Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

BƯỚC đầu ĐÁNH GIÁ tác DỤNG của CRILIN t lên sự BIỂU HIỆN một số GEN SINH UNG THƯ và ức CHẾ UNG THƯ TRÊN mô HÌNH CHUỘT NUDE MANG tế bào UNG THƯ PHỔI NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 70 trang )

B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

NGUYN TH HI YN

BƯớC ĐầU ĐáNH GIá TáC DụNG CủA CRILIN T
LÊN Sự BIểU HIệN MộT Số GEN SINH UNG THƯ
Và ứC CHế UNG THƯ TRÊN MÔ HìNH CHUộT
NUDE
MANG Tế BàO UNG THƯ PHổI NGƯờI
Chuyờn ngnh : Y hc chc nng
Mó s

: 60720106

LUN VN THC S Y HC
Ngi hng dn khoa hc:
TS. Nguyn Vn ụ

H NI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng tri ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Văn Đô, là
người thầy, người hướng dẫn khoa học, đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, truyền
dạy nhiều kiến thức quý báu cũng những kinh nghiệm và các bài học ý nghĩa
về cuộc sống cho tôi.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô, anh chị em và bạn


bè trong bộ môn Sinh lý bệnh – Miễn dịch của trường Đại học Y Hà Nội đã
tạo điều kiện cho tôi học tập, hỗ trợ tôi rất nhiều cả về tinh thần, vật chất, giúp
tôi hoàn thành khóa học và luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy cô, đồng nghiệp,
những người đã tạo mọi điều kiện, giúp đỡ tôi thực hiện luận văn:
- Ban Giám hiệu và Phòng Đào tạo Sau Đại học của trường Đại học Y
Hà Nội.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến bộ môn Sinh lý bệnh – Miễn dịch
Trường Đại học Y dược Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành
luận văn này.
Cuối cùng, con xin ghi nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của bố mẹ.
Con xin cảm ơn bố mẹ, anh trai và tất cả tất cả người thân trong gia đình, đã
luôn kề bên, là chỗ dựa vững chắc, giúp con vượt mọi trở ngại, khó khăn
trong cuộc sống và công việc.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 08 tháng 9 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị Hải Yến


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Thị Hải Yến, học viên cao học khóa 24 của Trường Đại
học Y Hà Nội, chuyên ngành Sinh lý bệnh – Miễn dịch, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của TS. Nguyễn Văn Đô.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 08 tháng 09 năm 2017
Người viết cam đoan

Nguyễn Thị Hải Yến


BẢNG DANH MỤC VIẾT TẮT
ADN
ARN
Bcl-2
Bcl-xl
FADD
TNHC
cADN
dNTP
PCR
RT-PCR

Acid Deoxyribonucleic
Acid Ribonucleic
B-cell lymphoma/leukemia-2
B – cell lymphoma – extra large
Fas-associated death domain

NSCLC

Complementary Deoxyribonucleic
Deoxyribonucleotid Triphotphat
Polymerase Chain Reaction

Reverse transcription polymerase chain
reaction
Non - Small Cell Lung Cancer

SCLC
CLL
MOMP
SSM

Small Cell Lung Cancer
Chronic lyphocytic leukemia
Mitochondrial outer membrane protein
Superficial-spreading melanoma

Acid Deoxyribonucleic
Acid Ribonucleic
Fas liên quan đến vùng chết
Trinh nữ hoàng cung
ADN bổ sung
Phản ứng khuếch đại chuỗi
Phản ứng khuếch đại chuỗi
phiên mã ngược
Ung thư phổi không phải tế
bào nhỏ
Ung thư phổi tế bào nhỏ
Bệnh bạch cầu Lympho mạn tính
Protein màng ngoài ty thể
U hắc tố ác tính lan tỏa bề mặt



MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH


8

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi là một trong những loại phổ biến nhất của ung thư trên
toàn thế giới và là nguyên nhân hàng đầu trong các tử vong do ung thư. Theo
dự đoán GLOBOCAN năm 2008, ung thư phổi là loại ung thư hàng đầu ở
nam giới, bao gồm 17% tổng số các trường hợp ung thư mới và 23% tổng số
ca tử vong do ung thư liên quan. Tỷ lệ tử vong đối với bệnh ung thư phổi ở
phụ nữ trong các nước đang phát triển chiếm 11% tổng số các ca tử vong do
ung thư ởphụ nữ, đứng thứ hai sau ung thư vú [1]. Đến nay, phẫu thuật, xạ trị
và hóa trị liệu là những chiến lược điều trị chủ yếu dành cho ung thư phổi.
Tuy nhiên, hiệu quả của các phương pháp điều trị bị hạn chế và có thể dẫn
đến một số tác dụng phụ. Trong thập kỷ qua, tỷ lệ tử vong do ung thư phổi
vẫn cao, với tỷ lệ sống 5 năm <15% [2]. Do đó, việc nghiên cứu phương pháp
trị liệu mới là một hướng quan trọng, nhằm nâng cao chất lượng và thời gian
sống cho bệnh nhân.
Trong những năm gần đây việc nghiên cứu các loại thuốc hỗ trợ điều trị
ung thư có nguồn gốc từ các cây thảo dược ngày càng được chú ý với mục
tiêu nâng cao hiệu quả điều trị, hạn chế các tác dụng phụ và giảm bớt gánh
nặng về kinh tế. Trinh nữ hoàng cung có tên khoa học Crinum latifolium L là
cây thuốc thảo mộc từ lâu đã được sử dụng để chữa các bệnh u xơ, ung thư tử

