Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Đặc điểm khớp cắn và cung răng ở người việt độ tuổi từ 18 25 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 80 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Khớp cắn đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động chức năng của
con người, đây là một trong ba thành phần cấu tạo nên bộ máy nhai. Khớp cắn
là sự tiếp xúc của các răng ở cung răng hai hàm. Vì các răng tiếp xúc với nhau
trong các hoạt động chức năng nên cung răng đóng vai trò rất lớn trong hoạt
động của bộ máy nhai, bao gồm nhai, nói, nuốt... Vấn đề tiếp xúc giữa các
răng của hai cung hàm, hay nói khác đi là chức năng của cung hàm là chìa
khóa đảm bảo cho sự lành mạnh và thoải mái của hệ thống nhai [1]. Ngoài ra
cung răng còn góp phần tạo nên thẩm mỹ cho khuôn mặt của con người. Một
cung răng đẹp kết hợp hài hòa với các yếu tố phần mềm góp phần mang lại nụ
cười đẹp và tự tin của con người. Chính bởi tầm quan trọng của nó mà đã có
rất nhiều các nghiên cứu về cung răng cũng như đặc điểm khớp cắn, kích
thước cung răng hay tiêu chuẩn của một khớp căn lý tưởng là gì.
Cung răng, những nguyên lý cơ bản trong chuẩn đoán và điều trị chỉnh
nha, là một yếu tố quan trọng trong chỉnh nha [2]. Do vậy việc xác định
chính xác hình dạng cung răng của bệnh nhân là một thông số cốt yếu trong
đạt được một kết quả điều trị bền vững, phù hợp chức năng và tính thẩm
mỹ và thất bại trong việc bảo tồn hình dáng cung răng có thể làm tăng khả
năng tái phát [3]. Từ năm 1932 Chuck đã nghiên cứu đặc điểm hình thái và
phân loại cung răng thành 3 loại hình dạng khác nhau bao gồm cung răng
hình vuông, cung răng ovan và cung răng thuôn dài [4]. Đặc biệt việc xác
định được hình dạng cung răng trong pha đầu tiên của điều trị, Chuck đã
ủng hộ việc lựa chọn giữa 3 loại dây cung khác nhau sẽ tốt hơn việc chỉ sử
dụng một loại dây cung. Nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng tỷ lệ các loại cung
răng ở nam và nữ có sự khac nhau. Ở mỗi chủng tộc, dân tộc khác nhau
cũng có sự khác nhau về tỷ lệ, đặc điểm của mỗi dạng cung răng. Vì vậy


2



việc nghiên cứu đặc điểm khớp cắn có một vai trò rất quan trọng trong thực
hành chỉnh nha lâm sàng.
Hàm răng con người trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau bao
gồm giai đoạn hàm răng sữa, giai đoạn hàm răng hỗn hợp và giai đoạn hàm
răng vĩnh viễn. Mỗi giai đoạn ứng với một lứa tuổi khác nhau và mang những
đặc thù về hình thái và kích thước. Từ 18 tuổi trở đi gần như cung răng đã
phát triển hoàn toàn và ổn định về mặt kích thước cũng như đặc điểm hình
thái. Do vậy có thể coi lứa tuổi này là một lứa tuổi đặc trưng và đại diện cho
người trưởng thành. Đã có rất nhiều các nghiên cứu ở lứa tuổi này trên thế
giới để từ đó đưa ra được các chỉ số về hình thái và kích thước cung răng [1],
[5],[6],[7]… Ở Việt Nam cũng đã có nhiều tác giả làm về đề tài này, song
nhìn chung đó là những nghiên cứu nhỏ lẻ, cỡ mẫu chưa lớn, chưa thể mang
tính khái quát đặc trưng cho người Việt Nam. Chính vì thế việc có một bộ số
liệu đầy đủ và chính xác, phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc là một yêu
cầu bức thiết được đặt ra.
Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn nhóm chúng tôi đã tiến hành
nghiên cứu trên quy mô lớn, là một phần trong đề tài nghiên cứu cấp nhà
nước về các chỉ số nhân trắc học ở người Việt, để có thể đưa ra được một bộ
số liệu chính xác, hoàn thiện và mang tính đặc trưng cao cho người Việt Nam.
Và chúng tôi chọn đề tài: “Đặc điểm khớp cắn và cung răng ở người Việt
độ tuổi từ 18-25 tuổi” nhằm hai mục tiêu là:
1.

Mô tả một số đặc điểm khớp cắn của người Việt từ 18 tới 25 tuổi năm
2016-2017 tại Hà Nội.

2.

Xác định các loại hình dạng cung răng và một số kích thước cung

răng của nhóm đối tượng nghiên cứu trên.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm về khớp cắn
1.1.1. Tương quan các răng giữa hàm trên và hàm dưới
1.1.1.1. Đường cắn

Hàm trên

Hàm dưới

Hình 1.1. Đường cắn [8]
Hàm trên: Đường cắn là một đường cong liên tục đi qua hố trung tâm
của mỗi răng hàm và ngang qua gót răng nanh, răng cửa hàm trên.
Hàm dưới: Đường cắn là một đường cong liên tục qua núm ngoài và rìa
cắn của răng cửa hàm dưới.
Đường cắn khớp là một đường cong đối xứng, liên tục và đều đặn. Khi
hai hàm cắn khớp với nhau, đường cắn của hàm trên và hàm dưới chồng khít
lên nhau.
Khi hàm trên và hàm dưới cắn khớp, mỗi răng trên hai hàm sẽ khớp với
hai răng ở hàm đối diện. Ngoại trừ răng cửa giữa hàm dưới và răng hàm lớn
thứ ba hàm trên chỉ khớp với một răng ở hàm đối diện.
Mối tương quan một răng ăn khớp với hai răng giúp phân tán lực nhai
lên nhiều răng và duy trì sự cắn khớp giữa hai hàm.
1.1.1.2. Độ cắn chìa



