho tới BLTTHS năm 2003 thì khái niệm này cũng khơng có sự thay
đổi, được quy định tại khoản 1 Điều 49: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự”.
Qua các giai đoạn thi hành và áp dụng pháp luật, để đáp ứng những đòi hỏi, yêu cầu
xuất phát từ tình hình thực tiễn, BLTTHS năm 2015 đã được xây dựng và ban hành.
Lần đầu tiên, pháp luật TTHS thừa nhận bị can không chỉ là cá nhân mà cịn có thể
là pháp nhân, quy định tại khoản 1 Điều 60 BLTTHS năm 2015: “Bị can là người
hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự”. Theo quy định này, bị can là người hoặc
pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự bằng quyết định khởi tố bị can của cơ quan có
11

Lê Tiến Châu (2003), “Một số vấn đề về chức năng buộc tội”, Khoa học pháp lý, (03), tr. 43-48.


16

thẩm quyền. Việc xác định một người hoặc pháp nhân có tư cách bị can từ khi nào
rất quan trọng, bởi vì, khi một chủ thể phát sinh tư cách bị can sẽ đồng nghĩa với
việc chủ thể đó có các quyền và nghĩa vụ của bị can.
Thực tiễn thi hành pháp luật đã xuất hiện những ý kiến, quan điểm khác nhau
xung quanh vấn đề tư cách bị can được xác lập từ thời điểm nào là chính xác. Quan
điểm thứ nhất cho rằng: khi CQĐT quyết định khởi tố bị can thì người bị khởi tố đã
là bị can. Xuất phát từ hoạt động thực tiễn, sau khi có quyết định khởi tố bị can thì
CQĐT có quyền tiến hành các biện pháp tố tụng nhằm đảm bảo cho việc nhanh

chóng, kịp thời xác minh sự thật vụ án như bắt bị can để tạm giam hoặc tiến hành
hỏi cung bị can theo quy định tại khoản 1 Điều 183 BLTTHS năm 2015: “Việc hỏi
cung bị can do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị
can…”. Do vậy, người đó đã bị áp dụng các biện pháp theo trình tự, thủ tục TTHS
với tư cách là bị can12. Quan điểm thứ hai cho rằng: khi VKS quyết định phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can thì người đó mới được coi là bị can13. Theo tác giả thì
quan điểm thứ hai là hợp lý và hiểu đúng tinh thần quy định của BLTTHS. Bởi vì,
việc phê chuẩn của VKS đối với quyết định khởi tố bị can của CQĐT là bắt buộc,
nếu VKS khơng phê chuẩn thì quyết định đó phải được hủy bỏ. Chủ thể trong
khoảng thời gian có quyết định khởi tố bị can mà chưa có sự phê chuẩn của VKS thì
họ chưa phát sinh tư cách bị can. Vì thế, có thể kết luận, tư cách bị can được xác lập
từ thời điểm người hay pháp nhân có quyết định khởi tố về hình sự của CQĐT và
quyết định đó phải được VKS phê chuẩn.
Quyết định khởi tố bị can là cơ sở pháp lý để CQĐT, VKS áp dụng những
BPCC tố tụng cần thiết với bị can. Nếu một người chưa bị khởi tố bị can thì không
được áp dụng BPCC đối với họ trừ trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang,
bởi vì, việc áp dụng các BPCC sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân. Để ra quyết định khởi tố bị can, cơ quan có thẩm quyền
khởi tố phải có đủ chứng cứ xác định một người hay pháp nhân đã thực hiện hành vi
12, 13

Nguyễn Chí Cường (2011), “Cần có văn bản hướng dẫn thống nhất về tư cách bị can theo quy định của
BLTTHS”, ngày 14/07/2011.


17

phạm tội, làm rõ đó là tội phạm gì, quy định ở điều, khoản nào của BLHS, thời
gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác của tội phạm như thủ đoạn, động
cơ, phương tiện phạm tội, lỗi, có hay khơng các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự

hoặc miễn trách nhiệm hình sự…; xác định rõ lý lịch của người thực hiện hành vi
phạm tội như họ tên, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch, tôn giáo, giới tính, dân tộc,
nghề nghiệp, hồn cảnh gia đình…Các nội dung này phải được ghi vào quyết định
khởi tố bị can.
Về mặt lý thuyết, bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và một phần
giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi CQĐT đình
chỉ điều tra; VKS, Tịa án đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) đối với bị
can hoặc có quyết định của Tịa án đưa vụ án ra xét xử. Khi một người hoặc pháp
nhân bị khởi tố về hình sự thì họ trở thành bị can và là đối tượng bị buộc tội trong
vụ án đó, tuy nhiên điều đó khơng có nghĩa xác định họ là người có tội. Nguyên tắc
suy đốn vơ tội đã được cơng nhận trong Tun ngơn nhân quyền quốc tế năm 1948
và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên Hợp
Quốc, đó là: “Người bị buộc tội là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vơ tội
cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”14. Quy định này đã
được Việt Nam thừa nhận, cam kết thực hiện và nội luật hóa thành một trong những
nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp và BLTTHS với nội dung như sau:
người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình
tự, thủ tục luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật15. Vì
vậy, khi chưa được chứng minh theo trình tự, thủ tục do luật quy định, chưa có bản
án kết tội của tịa án đã có hiệu lực pháp luật thì bị can phải được coi là người
khơng có tội và cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được đối xử với bị
can như người có tội, kể cả trường hợp họ bị áp dụng BPNC nghiêm khắc nhất là

14

Xem: khoản 2 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên Hợp Quốc (có
hiệu lực từ ngày 23-3-1976, Việt Nam gia nhập ngày 24-9-1982 ).
15

Xem: khoản 1 Điều 31 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và Điều 13 BLTTHS

năm 2015.


18

tạm giam. Các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được phép tiến hành các biện pháp tố
tụng nhất định với bị can để xác định sự thật vụ án.
Vì là người bị buộc tội nên bị can có quyền được biết lí do mình bị khởi tố về
tội danh gì. Họ phải được giao nhận quyết định khởi tố bị can hay quyết định thay
đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can và các quyết định tố tụng khác có liên quan
đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ như quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC,
BPCC, v.v… Bị can có quyền được các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng thơng báo, giải thích về các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm tạo điều kiện cho
họ có thể hiểu rõ và thực hiện tốt. Để bảo vệ quyền lợi của mình trước sự buộc tội
của các cơ quan pháp luật, họ phải có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào
chữa; được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật để chứng minh cũng như có quyền trình
bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật hoặc những vấn đề có liên quan đến vụ án
và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Trong trường
hợp các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng có sự vi phạm pháp luật thì bị can phải có quyền khiếu nại đối với quyết định,
hành vi đó16.
Như vậy, từ những phân tích đã nêu, tác giả luận văn xin đưa ra khái niệm:
“Biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can là biện pháp cưỡng chế trong Tố
tụng hình sự do người có thẩm quyền theo luật định trong Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án áp dụng, cách ly người đã bị khởi tố về hình sự ra khỏi đời sống xã
hội trong thời gian nhất định, hạn chế một số quyền công dân của họ, khi có căn cứ
do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, nhằm ngăn chặn việc họ có điều kiện tiếp tục
phạm tội hoặc gây cản trở cho quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm cho cơng tác
điều tra, truy tố, xét xử.”
1.2.


Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can

1.2.1. Ý nghĩa pháp lý
Những quy định của BLTTHS về BPNC tạm giam đối với bị can là căn cứ
pháp lý để các CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can. Tội
16

Xem: Điều 60 BLTTHS năm 2015.


×