cung, ung thư tuyến tiền liệt và uống dưới dạng nước sắc [3]. Hiện nay, người
ta đã phát hiện có khoảng 130 loài khác nhau phân bố ở vùng nhiệt đới với
hơn 150 alkaloid được chiết tách từ loài cây này. Cây Trinh nữ Crila Crinum
latifolium L. var. crilae Tram & Khanh, var. n đã được phát hiện và nuôi trồng
từ năm 1990 cho đến nay [4]. Kết quả của chùm các công trình nghiên cứu in
vivo và in vitro của các tác giả đã chứng minh một số phân đoạn alcaloid và
phân đoạn flavonoid được chiết xuất từ cây là có tác dụng chống oxy hóa và


9

tăng cường miễn dịch chống khối u gián tiếp hay có tác dụng gây độc tế bào
ung thư trực tiếp.
Viên nang Trinh nữ Crila được chiết từ lá cây trinh nữ hoàng cung và
tạo nên viên nang Crila. Thuốc đã được đăng ký sản xuất, sử dụng rộng rãi ở
Việt Nam để điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt, u xơ tử cung. Ngoài ra,
viên Crila còn được nghiên cứu sử dụng để điều trị thực nghiệm các tế bào
dòng ung thư vú, tử cung, dạ dày, phổi, tuyến tiền liệt và trên một số bệnh
nhân ung thư tự nguyện.
Viên nang Crilin T, là một sản phẩm mới của cây Trinh nữ Crila có
chứa các alcaloid và các flavonoid. Crilin T có tác dụng tăng cường chức
năng miễn dịch chuyên nhiệm chống ung thư in vitro [5] và cũng làm tăng chế
tiết các cytokin IL-2 và TNFα invitrocủa tế bào lympho người bình thường
vềlâm sàng và của người bệnh ung thư vòm mũi họng giai đoạn muộn [6].
Tiếp nối kết quả này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá tác dụng in vivo
của Crilin T lên tế bào ung thư phổi bằng cách cấy ghép tế bào ung thư phổi
của người lên chuột BALB/c nude, theo dõi cân nặng, thể tích khối u, đặc
điểm mô bệnh học và sự biểu hiện một số gen sinh ung thư (Bcl-2, Bcl-xl) và
gen ức chế ung thư (Bax và Bak) ở mức độ mARN bằng phương pháp RTPCR tương ứng. Đề tài này nhằm mục tiêu:
1. Đánh giá sự biểu hiện mARN của gen Bcl-2 và Bcl-xl trên mô hình

chuột Nude mang tế bào ung thư phổi người.
2. Đánh giá sự biểu hiện mARN của gen Bax và Bak trên mô hình chuột
Nude mang tế bào ung thư phổi người.


10

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Những hiểu biết cơ bản về bệnh ung thư
1.1.1. Khái niệm cơ bản về bệnh ung thư
Ung thư là bệnh lý ác tính của tế bào dưới tác động của một số tác nhân
gây ung thư làm tế bào tăng sinh vô hạn, không có tổ chức và không tuân theo
các cơ chế kiểm soát về phát triển của cơ thể. Người ta đã biết được có hơn
200 loại ung thư khác nhau trên cơ thể người [7].
1.1.2. Gen học và ung thư
Quá trình sinh bệnh ung thư liên quan chặt chẽ đến tổn thương 2 nhóm
gen, đó là gen sinh ung thư và gen ức chế ung thư. Bình thường hai nhóm gen
này có vai trò quan trọng trong kiểm soát quá trình sinh sản, biệt hóa và chết
theo chương trình của tế bào, giúp cho sự ổn định sinh học của cơ thể.
1.1.2.1. Gen sinh ung thư (oncogene)
Năm 1911 Peyton Rous đã phát hiện ra virut sinh sarcom ở cơ gà và đến
những năm 60 người ta mới tìm thấy gen sinh u đó trong virut Rous và được
đặt tên là src. Sau đó hàng chục gen sinh u khác ở nhiều virut khác được phát
hiện. Giữa những năm 1970, các nhà vi sinh Mỹ John Michael Bishopvà
Harold Varmus thử nghiệm giả thuyết cho rằng các tế bào cơ thể khỏe mạnh
có chứa gen gây ung thư của virut không hoạt động, khi được kích hoạt sẽ gây
ung thư. Họ đã cho thấy rằng gen sinh ung thư được bắt nguồn từ gen tiền ung
thư (proto-oncogene) trong các tế bào cơ thể vật chủ của chúng. Ở người, gen
tiền ung thư có thể được chuyển đổi thành gen sinh ung thư bởi đột biến,

khuếch đại gen và sắp xếp lại nhiễm sắc thể [8]. Người ta cho rằng đột biến ở
các gen này có thể là nguyên nhân làm mất khả năng khiểm soát quá trình