4

Độ cắn chìa là khoảng cách giữa bờ cắn răng cửa trên và răng cửa dưới
theo chiều trước sau khi hai hàm cắn khớp.
1.1.1.3. Độ cắn chùm
Độ cắn chùm là khoảng cách giữa bờ cắn răng cửa trên và dưới theo
chiều đứng khi hai hàm cắn khớp.
1.1.2. Quan niệm khớp cắn bình thường của Andrew
Nghiên cứu của Lawrence F. Andrews [9] từ 1960-1964 dựa trên việc
quan sát 120 mẫu hàm có khớp cắn bình thường. Các mẫu hàm được lựa chọn
theo tiêu chuẩn:
- Chưa qua điều trị chỉnh nha.
- Các răng mọc đều đặn và thẩm mỹ.
- Khớp cắn có vẻ đúng.
- Có thể không cần đến điều trị chỉnh nha sau này.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tất cả các mẫu hàm này đều có chung sáu
đặc tính khớp cắn
*Đặc tính I: Tương quan ở vùng răng hàm
- Gờ bên xa của múi ngoài xa của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm
trên tiếp xúc với gờ bên gần của múi ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn
thứ hai hàm dưới.
- Múi ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm trên khớp với
rãnh ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới.
- Múi trong gần răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm trên khớp với
trũng giữa của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới.
* Đặc tính II: Độ nghiêng gần xa của thân răng
- Độ nghiêng gần xa của thân răng là góc tạo bởi đường thẳng vuông góc
với mặt phẳng nhai và trục thân răng. Góc độ (+) khi phần nướu của trục răng
ở về phía xa so với phần bờ cắn hay mặt nhai. Ngược lại là góc độ (-).



5

- Bình thường, các răng có góc độ (+) và độ nghiêng này thay đổi theo
từng răng.
* Đặc tính III: Độ nghiêng trong ngoài của thân răng
- Độ nghiêng trong ngoài của thân răng là góc tạo bởi đường thẳng
vuông góc với mặt phẳng nhai và đường tiếp tuyến với điểm giữa mặt ngoài
thân răng. Góc độ (+) khi phần phía nướu của đường tiếp tuyến (hay của thân
răng) ở về phía trong so với phần bờ cắn hay mặt nhai. Ngược lại là góc độ (-).
Độ nghiêng ngoài trong của thân răng cửa trên và dưới tương quan nhau
và ảnh hưởng đáng kể đến độ cắn phủ và khớp cắn của các răng sau. Các răng
sau hàm trên (từ răng nanh đến răng hàm lớn thứ hai) có phần bờ cắn hay mặt
nhai ở về phía trong so với phần nướu của thân răng. Ở hàm trên, góc độ (-)
không thay đổi từ răng nanh đến răng cối nhỏ thứ hai và tăng nhẹ ở răng hàm
lớn thứ nhất và thứ hai. Đối với răng hàm dưới, góc độ (-) tăng dần từ răng
nanh đến răng hàm lớn thứ hai.
* Đặc tính IV: Không có răng xoay
Không có răng xoay hiện diện trên cung răng. Vì nếu có, chúng sẽ chiếm
chỗ nhiều hoặc ít hơn răng bình thường.
* Đặc tính V: Không có khe hở giữa các răng
Các răng phải tiếp xúc chặt chẽ với nhau ở phìa gần và xa ở mỗi răng,
trừ các răng hàm lớn thứ ba chỉ tiếp xúc ở phía gần.
Khe hở trên cung răng thường do bất hài hòa kích thước răng-hàm.
* Đặc tính VI: Đường cong Spee phẳng hay cong ít
- Khớp cắn bình thường có đường cong Spee không sâu quá 1,5mm.
Đường cong Spee sâu quá sẽ gây thiếu chỗ cho răng hàm trên.
1.1.3. Phân loại lệch lạc khớp cắn
Vào thập niên 1900, Edward H.Angle (1855-1930) đã đưa ra phân loại

khớp cắn [10]. Đây là một cách phân loại đầu tiên và rất hữu dụng quan trọng


6

cho đến ngày nay. Ông dựa vào răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất (răng số 6) và
sự sắp xếp của các răng theo đường cắn để phân loại khớp cắn thành 4 loại.
+ Phân loại theo Angle: Có 4 nhóm
- Khớp cắn bình thường (trung tính)

Hình 1.2. Khớp cắn trung tính [8]
Quan hệ trung tính giữa răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới và hàm trên:
Đỉnh núm ngoài gần răng hàm lớn thứ nhất trên khớp với rãnh giữa ngoài của
răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới. Các răng sắp xếp theo đường cắn.
- Sai khớp cắn loại I

Hình 1.3. Sai khớp cắn loại I [8]
Núm ngoài gần răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm trên khớp với rãnh
ngoài gần răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới, nhưng đường cắn khớp
không đúng do các răng trước mọc sai chỗ, răng xoay hoặc do những nguyên
nhân khác.
- Sai khớp cắn loại II

Hình 1.4. Sai khớp cắn loại II [8]


7

Múi ngoài gần răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm trên tiến về phía gần
so với rãnh ngoài gần răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới (một bên

hoặc 2 bên). Quan hệ với các răng khác là đường cắn không đúng.
Loại này có 2 tiểu loại:
Tiểu loại 1: Cung răng hàm trên hẹp, hình chữ V, nhô ra trước với răng
cửa trên nghiêng về phía môi (hô), độ cắn chìa tăng, môi dưới thường chạm
mặt trong răng cửa trên.
Tiểu loại 2: Các răng cửa giữa hàm trên nghiêng vào trong nhiều trong
khi các răng cửa bên hàm trên nghiêng ra phía ngoài khỏi răng cửa giữa, độ
cắn phủ tăng, cung răng hàm trên ở răng nanh thường rộng hơn bình thường.
- Sai khớp cắn loại III

Hình 1.5. Sai khớp cắn loại III [8]
Múi ngoài gần răng hàm lớn thứ nhất hàm trên khớp về phía xa so với
rãnh ngoài gần răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới, cắn ngược vùng răng cửa
(một bên hoặc hai bên). Quan hệ với các răng khác là đường cắn không đúng.
Ưu nhược điểm của cách phân loại này:
Ưu điểm:
- Phân loại của Angle là một bước tiến quan trọng. Ông không chỉ phân
loại một cách có trật tự các loại khớp cắn sai mà ông còn là người đầu tiên
định nghĩa một khớp cắn bình thường và bằng cách này đã phân biệt được
một khớp cắn bình thường với sai khớp cắn.


8

Nhược điểm:
- Răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất mọc sai vị trí, thiếu hay đã nhổ thì
không phân loại được.
- Cách phân loại này chỉ quan tâm quan hệ răng theo chiều trước sau.
1.2. Hình dạng và kích thước cung răng
1.2.1. Hình dạng cung răng

Hình dạng và kích thước cung răng được xem như là yếu tố tham khảo
chính trong chẩn đoán và điều trị chỉnh hình răng mặt. Theo nhiều tác giả thì
sự ổn định của hình dạng và kích thước cung răng là yếu tố quan trọng giúp
cho kết quả điều trị được ổn định và tránh sự tái phát sau điều trị. Ngày nay
mặc dù những tiến bộ về khoa học với sự ra đời của những vật liệu mới, khí
cụ mới hay những kỹ thuật mới được áp dụng trong điều trị thì tầm quan trọng
của việc xác định hình dạng cung răng vẫn luôn được đề cao để đạt được kết
quả điều trị tối ưu. Thêm vào đó nhưng nghiên cứu về hình dạng cung răng
còn là đối tượng của các khoa học sinh học của con người: nhân chủng, giải
phẫu so sánh và tiến hóa.
Nhìn từ phía mặt nhai các răng được sắp xếp thành một cung (cung
răng). Vì cấu trúc hình cung được xem là sự sắp xếp tạo nên tính ổn định và
vững chắc. Hình dạng cung răng do nền xương bên dưới quyết định. Cung
răng hàm thích hợp không chỉ giúp cải thiện về khớp cắn mà còn góp phần
lớn về vẻ thẩm mỹ của khuôn mặt. Nhiều năm qua các nhà nghiên cứu đã cố
gắng xây dựng một hình mẫu về cung răng lý tưởng, đưa ra các đặc điểm của
một cung răng lý tưởng và các nhà lâm sàng luôn cố gắng để thiết lập cung
răng của bệnh nhân theo các đặc điểm lý tưởng đó. Tuy nhiên dần dần những
quan điểm điều trị đó đã thay đổi để dần phù hợp hơn với thực tế điều trị. Các
nghiên cứu sâu rộng về cung răng đã giúp cho cac bác sỹ lâm sàng có được
cái nhìn rõ ràng và đầy đủ hơn và từ đó nâng cao kết quả của điều trị.


9

Một bộ răng vĩnh viễn đầy đủ gồm 32 chiếc, chia đều cho 2 cung răng:
cung răng trên và cung răng dưới. Do răng hàm lớn thứ 3 thường có hoặc
không (không có mầm răng), khái niệm về bộ răng gồm 28 chiếc được sử
dụng trên lâm sàng.
Năm 1920, Williams [11] đã nêu lên sự đồng dạng giữa hình dạng của

răng cửa và hình dạng của cung răng. Nếu răng có hình dạng hình vuông sẽ
kèm theo mặt hình vuông và cung răng cũng có dạng hình vuông. Các tác giả
đã phân biệt ba dạng cung răng là hình vuông, hình ô van và hình thuôn dài.
Năm 1971, Brader [12] đưa ra một mẫu cung răng. Mẫu này dựa trên
một ê líp 3 tiêu điểm và đã làm thay đổi quan niệm về hình dạng cung răng.
Đường cong cung răng rất giống với đường cong của ê líp, các răng sắp xếp
chỉ một phần ở cực nhỏ của toàn bộ đường cong. Ông cho rằng cấu trúc của
cung răng có 4 đặc trưng chủ yếu:
- Hình dạng của cung răng.
- Kích thước của cung răng
- Sự đối xứng hai bên.
- Sự thay đổi của các cấu trúc xung quanh dẫn đến sự biến đổi hình thể
của cung răng.
Rickett [2] đã tiến hành một loạt nghiên cứu về hình dạng cung răng và
đã đưa ra kết luận:
- Hình dạng cung răng hàm trên đồng dạng với hình dạng cung răng hàm dưới.
- Cung răng hàm trên ở phía trước hơn so với cung răng hàm dưới.
- Có 5 dạng cung răng: Dạng hình thuôn dài, dạng hình thuôn dài hẹp,
dạng hình trứng, dạng hình trứng hẹp, dạng hình vuông.
Nhưng trên thực tế, hiện nay sự phân loại hình dạng cung răng chủ yếu
được sử dụng trong chẩn đoán và điều trị chỉnh hình răng mặt là phương pháp
phân loại của Chuck và Williams [4] là: Dạng hình vuông, dạng hình thuôn
dài, hình ô van (hình trứng).


10

1.2.2. Kích thước cung răng
Các tác giả Cretot (1938), Granat (1974), Izard (1943): Đưa ra phương
pháp đo đạc kích thước cung răng và cung xương ổ răng theo chiều ngang và

chiều trước – sau. Phương pháp đo đạc được đưa ra phụ thuộc chủ yếu vào
mục tiêu nghiên cứu, mục đích điều trị. Để đo kích thước ngang cung răng
qua răng cối nhỏ thứ nhất Pont [13] chọn mốc đo là rãnh chính của mỗi răng
nhưng để đo kích thước ngang qua răng cối lớn ông lại chọn điểm mốc là hõm
giữa của mỗi răng. Ngược lại Izard [14] lại chọn điểm lồi tối đa trong các
cung răng để đánh giá về các khe hở ở bộ răng sữa và đo kích thước ngang tối
đa của cung răng vĩnh viễn.
Trong chỉnh hình răng mặt người ta sử dụng một phương pháp cổ điển
để đo chu vi cung răng đó là dùng sợi dây đồng đo từ múi ngoài các răng sau
đi qua đỉnh múi các răng trước ở cả hai bên của cung răng sau đó kéo dài sợi
dây thẳng ra và đo chiều dài của sọi dây ta sẽ được chu vi của cung răng. Tuy
nhiên việc chọn các điểm mốc đo khác nhau ở các tác giả như đỉnh múi ngoài,
rãnh giữa, đỉnh múi trong… đã dãn đến hình dạng và kích thước cung răng
thay đổi.
Năm 1979, Engle G [15] đã tiến hành đo hàng loạt mẫu để xác định các
yếu tố của hình dạng và kích thước cung răng. Ông cùng với Lestrel đã rút ra
4 kích thước chủ yếu của cung răng là:
- Chiều dài trước (chiều dài vùng răng nanh): là khoảng cách từ điểm
giữa hai răng cửa giữa tới đường nối đỉnh của hai răng nanh.
- Chiều rộng trước (chiều rộng vùng răng nanh): là khoảng cách giữa
hai đỉnh của hai răng nanh.
- Chiều dài sau (chiều dài vùng răng hàm): là khoảng cách từ điểm giữa
hai răng cửa giữa tới đường nối hai đỉnh của hai núm ngoài gần của răng hàm
lớn thứ nhất.