11

phân bào và do đó mà sinh u, chính đó là lí do tại sao lại có tên là oncogen
[9]. Có 3 giả thuyết cho việc hình thành oncogen [10].
- Oncogen là những gen để phát triển tế bào, hoạt hóa nhờ yếu tố tăng
trưởng (growth factor). Do rối loạn cơ chế điều hòa, yếu tố tăng trưởng hoạt
hóa mạnh kích thích oncogen sinh ung thư.
- Oncogen là những đoạn ADN bị tổn thương bởi các tác nhân gây bệnh
như: Hóa học, sinh học, vật lý. Cơ thể đã có những cơ chế sửa chữa những
ADN này nhưng không sửa chữa được hoàn hảo nên cùng một tác nhân ung
thư nhưng có người bị ung thư có người lại không bị ung thư.
- Oncogen là do các bộ gen của virut sinh ra trong tế bào nhiễm, vì người
ta thấy các oncogen này giống với ADN của virus. Ví dụ: HPV (cổ tử cung,
dương vật), EBV (Burkitt) và HBV (ung thư gan) [11].
1.1.2.2. Gen ức chế ung thư (tumor suppressor)
Gen ức chế ung thư là gen điều hòa sự phân chia tế bào bằng cách làm
chậm sự phân bào, sữa chữa các sai sót của ADN, lệnh cho tế bào chết đi
(chết tế bào theo chương trình). Khi gen này hoạt động không bình thường
hay bị bất hoạt, làm các tế bào phát triển không kiểm soát được và có thể dẫn
đến ung thư. Các nghiên cứu về ung thư đã xác định và mô tả đặc điểm của
nhiềugenức chế khối u. Năm 1971, nhà nghiên cứu Mỹ Alfred Knudson mặc
nhiên công nhận rằng một dạng hiếm của ung thư mắt là nguyên bào võng
mạc gây ra bởi đột biến ở một gen Rb [12], [13]. Nghiên cứu tiếp theo cho
thấy các đột biến ở gen này cũng đóng một vai trò trong bệnh ung thư xương,
phổi, vú, cổ tử cung, tuyến tiền liệt và bàng quang. Một số gen ức chế khối u
khác (chẳng hạn như TP53, mã hóa một protein gọi là p53) đã được xác định.

Các dạng đột biến của TP53 đã được liên quan đến hơn 50% của tất cả các
bệnh ung thư. Các đột biến trong hai gen ức chế khối u khác là BRCA1 và


12

BRCA2 trong ung thư vú, chúng được tìm thấy trong 5-10% của tất cả các
trường hợp và trong khoảng 85% của tất cả các trường hợp ung thư vú di
truyền [14].
1.1.3. Quá trình chết tế bào theo chương trình (apoptosis)
Trong nhiều thập kỷ qua, những nghiên cứu cơ bản về ung thư đã cho thấy
sự tiến bộ đáng kể trong sự hiểu biết của chúng ta về sinh học ung thư và ung
thư di truyền. Trong số những điểm quan trọng nhất của những tiến bộ này là
sự nhận thức rằng quá trình chết tế bào theo chương trình và các gen kiểm
soát nó có ảnh hưởng sâu sắc đến kiểu hình ác tính [15].
Chết tế bào theo chương trình là một hiện tượng có tính di truyền của các
tế bào có nhân. Chết tế bào theo chương trình được Kerr, Wyllie và Curie mô
tả năm 1972 và đó là một hiện tượng phổ biến và cần thiết cho cuộc sống. Từ
sự phát triển bình thường của cơ thể, sự hằng định của các mô cho đến việc
loại trừ các tế bào bị viêm nhiễm hay sự dung nạp về miễn dịch học [16]. Nếu
hoạt động có sự thiếu hụt thì sẽ phát sinh ung thư và các dị tật trong cơ thể.
Ngược lại, hoạt động quá mức sẽ gây ra các biến đổi thoái hóa cơ và thần
kinh cũng như những rối loạn khác nữa. Chết tế bào theo chương trình có thể
được xem như một rào cản quan trọng để phát triển bệnh ung thư, chống lại
chết tế bào theo chương trình là một đặc tính của tế bào ung thư và là một
nguyên nhân chính của thất bại trong điều trị.
Quá trình chết tế bào theo chương trình diễn ra theo 2 con đường chính,
bao gồm con đường ngoại sinh hay con đường thông qua thụ thể chết và con
đường nội sinh hay con đường qua trung gian ty thể.