11

- Chiều rộng sau (chiều rộng vùng răng hàm): là khoảng cách giữa hai
đỉnh của hai núm ngoài gần của răng hàm lớn thứ nhất.

Cũng theo Engle kích thước của cung răng có sự khác biệt theo giới tính
và các dạng cung răng hình vuông, hình ô van, hình thuôn dài.
+ Kích thước cung răng ở nam lớn hơn nữ.
+ Chiều rộng cung răng ở vùng răng nanh và vùng răng hàm ở cung răng
hình vuông là lớn nhất, rồi đến dạng cung răng hình ô van, hẹp nhất là cung
răng dạng hình thuôn dài.
+ Ngược lại chiều dài cung răng ở dạng cung răng hình thuôn dài là lớn
nhất, rồi đến cung răng dạng ô van, ngắn nhất là cung răng dạng hình vuông.
Năm 1999, Phạm Thị Hương Loan và Hoàng Tử Hùng [16] nghiên cứu
so sánh đặc điểm cung răng người Việt với người Ấn Độ và Trung Quốc đưa
ra nhận xét: Cung răng người Việt rộng hơn đáng kể so với cung răng người
Ấn Độ, nhưng lại gần với kích thước cung răng người Trung Quốc.
Năm 2005, theo nghiên cứu của Tancan Uysal, Zafer Sari [17] trên 150
mẫu thạch cao của những người có khớp cắn bình thường (tuổi trung bình
21,6 ± 2 tuổi), 106 mẫu thạch cao của người có khớp cắn loại II tiểu loại 1
(tuổi trung bình 17,2 ± 2,4 tuổi), 108 mẫu thạch cao của người có khớp cắn
loại II tiểu loại 2 (tuổi trung bình 18,6 ± 2,9 tuổi), và ông rút ra được các kết
luận sau. Chiểu rộng liên răng hàm nhỏ ở hàm trên, độ rộng khoảng xương ổ
răng ở hàm trên và hàm dưới ở khớp cắn loại II tiểu loại I đều nhỏ hơn khi so
sánh với khớp cắn bình thường. Chiều rộng liên răng hàm nhỏ hàm trên, độ
rông khoảng xương ổ răng ở hàm trên và hàm dưới của khớp cắn loại II tiểu
loại 2 cũng nhỏ hơn khi so sánh với khớp cắn bình thường. Kích thước trung
bình ông đo được như sau: chiều rộng tại vị trí răng nanh hàm trên là 34,4 ±


12

2,1 mm và hàm dưới là 33,4 ± 0,13 mm; chiều rộng tại vị trí răng hàm lớn thứ
nhất hàm trên là 50,7 ± 3,7mm và hàm dưới là 45,7 ± 2,8mm ở nữ.
Theo nghiên cứu của Al-Khatib AR, Rajion ZA, Masudi SM và cộng sự

(2011) [18] khi nghiên cứu trên 252 mẫu hàm của người Malaysia có độ tuổi
từ 13-30 cũng đã kết luận kích thước ngang cung hàm ở nam lớn hơn nữ.
Năm 2012, theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Phương, Võ Trương
Như Ngọc, Đồng Mai Hương (2012) [19] khi nghiên cứu ở nhóm sinh viên
đại học Y Hải Phòng đã kết luận kích thước trung bình của cung răng trên ở
các dạng cung răng khác nhau là rất khác nhau, chiều rộng cung răng phía
trước (R33) và phía sau (R66) lớn nhất ở dạng cung răng hình vuông, nhỏ
nhất ở dạng cung răng hình tam giác. Với chiều dài thì ngược lại, chiều dài
phía trước cung răng (D13) của dạng cung răng hình thuôn dài là lớn nhất còn
dạng cung răng hình vuông là ngắn nhất.
Theo nghiên cứu của Alam M. K. et al (2014) [20] khi nghiên cứu 996
người từ 2000 người được lấy ngẫu nhiên và đo đạc kiểm tra tại Bệnh viện đại
học khoa học Malaysia. 996 người này được chia làm 2 nhóm theo 2 dân tộc
là người Malay gốc Trung Quốc và Malay bản địa. Sau đó tác giả tiến hành đo
đạc các kích thước của từng răng vĩnh viễn ở hàm trên và hàm dưới, độ rộng
liên răng nanh và liên răng hàm lớn thứ nhất, chiều dài sau ở hàm trên. Kết
quả thu được thì người Malaysia gốc Trung Quốc có kích thước các răng rộng
hơn người Malaysia bản địa. Không có sự khác nhau về kích thước cung răng
giữa 2 dân tộc.
Theo nghiên cứu của tác giả Dolly Patel et al (2015) [21] trên dân chúng
Ấn Độ cho kết quả sau. Khi so sánh độ rộng cung hàm ở hàm trên cả hai giới,
nhóm CIII và nhóm CI cho thấy độ rộng liên 2 răng nanh hàm trên lớn hơn
đáng kể so với nhóm CII tiểu loại 1 và độ rộng liên 2 răng hàm nhỏ hàm trên
lớn hơn nhóm CII tiểu loại 2 và CII tiểu loại 1. Đối với hàm dưới nhóm CIII


13

cho thấy độ rông liên răng nanh, liên răng hàm nhỏ lớn hơn đáng kể so với
nhóm CI, CII tiểu loại 2, và nhóm CII tiểu loại 1.

Năm 2016 Ahmet A. C. và cộng sự [22] nghiên cứu trên 132 người Thổ
Nhỹ Kỳ (34 người khớp cắn loại I, 58 người khớp cắn laoị II, 40 người khớp
cắn loại III) và 160 người Bắc Mỹ (60 người khớp cắn loại I, 50 người khớp
cắn loại II, 50 người khớp cắn laoị III). Tác giả tiến hành đo đạc các kích
thước cung răng trên cung hàm dưới và so sánh giữa 2 nhóm người. Kết quả
cho thấy người Thổ Nhỹ Kỳ có chiều dài sau ở cung hàm dưới nhở hơn ở
người Bắc Mỹ ở cả 3 loại khớp cắn theo phân loại Angle. Người Thổ lại có
chiều rộng liên răng nanh lớn hơn ở khớp cắn loại III và có chiều rộng liên
răng hàm ở khớp cắn loại II.
Như vậy qua một số các nghiên cứu ở trong nước cũng như ở nước ngoài
ta có thể rút ra rằng kích thước cung răng khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như: giới tính, dân tộc, phân loại khớp cắn, hình dạng cung răng… Do đó ở
mỗi dân tộc, mỗi lứa tuổi cần phải có những nghiên cứu riêng, từ đó đưa ra
được những số liệu đặc trưng cho từng dân tộc đó.
1.3. Một số đặc điểm phát triển hình thái cung răng.
Những thay đổi theo tuổi của cung răng được nghiên cứu rộng rãi, vì
những hiểu biết về sự tăng trưởng của cung răng rõ ràng có vai trò quan trọng
trong trong lập kế hoạch điều trị chỉnh nha và tạo hình. Trong những nghiên
cứu đầu tiên các tác giả chủ yếu quan sát tương quan giữa các điểm mốc trên
miệng và đánh giá những thay đổi của vị trí của các điểm mốc đó (Lewis, 1929
[23]). Tiếp theo, cung răng được đo đạc và đánh giá những thay đổi trên mẫu
hàm thông qua qui trình lấy dấu, đổ mẫu. Theo dõi những thay đổi về chiều dài,
chiều rộng và chu vi cung răng giúp đánh giá được sự tăng trưởng và phát triển
của cung răng trong quá trình phát triển của hệ thống sọ - mặt - răng. Từ khi


14

sinh ra cho tới khi trưởng thành, bộ răng người trải qua bốn giai đoạn hình
thành, phát triển và biến đổi như sau:

- Giai đoạn 1, giai đoạn thành lập bộ răng sữa: Từ khi sinh ra cho đến
khi mọc đầy đủ các răng sữa, thường diễn ra từ lúc sinh đến 2,5 tuổi.
- Giai đoạn 2, giai đoạn cung răng sữa ổn định: Từ khi mọc đầy đủ hàm
răng sữa đến khi mọc RHL vĩnh viễn thứ nhất, thường từ 2,5 tuổi đến 6 tuổi.
- Giai đoạn 3, giai đoạn bộ răng hỗn hợp: từ khi mọc RHL vĩnh viễn
thứ nhất đến khi thay chiếc răng sữa cuối cùng, thường từ 6 tuổi đến 12 tuổi.
Giai đoạn này có thể chia ra chia ra làm hai giai đoạn: 6 – 10 tuổi là
giai đoạn hàm răng hỗn hợp sớm; 10 – 12 tuổi là giai đoạn hàm răng hỗn hợp
muộn dựa theo sự mọc của nhóm răng cửa và nhóm răng sau. Trong giai đoạn
này, một yếu tố rất đáng được lưu tâm là tổng kích thước theo chiều gần xa
của các răng nanh sữa, RHS thứ nhất, RHS thứ hai lớn hơn tổng kích thước
gần xa của răng nanh vĩnh viễn, RHN thứ nhất, thứ hai khoảng 1,7 mm ở HD,
0,9 mm ở HT mỗi bên. Khoảng chênh lệch này được Nance gọi là khoảng
“leeway” . Khi răng sữa phía sau được thay thế bởi các răng nanh và RHN,
khoảng leeway được khép lại. Sự khép lại của khoảng leeway phụ thuộc vào
khớp cắn RHL thứ nhất và thứ tự mọc răng HT và HD. Thay đổi thứ tự mọc
răng bình thường có thể làm cản trở các răng mọc đúng vị trí.
- Giai đoạn 4, giai đoạn bộ răng vĩnh viễn: từ khi mọc răng hàm lớn
vĩnh viễn thứ hai và sau đó, thường diễn ra sau 12 tuổi.
Năm 1929, Lewis [23] đã nghiên cứu về những thay đổi tăng trưởng của
răng và cung răng, và những thay đổi khớp cắn ở bộ răng sữa sang răng hỗn
hợp với mẫu gồm 170 trẻ từ 1,5 đến 9,5 tuổi. Ngoài những phát hiện về khớp
cắn, Lewis quan tâm đến sự thay đổi kích thước, chiều rộng cung răng (vùng
răng nanh và vùng răng hàm sữa 1 (RHS1) và răng hàm sữa 2 (RHS2)).


15

Kết quả nghiên cứu được trình bày với số trung bình, độ lệch chuẩn và
số đối tượng chung cho nam và nữ từ 2,5 đến 8 tuổi. Tác giả kết luận khớp

cắn chịu ảnh hưởng của những thay đổi do tăng trưởng, cung răng sữa rộng ra
để phù hợp với kích thước lớn hơn của các răng cửa vĩnh viễn.
Barrow (1952) [24] với mẫu nghiên cứu gồm 528 bộ mẫu hàm của 51 trẻ
em trường tiểu học Michigan và trường trung học Ann Ambor. Đối tượng
nghiên cứu được khám và lấy dấu mỗi năm một lần. Mục tiêu của nghiên cứu
này ngoài việc nghiên cứu khớp cắn, kẽ hở giữa các răng của bộ răng sữa và
bộ răng hỗn hợp còn đánh giá về sự thay đổi kích thước cung răng theo chiều
rộng và chiều dài của bộ răng vĩnh viễn.
* Về chiều rộng cung răng ông đưa ra kết luận:
- Chiều rộng cung răng ở vị trí đỉnh múi giữa hai răng nanh trên cung
hàm ít thay đổi từ 3 tới 5 tuổi,tăng nhanh từ 5 tới 8 tuổi và giảm dần từ 0,5 tới
1,5mm sau 14 tuổi.
- Chiều rộng cung răng ở vị trí đỉnh múi ngoài gần giữa hai răng hàm
lớn thứ nhất có mức độ tăng nhanh từ 7 đến 11 tuổi (tăng 1,8 mm ở hàm trên;
1,2 mm ở hàm dưới). Từ 11 đến 15 tuổi có sự giảm chiều rộng cung răng (0,4
mm ở hàm trên; 0,9 mm ở hàm dưới).
Theo ông, sở dĩ có sự giảm chiều rộng cung răng vùng răng hàm lớn thứ
nhất sau 11 tuổi là do sự di gần của răng hàm lớn thứ nhất và hướng hội tụ
của hàm dưới nhiều hơn. Chiều rộng cung răng hàm dưới giảm nhiều hơn
hàm trên có thể do sự di gần răng 6 và hướng hội tụ của hàm dưới nhiều hơn.
Từ 15 tới 17 tuổi còn khoảng 50% trường hợp có sự giảm tiếp tục chiều rộng
cung răng vùng răng cối.