13

Hình 1.1. Sơ đồ các con đường hoạt hóa chết tế bào theo chương trình
(Nguồn />Con đường thông qua thụ thể chết (the death receptor pathway) hay con
đường ngoại sinh, khác với con đường của ty thể. Con đường này được khởi
động bởi các kích thích ngoại bào, chẳng hạn như phóng thích các yếu tố tăng
trưởng kích thích sự gắn của thụ thể chết xuyên màng (một tập hợp thụ thể
TNF bao gồm cả TNFR1, Fas/CD95, thụ thể TRAIL-1 và 2) với các phân tử tín
hiệu (ligand) cùng nguồn gốc với chúng. Các phức hợp ligand/thụ thể sẽ được
trimer hóa và các domain thụ thể chết sẽ gắn với các protein FADD nhờ sự
tương tác với các domain tương đồng trong bộ chuyển đổi này. Ngoài ra, các
FADD còn chứa một domain hiệu ứng chết tương đồng với nó trong caspase
khởi đầu. Do gắn với thụ thể chết nên domain này được lộ ra và được gắn với


14

tiền caspase khởi đầu, thường là với tiền caspase 8 hoặc tiền caspase 10, phức
hợp này còn có tên gọi là “phức hợp tín hiệu cảm ứng chết” (DISC). Chức
năng của nó trong chết tế bào theo chương trình là chuyển các phân tử tiền
caspase tới trạng thái dimer hóa và kích hoạt lẫn nhau. Các caspase 8 hoặc 10
kích hoạt khởi đầu sau đó sẽ kích hoạt caspase thực hiện như caspase 3, 6, 7
làm cho phức hợp thực hiện hoạt động ly giải protein chất nền và chết tế bào.
Con đường ty thể (mitochondria pathway) là con đường nội sinh liên
quan đến tính toàn vẹn của màng ti thể, được kích hoạt bởi các yếu tố như bức
xạ, thiếu yếu tố tăng trưởng, thiếu cytokin, thuốc gây độc tế bào. Tiến triển
thông qua con đường này dẫn đến sự ra đời của cytochrom c từ ty thể bị tổn
thương, sau đó liên kết với các phân tử chuyển đổi Apaf-1 (yếu tố cảm ứng
chết tế bào theo chương trình) và caspase “khởi động” chưa hoạt động, tiền

caspase 9, trong một phức tạp multiprotein gọi là apoptosom. Điều này dẫn
đến việc kích hoạt các caspase 9, sau đó khởi phát một chuỗi các caspases
kích hoạt (caspases 3 và 7) dẫn đến những thay đổi về hình thái và sinh hóa
gắn liền với quá trình chết tế bào theo chương trình. Cơ chế điều hòa con
đường này rất tinh vi thông qua các hệ thống kích thích và ức chế phức tạp
mà hiện nay y học phân tử đang khám phá. Đây là một cơ chế bị chi phối bởi
2 nhóm protein: Một nhóm chống lại quá trình chết tế bào theo chương trình
như Bcl-2, Bcl-xl và Mcl-1 và một nhóm protein làm tăng hiệu ứng chết tế
bào theo chương trình như Bax và Bak. Ngoài ra còn có một số các protein có
liên quan như Bim, Bad, puma và noxa.
Chết tế bào theo chương trình giúp cho cơ thể loại bỏ những tế bào
không còn cần thiết, hoặc các tế bào bị tổn thương, sai hỏng có thể dẫn tới
ung thư [17], [18]. Do đó, các tác giả cho rằng sự tránh chết tế bào theo
chương trình là một điều kiện tất yếu cho sự thay đổi và tăng trưởng bền vững
của các tế bào ung thư đã được chấp nhận rộng rãi [19]. Có rất nhiều cách để


15

một tế bào ác tính có thể có được giảm quá trình chết hoặc chống lại chết tế
bào theo chương trình. Nhìn chung, cơ chế để tránhchết tế bào theo chương
trình bao gồm: Sự mất cân bằng của các protein chống chết tế bào theo
chương trình và kích thích chết tế bào theo chương trình, sự giảm chức năng
caspase và sự giảm biểu hiện của các thụ thể chết.

Hình 1.2. Cơ chế tham gia tránh chết tế bào theo chương trình và ung thư
(Nguồn: www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/12209154)
Do vậy, một sự hiểu biết chi tiết về cái chết của tế bào theo chương trình sẽ
giúp hiểu rõ hơn về sự phức tạp của khối u và cải tiến phương pháp điều trị ung
thư dựa trên sự hoạt hóa các thành phần củachết tế bào theo chương trình.

1.1.4. Một số gen liên quan
Gia đình gen Bcl-2 đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình chết tế
bào theo chương trình, đến nay được biết có 25 gen khác nhau. Hầu hết