16

* Về chiều dài cung răng là khoảng cách từ điểm giữa của hai răng cửa
giữa vuông góc với đường nối đỉnh múi ngoài gần răng 6. Ông đưa ra một số
kết luận:
- Từ 6 tới 12 tuổi: Chiều dài cung răng hàm trên tăng 1,0mm. Nhưng

chiều dài cung răng dưới giảm 1,12 mm.
- Tù 12 đến 13,5 tuổi: Chiều dài cung răng trên tăng nhẹ khoảng 0,2mm
sau đó chiều dài giảm đến 17-18 tuổi.
Ông cho rằng có 3 nguyên nhân chính làm giảm chiều dài cung răng:
Việc đóng kín các khe hở tiếp cận của các răng sau, khuynh hướng nghiêng
sau của các răng, đặc biệt ở hàm trên; và sự mòn sinh lý theo tuổi ở mặt nhai
của tất cả các răng.
Carter [25] nghiên cứu dọc về sự thay đổi về sự thay đổi chiều dài và
chiều rộng cung răng ở người trưởng thành. Trong nhóm chuẩn (không điều
trị chỉnh hình) gồm 27 nam và 26 nữ lứa tuổi 14, 16 và 47 ở Michigan. Nhóm
14 tuổi gồm có 22 nữ, 24 nam; Nhóm 16 tuổi và nhóm 47 tuổi có cùng số đối
tượng, gồm có 26 nữ, 27 nam cho mỗi nhóm. Những đối tượng này đều chưa
được can thiệp về điều trị chỉnh hình. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định
tính ổn định của kích thước cung răng ở bệnh nhân có điều trị chỉnh hình, ông
đã kết luận việc chỉnh nha phải được điều trị duy trì sau tuổi thanh niên (18
tuổi) vì sau thời gian này kích thước cung răng ổn định trong suốt thời gian
trưởng thành (kết luận này rút ra từ so sánh kết quả với nghiên cứu trên mẫu
không chỉnh hình). Sự bất thường của răng và cung răng xảy ra ở hàm dưới
nhiều hơn hàm trên, có sự thay đổi kích thước sau tuổi trưởng thành của hàm
dưới nhiều hơn hàm trên, khác nhau giữa nam và nữ. Ông đã thống kê những
nhận xét của các bác sỹ chỉnh hình răng mặt: Đa số bệnh nhân than phiền các


17

răng không đều ở hàm dưới nhiều hơn hàm trên, nhưng tác giả không nêu
nguyên nhân gây ra tình trạng đó mà chỉ giải thích là bất kỳ sự giảm kích
thước nào của hàm cũng nhỏ hơn 3 mm, và đó là một trong những nguyên
nhân làm gia tăng tình trạng không đều của cung răng. Qua phân tích so sánh
bằng t-test và Anova, ông đã kết luận kích thước chiều rộng, chiều dài và chu

vi cung răng đều giảm ít hơn 3 mm từ 14 đến 47 tuổi. Giai đoạn từ 18 đến 50
tuổi các kích thước cung răng giảm nhiều hơn và giảm có ý nghĩa thống kê so
với giai đoạn từ 14 đến 18 tuổi. Tác giả đưa ra lý do giảm kích thước cung
răng là do răng xoay, răng di gần và mòn răng.
Như vậy, nhiều nghiên cứu dọc và cắt ngang của các tác giả Carter,
Barrow, Lewis… đều có nhận xét:
- Kích thước chiều rộng cung răng đo trên mốc răng nanh, răng hàm
nhỏ thứ hai, răng hàm lớn thứ nhất có sự tăng trưởng nhiều trước tuổi dậy thì;
tăng trưởng chậm ở tuổi dậy thì và ổn định ở 16 - 18 tuổi đối với nữ, 18 - 20
tuổi đối với nam.
Kích thước chiều dài cung răng theo chiều trước sau được đo theo mốc
các răng trên cho thấy có sự giảm dần từ khi xuất hiện răng vĩnh viễn trên cung
hàm và ổn định ở tuổi 17 đến 18 đối với nữ và 19 đến 20 đối với nam. Giảm
chiều dài cung răng chủ yếu là do răng có xu hướng di gần, xoay răng, răng bị
mòn… Hàm trên giảm khoảng 1,3 mm và hàm dưới khoảng 1,6 mm.
1.4. Các phương pháp đo đạc và phân tích cung răng và khớp cắn
Mẫu hàm thạch cao được xem là một công cụ quan trọng trong điều trị
chỉnh nha cũng như trong nghiên cứu; chúng giúp cho việc phân tích kích
thước và hình dạng răng, mức độ thẳng hàng và xoay của răng, chiều rộng,
chiều dài, hình dạng và mức độ đối xứng của cung răng cũng như quan hệ
khớp. Có các loại phương tiện chủ yếu sau để nghiên cứu trên mẫu hàm:
1.4.1. Đo trên mẫu hàm số hóa