16

chúng đều chứa một domain vận chuyển màng đầu tận cùng C kỵ nước làm
nhiệm vụ neo chúng vào màng. Tuy nhiên, cũng có vài thành viên họ này
xuất hiện ở tế bào chất. Các protein họ Bcl-2 được đặc trưng bởi các domain
BH tương ứng Bcl-2.
Có 4 domain BH khác nhau và một số protein họ Bcl-2 có chứa tất cả 4
domain. Đặc biệt là domain BH1 và BH2 cho phép sự dimer hóa dị loại
(heterodimerization) với Bax để làm thoái lui sự chết tế bào theo chương trình
[20]. Domain BH3 xuất hiện với chức năng cho phép sự dimer hóa dị loại giữa
Bcl-xl và Bcl-2 với các thành viên tiền chết tế bào theo chương trình (Bax,
Bak) để thúc đẩy sự chết tế bào theo chương trình. Domain BH4 được duy
trì trong các thành viên chống chết tế bào theo chương trình (Bcl-xl),
nhưng có xu hướng vắng mặt trong các thành viên kích thích chết tế bào
theo chương trình. Domain BH4 đã được chứng minh là rất quan trọng đối
với việc dimer hóa dị loại với Bax và cho hoạt động chống chết tế bào theo
chương trình [21]. Thành viên của Bcl-2 có thể được phân thành các
protein chống chết tế bào theo chương trình và kích thích chết tế bào theo
chương trình và giữa chúng có sự tương tác với nhau trong việc tăng hiệu
ứng hay ức chế chết tế bào theo chương trình. Protein chống chết tế bào
theo chương trình như Bcl-2, Bcl-xl, và Bcl-W. Chúng ngăn chặn sự chết tế
bào bằng cách ức chế các protein kích thích chết tế bào theo chương trình
gồm Bax và Bak. Ngoài ra còn có các thành viên của “chỉ có vùng BH3”,
các thành viên này hiển thị trình tự tương đồng chỉ trong vùng BH3 và cho
đến nay đều là tiền chết tế bào theo chương trình [22], [23], [24].



17

Hình 1.3. Các thành viên họ Bcl-2
(Nguồn: )
1.1.4.1. Gen Bcl-2
Bcl-2 là từ viết tắt của B-cell lymphoma/leukemia-2. Lần đầu tiên được
phát hiện ở nang lympho B. Đây là thành viên thứ hai của một loạt các protein
ban đầu được mô tả trong sự hoán vị NST bao gồm NST số 14 và 18 trong
nang lympho. Phần NST số 18 có chứa vị trí của Bcl-2 đã xảy ra hiện tượng
hoán vị với phần của NST số 14 có chứa kháng thể ở vị trí chuỗi nặng [25].

Hình 1.4. Sự chuyển vị của gen Bcl-2
(Nguồn:www.biology.com)


18

Bcl-2 có cấu trúc gồm một lõi kị nước bao quanh bởi một vỏ xoắn, có
trọng lượng phân tử là 27000 dalton. Nó được tạo nên từ 4 vùng BH (Bcl-2
homology) được đánh số từBH1-4. Các vùng BH được biết là rất quan trọng
trong chức năng của Bcl-2. Bcl-2 thường được tích hợp trong các màng ngoài
ty thể, nhưng cũng có thể có trong bào tương hoặc lưới nội chất.
Vaux cùng các cộng sự (1988) là những người đầu tiên báo cáo rằng
Bcl-2 có thể ức chế các tế bào chết. Sau kích thích chết tế bào theo chương
trình, các protein tiền apoptosis được hoạt hóa thông qua các sửa đổi sau tổng
hợp hoặc thông qua những biến đổi về cấu trúc của chúng. Bcl-2 tạo dị dimer
với các thành viên họ Bcl-2 tăng hiệu ứng chết tế bào theo chương trình, dẫn
đến sự bất hoạt của chúng. Như Bax là một protein liên quan với Bcl-2, thúc

đẩy chết tế bào theo chương trình và là đích sao chép của hạ nguồn của p53.
Protein Bcl-2 dị dimer hóa với Bax do vậy mà ức chế chết tế bào theo chương
trình. Mặt khác Bax lại được kích thích bởi các thành viên “chỉ có vùng BH3”
trong khi Bcl-2 lại có tác dụng ức chế các gen này nên khi Bcl-2 tăng biểu
hiện thì các gen “chỉ có vùng BH3” bị ức chế, do vậy giảm khả năng kích
hoạt Bax. Hơn nữa, protein Bcl-2 lại có thể can thiệp vào những bước quan
trọng trong quá trình hợp nhất các tín hiệu tiền chết tế bào theo chương trình
ở mức độ ty thể, qua đó bãi bỏ việc giải phóng cytochrome-c. Bcl-2 cũng có
thể điều chỉnh sự hoạt hóa của nhiều caspases như caspase-2. Trong lưới nội
sinh chất Bcl-2 điều chỉnh lưu trữ canxi, ở mức độ nội bào đã được chứng
minh là ảnh hưởng đến quá trình chết tế bào theo chương trình.
1.1.4.2. Gen Bcl-xl
Bcl-xl (B – cell lymphoma – extra large) là protein đầu tiên được tìm ra
có cùng chức năng với Bcl-2 và cùng thuộc nhóm chống lại chết tế bào theo
chương trình. Cấu tạo của Bcl-xl cũng bao gồm có 4 vùng BH từ 1 đến 4 nằm
ở vị trí NST 20q11.21. ProteinBcl-2 và Bcl-xl có 43% acid amin giống nhau


19

và có nhiều đoạn tương tự nhau. Bcl-2 và Bcl-xl có cùng chức năng trên một
giai đoạn của chết tế bào theo chương trình [26]. Vị trí nằm ở màng ngoài ty
thể và quy định sự điều hòa đối với việc mở các kênh ở màng ngoài ty thể.
Kênh này quy định điện thế của màng ty thể và do đó kiểm soát việc sản xuất
của các chất oxy hóa và giải phóng cytochrom c của ty thể, cả hai đều là chất
gây cảm ứng mạnh của chết tế bào theo chương trình. Có tác giả cho rằng,
Bcl-xl cũng có thể ức chế chết tế bào theo chương trình bằng cách gắn vào
Apaf-1, do đó ngăn cản sự kết hợp với caspase 9 và cytochrom c và sự kích
hoạt tiếp theo của các capase hiệu ứng hạ lưu,mặc dù vấn đề này hiện nay
đang gây tranh cãi [27]. Mặc dù Bcl-2 và Bcl-xl dường như không thể phân

biệt được chức năng, có bằng chứng rằng chúng khác nhau trong khả năng
của mình để bảo vệ tế bào khỏi tác nhân kích thích chết tế bào theo chương
trình khác nhau [28], [29].
Cấu trúc và ái tính liên kết của peptid Bak đột biến chỉ ra rằng nó thông
qua những chuỗi xoắn α amphipathic tương tác với Bcl-xl thông qua tương
tác kỵ nước và tĩnh điện. Đột biến trên toàn bộ chiều dài của Bak gây gián
đoạn mỗi tương tác, hạn chế khả năng Bak dị dimer hóa với Bcl-xl [30].
1.1.4.3. Gen Bax

Hình 1.5. Vị trí của gen Bax
Bax (BCL2-associated X) nằm trên NST 19, có kích thước 21 kDa. Bax
được mã hóa bởi sáu exon và được tạo nên từ ba vùng BH là BH1, BH2, BH3.


20

Bax được xác định là yếu tố kích thích chết tế bào theo chương trình đầu
tiên chống lại chức năng của Bcl-2. Vùng BH3 của Bax đã được chứng minh
là rất quan trọng trong việc hình thành dimer. Bax có thể hình thành đồng
dimers hoặc dị dimers với Bcl-2, Bcl-xl [31], [32]. Trong các tế bào động vật
có vú khỏe mạnh, phần lớn Bax được tìm thấy trong bào tương nhưng khi bắt
đầu các tín hiệu tự hủy hoại, Bax trải qua một sự thay đổi cấu tạo và chèn vào
các màng bào quan, chủ yếu là màng ngoài ty thể. Bax và Bak có thể hình
thành các lỗ trên màng ngoài ti thể và làm thay đổi tính thấm của nó. Điều này
dẫn đến sự ra đời của cytochrom c và các yếu tố tiền chết tế bào theo chương
trình khác từ các ty lạp thể, dẫn đến hoạt hóa caspase. Bax cũng có mặt trong
mạng lưới nội chất nơi mà chúng kiểm soát quá trình chết tế bào theo chương
trình thông qua các mức lưu trữ canxi.
Bax được kích hoạt bởi nhóm protein “chỉ có BH3”. Sự biểu lộ của Bax
cũng được quy định bởi protein ức chế khối u p53 (TP53) và Bax đã được

chứng minh có liên quan trong quá trình chết tế bào theo chương trình được
điều hòa bởi p53. Các protein p53 là một yếu tố phiên mã, khi được kích hoạt
như là một phần của phản ứng của tế bào với stress, điều hòa rất nhiều gen
mục tiêu bao gồm Bax. Protein p53 tương tác với Bax thúc đẩy Bax kích hoạt
và chèn Bax vào màng ty thể [33].
1.1.3.4. Gen Bak

Hình 1.5. Cấu trúc của gen Bak
(Nguồn: )


21

Bak nằm trên NST 6p21.31, là một tiền chết tế bào theo chương trình
thuộc họ protein Bcl-2. Ở tế bào khỏe mạnh Bak là một protein màng đơn có
một phần cấu trúc nằm ở màng ngoài ty thể trong khi Bax di chuyển đến ty thể
trong quá trình chết tế bào theo chương trình. Bak tương tác và làm tăng tốc độ
mở của kênh anion điện áp phụ thuộc vào ty thể, dẫn đến mất sự toàn vẹn của
màng ty thể, thay đổi tính thấm màng và giải phóng ra cytochrom c. Protein này
cũng tương tác với gen ức chế khối u P53 sau khi tế bào bị tổn thương. Bak được
điều chỉnh bởi các thành viên khác của gia đình Bcl-2. Ví dụ, một số protein “chỉ
có vùng BH3” (Bim và Bid) được báo cáo trực tiếp ràng buộc Bak để chuyển
đổi nó thành các dạng kích hoạt, trong khi protein tiền chết tế bào theo chương
trình (ví dụ như Bcl-xl và MCL-1) có thể cô lập sự hoạt động của Bak và do đó
ngăn ngừa Bak homo-oligomerization và hình thành lỗ thẩm thấu. Vai trò của
Bak ở mạng lưới nội chất là không rõ ràng [34].