18

Từ năm 1970, đã có nhiều phát triển về mặt kỹ thuật trong việc phân tích
mẫu hàm như việc áp dụng các kỹ thuật tái tạo hình ảnh bằng vi tính và thu
thập trực tiếp dữ liệu hai chiều. Van Der Linden (1972), một bác sĩ chỉnh hình
răng mặt thuộc Đại học Nymegen - Hà Lan, đã xây dựng một phương pháp

cho phép thu thập các dữ liệu trong không gian ba chiều và khảo sát mẫu hàm
trên và dưới như một khối thống nhất [26].
Vào khoảng đầu những năm 2000 phần mềm OrthoCad ra đời. Phần
mềm này có thể thu và trình bày mẫu hàm nghiên cứu trên máy tính dưới
dạng ảnh không gian ba chiều. Về mặt lâm sàng, mẫu hàm kỹ thuật số là một
giải pháp hấp dẫn vì thuận lợi trong việc lưu trữ, do vậy giúp cho bác sỹ chỉnh
nha cả ở góc độ quản lý hồ sơ lẫn góc độ tiếp thị dịch vụ. Độ chính xác của
mẫu hàmkỹ thuật số là chấp nhận được về mặt lâm sàng và nếu tính tới các ưu
điểm cũng như khả năng cải tiến của công cụ OrthoCad cũng như các công cụ
tương tự trong tương lai (ví dụ như khả năng tự động xác định điểm đo, tự
động xác định các kích thước hay đánh giá hiệu quả điều trị) thì mẫu hàm
kỹthuật số có thể trở thành công cụ sử dụng hàng ngày.
1.4.2. Đo bằng máy chụp cắt lớp điện toán
Yan B. et al. [27] đã sử dụng máy chụp cắt lớp điện toán (CT scanner) số
hóa 20 mẫu răng thành ảnh ba chiều và dùng phần mềm máy tính đo các tọa
độ của mẫu răng để kiểm tra độ tin cậy của hệ thống và so sánh với việc đo
thủ công.
Mặc dù kết quả cho thấy hệ thống có thể sử dụng trong việc chẩn đoán lâm
sàng và điều trị sai khớp cắn nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa kết
quả đo bằng máy chụp cắt lớp điện toán ba chiều và kết quả đo tay (p > 0.05).
Những nghiên cứu trên cho thấy không thực sự cần thiết sử dụng máy
chụp cắt lớp điện toán nếu so sánh giữa chi phí cần có và lợi ích mang lại.
1.4.3. Đo bằng thước trượt trên mẫu hàm thạch cao


19

Thước trượt điện tử có tính năng tương tự như thước trượt thông thường
nhưng độ chính xác cao hơn, tới cỡ 1/100mm. Về mặt sử dụng, thước trượt
điện tử cũng dễ sử dụng hơn do có màn hình hiển thị số, rất thuận tiện cho

người đo. Thước trượt điện tử được sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu gần
đây về đo kích thước răng, cung răng. Chúng tôi sử dụng loại thước trượt
điiện tử Mitutoyo CD-6 của Nhật Bản để tiến hành nghiên cứu đo đạc.
Nhiều tác giả đã nghiên cứu so sánh giữa việc phân tích và sử dụng các
phép đo trên mẫu hàm thường với thước trượt điện tử và sử dụng hàm số hoá
với ảnh không gian 3 chiều đã rút ra kết luận sau :
- Việc đo bằng thước trượt điện tử trên mẫu hàm thạch cao cho kết quả
chính xác nhất và có thể lặp lại.
- Việc dùng phần mềm số hoá để đo đạc cho kết quả có thể lặp lại, độ
chính xác cao nhưng thấp hơn so với đo trên mẫu hàm với thước trượt điện tử.
- Thước trượt điện tử là phương tiện phù hợp với công việc nghiên cứu.
Tuy nhiên, độ chính xác của phân tích bằng số hoá được lâm sàng chấp
nhận và có ưu điểm trong hiện tại và tương lai. Mẫu hàm số hoá có thể dần
dần được tiêu chuẩn hoá ứng dụng trong chỉnh nha nhờ đặc tính lưu trữ tốt và
tiết kiệm thời gian của nó.
Tóm lại: Mặc dù có nhiều cách đánh giá cung răng và khớp cắn nhưng
phương pháp sử dụng thước trượt điện tử trên mẫu hàm thạch cao vẫn là
phương pháp hiệu quả thích hợp cho việc thực hiện các nghiên cứu đánh giá
sự thay đổi của răng, cung răng với độ chính xác cao.


20

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên các sinh viên của
một số trường đại học trên địa bàn Thành phố Hà Nội, đồng ý tham gia khám
và lấy mẫu nghiên cứu tại Viện đào tạo Răng Hàm Mặt, ĐH Y Hà Nội từ ngày
15/3/2017 - 25/5/2017.

 Tiêu chuẩn chọn: Có đầy đủ các tiêu chí sau
+ Tuổi: từ 18 đến 25 tuổi.
+ Có bố mẹ, ông bà là người Việt Nam và thuộc dân tộc Kinh.
+ Có đủ 28 răng vĩnh viễn (không kể răng hàm lớn thứ ba).
+ Không có các phục hình, tổn thương tổ chức cứng làm thay đổi chiều
gần xa của thân răng. Nếu các phục hình như miếng trám hoặc inlay chỉ ở trên
mặt nhai hoặc cổ răng thì vẫn được chấp nhận.
+ Chưa điều trị nắn chỉnh răng và các phẫu thuật tạo hình khác.
+ Không có dị dạng hàm mặt, không có tiền sử chấn thương hay phẫu
thuật vùng hàm mặt.
+ Tự nguyện hợp tác tham gia nghiên cứu.
 Tiêu chuẩn loại trừ: Khi có một trong các tiêu chí sau
+ Có bố hoặc mẹ là người nước ngoài.
+ Mất răng bất kỳ (ngoại trừ các răng số 8).
+ Có phục hình, hoặc tổn thương tổ chức cứng làm thay đổi chiều gần xa
của răng. Các miếng trám hoặc là các inlay, onlay có liên quan đến mặt gần
hay xa đều loại bỏ.
+ Bị dị dạng hàm mặt.
+ Đã điều trị nắn chỉnh răng, hoặc có phẫu thuật vùng hàm mặt.


21

+ Không hợp tác nghiên cứu.
+ Khớp cắn 2 bên không giống nhau (Ví dụ như một bên khớp cắn loại I,
và một bên khớp cắn loại II…).
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.2.1. Thời gian
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 9/2016 đến tháng 9/2017
2.2.2. Địa điểm

Viện đào tạo Răng Hàm Mặt - Đại học Y Hà Nội.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cắt ngang mô tả.
2.3.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
Chúng tôi áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước tính 1 chỉ số trung bình
cho nghiên cứu điều tra cắt ngang như sau:

Trong đó:
n: Cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu.
(1) Sai sót loại I (α): Chọn α = 0,05, tương ứng có ít hơn 5% cơ hội rút ra
một kết luận dương tính giả.
(2) Sai sót loại II (β) hoặc lực mẫu (power là 1- β): Chọn β = 0,1 (hoặc
lực mẫu=0,9), tương ứng có 90% cơ hội tránh được một kết luận âm tính giả.
: độ lệch chuẩn.
: là sai số mong muốn (cùng đơn vị với ). Do vậy, để đảm bảo kết quả
nghiên cứu có độ chính xác tối đa, lựa chọn sai số mong muốn là 0,8 mm.


22

Dựa vào nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Phương (2012) [24] khi đo kích
thước cung răng hàm trên ở giới nam R66 có:

= 54,2 ± 5,4 (mm) .

Chúng tôi tính được cỡ mẫu cần có
n = (1,96 + 1,28)*(1,96 + 1,28) * 5,4*5.4 / (0,8 * 0,8) = 478 (mẫu hàm).
Mỗi đối tượng nghiên cứu đều được nghiên cứu cả cung hàm trên và cung
hàm dưới.

Như vậy để dự phòng sai số trong quá trình lấy số liệu, chúng tôi dự định
sẽ tiến hành nghiên cứu trên khoảng 500 người.
Nghiên cứu của chúng tôi là một phần trong đề tài nghiên cứu cấp nhà
nước về các đặc điểm nhân trắc học của người Việt Nam, nên số liệu của
chúng tôi được trích từ kho số liệu chung của đề tài nhà nước, được kiểm
duyệt và có độ tin cậy cao.
2.3.3. Phương pháp chọn mẫu
Nghiên cứu là một phần trong nghiên cứu cấp nhà nước nên các mẫu
nghiên cứu của chúng tôi được lụa chọn từ kho số liệu của đề tài nhà nước.
Chúng tôi tiến hành lấy ngẫu nhiên các đối tượng từ một vài trường đại học, sau
đó tiến hành kiểm tra các đối tượng có thỏa mãn các tiêu chuẩn lựa chọn hay
không. Như vậy mẫu của chúng tôi vừa thỏa mãn các tiêu chí đã đặt ra vừa mang
tính ngẫu nhiên cho người dân tộc Kinh.
2.4. Vật liệu và trang thiết bị nghiên cứu
- Dụng cụ nha khoa thông thường: Gương, gắp, thám trâm, trong khay
khám vô trùng, compa, thước đo tiêu chuẩn.
- Thước cặp điện tử Mitutoyo CD-6”CSX.


23

- Vật liệu lấy dấu và sáp cắn: Chất lấy dấu (Alginate), thìa lấy dấu, sáp
lá mỏng, đèn cồn, thạch cao siêu cứng, bát cao su, bay đánh chất dấu khuôn
và thạch cao đá.

Hình 2.1. Bộ dụng cụ lấy dấu, đỗ mẫu, đo đạc

Hình 2.2. Thước cặp điện tử Mitutoyo CD-6”CSX



24

2.5. Các bước nghiên cứu
- Bước 1: Lập danh sách đối tượng nghiên cứu.
- Bước 2: Kiểm tra các đối tượng nghiên cứu có thỏa mãn các tiêu
chuẩn lựa chọn mẫu riêng hay không (bao gôm cả kiểm tra trên phiếu khám
và kiểm tra trên mẫu hàm thạch cao).
- Bước 3: Đo đạc các chỉ số trên mẫu hàm thạch cao.
- Bước 4: Nhập và xử lý số liệu.
- Bước 5: Viết luận văn.
2.5.1. Lập danh sách đối tượng nghiên cứu
2.5.2. Khám sàng lọc và lập danh sách đối tượng nghiên cứu
Khám sàng lọc, chọn những đối tượng đủ tiêu chuẩn, lên danh sách.
+ Khám ngoài miệng:

Sự cân đối, hài hoà của khuôn mặt.
Dị tật bẩm sinh vùng hàm mặt.

+ Khám trong miệng:
Xác định tình trạng các răng: răng sâu, răng vỡ, răng thừa, răng dị dạng,
răng đã phục hình.
2.5.3. Các bước tiến hành lấy dấu, đổ mẫu
Thực hiện:
+ Lấy dấu: Lấy dấu hai hàm bằng alginate. Biên giới mặt ngoài cung hàm
là đến đáy ngách lợi, mặt trong đối với hàm dưới đến ranh giới giữa lợi và sàn
miệng, đằng sau tối thiểu đến phía xa răng hàm lớn thứ hai của mỗi cung hàm.
+ Đổ mẫu bằng thạch cao đá, đổ đế bằng thạch cao thường ngay sau khi
lấy dấu.



25

+ Gỡ mẫu khi đã đông cứng.
+ Mài mẫu theo tiêu chuẩn của chỉnh hình răng mặt:
. Đế dày từ 3-4 cm, mặt phẳng đế song song với mặt phẳng cắn.
. Mặt sau vuông góc với đường giữa sống hàm .
. Mặt bên tạo một góc 65º so với mặt sau và cách đường viền lợi 2-3mm.
. Hàm trên mặt trước mài thành 2 mặt tạo với mặt bên một góc 30º.
. Hàm dưới mặt trước mài tròn từ răng 3 bên này đến răng 3 bên kia.

Hình 2.3. Mẫu hàm tiêu chuẩn
* Yêu cầu mẫu:
+ Mẫu không bị co.
+ Đủ đến răng hàm lớn thứ hai của mỗi hàm.
+ Mẫu không bị bọng, không vỡ, không gãy răng.
* Bảo quản mẫu:
+ Đánh số thứ tự các mẫu theo cặp, mỗi cặp mẫu được bảo quản trong
một hộp bìa cứng có ngăn để cho mẫu hàm trên và hàm dưới.
+ Trên mẫu đặt miếng xốp để mẫu không bị hư hại trong quá trình vận chuyển.
2.5.4. Đo đạc và ghi nhận các chỉ số
2.5.4.1. Xác định hình dạng cung răng


×