Hình 1.6. Sự tương tác chức năng của các thành viên họ
protein Bcl-2 ở màng ty thể
(Nguồn: )



22

1.1.4.4. Các nghiên cứu về Bcl-2, Bcl-xl, Bax và Bak trong ung thư
Một nghiên cứu trên 70 trường hợp dạ dày mạn tính, 49 trường hợp dị sản
ruột, 64 trường hợp loạn sản và 81 trường hợp ung thư biểu mô tuyến dạ dày
cho thấy: Tỷ lệ (+) của Bcl-2 và Bax cao nhất trong loạn sản vừa. Trong dị
sản ruột và loạn sản tỷ lệ (+) của Bcl-2 và Bax cao hơn trong viêm loét dạ dày
mạn tính và ung thư biểu mô tuyến dạ dày. Như vậy sự biểu lộ của Bcl-2 cũng
như Bax có thể có giá trị trong dự báo sớm bệnh ung thư dạ dày cũng như
trong những tổn thương tiền ung thư [35]. Trong khi Fulda và cộng sự đã báo
cáo rằng Bcl-2 biểu hiện quá mức dẫn đến ức chế chết tế bào theo chương
trình trong các tế bào ung thư biểu mô nguyên bào thần kinh, glioblastoma và
vú [36]. Ở bệnh nhân u lympho mạn tính, khi các tế bào này được nuôi cấy
trong ống nghiệm, chết tế bào theo chương trình do thuốc trong các tế bào
lympho B mạn tính tỷ lệ nghịch với tỷ lệ Bcl-2/Bax [24], [37]. Cùng với đó,
các nghiên cứu khác của Raffo và Mackey đã cho thấy biểu lộ quá mức của
Bcl-2, tế bào ung thư tuyến tiền liệt được bảo vệ trước kích thích chết tế bào
theo chương trình trong ống nghiệm [38] và tỷ lệ Bcl-2/Bax cao làm tăng
nguy cơ ung thư không đáp ứng với xạ trị vì vậy nghiên cứu này cho thấy giá
trị tiên lượng của tỉ lệ Bcl-2/Bax như một dấu ấn phân tử tiềm năng để dự
đoán khả năng đáp ứng với xạ trị của các khối u tuyến tiền liệt. Các nghiên
cứu khác đã cho thấy đánh giá của các trạng thái biểu hiện của Bcl-2 bởi khối
u có thể cung cấp thông tin tiên lượng về các biểu hiện lâm sàng của ung thư
phổi không phải tế bào nhỏ [39]. Kết luận này cũng phù hợp với các nghiên
cứu khác đánh giá giá trị tiên lượng của sự biểu lộ Bcl-2 [40], [41].
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên những bệnh nhân có khối u hắc tố
ác tính lan tỏa bề mặt (SSM, n = 44) hoặc khối u ác tính dạng nốt (n = 16) có
độ dày 1,5-4 mm. Ba mươi bệnh nhân đã sống sót qua theo dõi 10 năm, trong

khi 30 bệnh nhân khác được phát triển di căn. Phần khối u đã được phân tích


23

bằng mô miễn dịch cho sự biểu hiện của các chất điều hòa của chu kỳ tế bào.
Trong SSM, giảm Bax và Bak được tương quan với tiên lượng xấu: Tỉ lệ Bax
cao có liên quan đến tỷ lệ sống sót trong 10 năm, Cụ thể: Bax cao tỉ lệ sống
sót trong 10 năm là 68%, trong khi Bax thấp chỉ có 26% sống sót, và Bak cao
tỉ lệ sống sót trong 10 năm là 62%, trong khi Bak thấp chỉ có 10% sống sót.
Nghiên cứu này nhấn mạnh vai trò đặc biệt của con đường chết tế bào theo
chương trình ty thể và các protein Bcl-2 liên quan cho sự tiến triển khối u ác
tính [42].
Trong nghiên cứu của Olopade, Bcl-xl được biểu hiện quá mức 18 trong
42 (43%) bệnh ung thư vú xâm lấn khi so sánh với biểu mô vú bình thường
liền kề. Phân tích Western blot tám bệnh ung thư vú nguyên phát, năm dòng tế
bào ung thư vú cho thấy Bcl-xl là protein thể hiện chiếm ưu thế. Sự biểu lộ
quá mức của protein Bcl-xl ở khối u này liên quan với tăng cấp độ u và tăng
số lượng di căn hạch. Không có sự tương quan giữa mức độ biểu hiện protein
Bcl-xl và tuổi tác, kích thước khối u, và tình trạng TP53. Tại một trung tâm,
người ta theo dõi trong thời gian 216 tuần, thời gian sống nói chung giảm ở
bệnh nhân có khối u biểu hiện tốt Bcl-xl. Như vậy những phát hiện này cho
thấy rằng biểu hiện của protein Bcl-xl được tăng lên đáng kể ở bệnh ung thư
vú xâm lấn. Ngược lại với biểu hiện Bcl-2, tăng điều chỉnh của Bcl-xl có thể
là một dấu hiệu của sự tiến triển của khối u [43].
1.2. Những hiểu biết cơ bản về ung thư phổi
Ung thư phổi được chia làm hai loại chính: Ung thư phổi tế bào nhỏ và
ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, tùy thuộc vào hình dạng tế bào dưới kính
hiển vi. Mỗi loại ung thư phát triển và lan theo những hướng khác nhau.
Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ thường gặp hơn ung thư phổi tế bào

nhỏ và nó thường phát triển và lan chậm hơn. Có ba loại ung thư không phải
tế bào nhỏ chủ yếu. Chúng được đặt tên theo týp tế bào từ đó ung thư phát


24

triển: Ung thư biểu mô tế bào vẩy (còn được gọi là ung thư biểu mô dạng biểu
bì), ung thư biểu mô tuyến và ung thư biểu mô tế bào lớn.
Ung thư phổi tế bào nhỏ ít gặp hơn ung thư phổi không phải tế bào nhỏ.
Loại ung thư này phát triển nhanh hơn và hay lan các bộ phận khác trong cơ thể.
 Những yếu tố nguy cơ của ung thư phổi
Ung thư phổi là một trong những loại ung thư phổ biến nhất trên toàn thế
giới. Nguyên nhân gây ra ung thư phổi cho tới nay chưa được hiểu đầy đủ,
qua các tài liệu nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy có một số yếu tố liên
quan đến nguy cơ phát triển bệnh này. Những yếu tố này bao gồm [44]:
Thuốc lá: Hút thuốc lá là nguyên nhân gây ung thư phổi hàng đầu. Các
chất có hại được gọi là tác nhân gây ung thư, có trong thuốc lá làm tổn hại tới
các tế bào ở trong phổi. Dần dần, những tế bào này có thể trở thành ung thư.
Khói thuốc lá đến nay là yếu tố nguy cơ chính và quan trọng nhất đối với
bệnh ung thư phổi. Nó gây ra hơn 80% của tất cả các ung thư phổi trên toàn
thế giới. Các chất độc hại trong khói thuốc làm tổn thương các tế bào phổi.
Theo thời gian, các tế bào bị tổn thương có thể trở thành ung thư. Đây là lí do
tại sao hút thuốc lá có thể gây ung thư phổi. Hít phải khói thuốc lá cũng có thể
gây ung thư phổi ở những người không hút thuốc. Một người tiếp xúc càng
nhiều với khói thuốc lá, nguy cơ bị ung thư phổi càng cao. Ngoài thuốc lá, xì
gà và thuốc lá tẩu cũng là một yếu tố nguy cơ. Số năm hút thuốc, số lượng xì
gà và thuốc lá tẩu hút mỗi ngày, mức độ hít khói thuốc đều ảnh hưởng đến
nguy cơ bị ung thư phổi.
Các yếu tố môi trường khác như khí radon, amiăng, ô nhiễm môi trường:
Khi làm việc trong môi trường có tiếp xúc với khí radon, amiăng và các chất

gây ung thư như asen, niken, crom, nhựa đường cũng có thể làm tăng nguy cơ
nguy cơ ung thư phổi phát triển, đặc biệt nếu là một người hút thuốc. Các nhà
nghiên cứu đã tìm ra mối liên hệ giữa bệnh nhân ung thư phổi và sự tiếp xúc


25

với một số chất gây ô nhiễm không khí nhất định, ví dụ như các sản phẩm phụ
sinh ra trong quá trình đốt dầu diesel và những nhiên liệu hóa thạch khác. Tuy
nhiên, mối quan hệ này vẫn chưa được xác định một cách rõ ràng và vẫn đang
được tiếp tục nghiên cứu.
Các bệnh phổi và tiền sử bản thân: Một số bệnh phổi như bệnh lao, bệnh
phổi tắc nghẽn mạn tính làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi. Một người đã
mắc ung thư phổi một lần có nguy cơ mắc ung thư phổi lần hai cao hơn so với
một người chưa bao giờ mắc bệnh ung thư phổi. Bỏ hút thuốc lá sau khi được
chẩn đoán ung thư phổi có thể ngăn ngừa nguy cơ bị ung thư phổi lần hai.
1.3. Tổng quan về trinh nữ hoàng cung
Cây trinh nữ hoàng cung (TNHC) tên khoa học Crinum latifolium L. Thuộc
họ thủy tiên:Amaryllidaceae, có khoảng 130 loài, phân bố ở vùng nhiệt đới. Chi
Crinum L ở châu Á có 17 loài, trong đó có 6 loài hay gặp ở Việt Nam là Crinum
Latifolium L; Crinum amabile Donn; Crinum asiaticum L; Crinum giganteum
Andr; Crinum Ensifolium Roxb; Crinum morei Hoob. F [45], [46].
Theo tài liệu của Trung Quốc, TNHC còn gọi là: Thập bát học sĩ, Tây nam
văn lang, Châu lan, Tỏi lơi lá rộng, náng lá rộng [45], [46]. Ở Việt Nam cây
mọc tự nhiên và trồng nhiều ở Huế, Đà Nẵng, Nha Trang và các tỉnh phía
nam: Quảng Nam, Bình Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu. Nhân dân ta
dùng lá tươi hoặc phơi khô, một số dùng cả thân và củ để điều trị bệnh u xơ
tử cung, u xơ tiền liệt tuyến, ung thư vú, ung thư tử cung, ung thư tiền liệt
tuyến [3], [46]. Cây TNHC có nhiều ở các nước Đông Nam Á và Nhật Bản,
gồm Việt Nam, Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia, Philippin,

Campuchia, Lào. Ở Vân Nam (Trung Quốc) lá được dung trị sang lở độc,
viêm tuyến vú, lở trĩ [46], [47].


×