Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Đặc điểm lâm sàng viêm lợi và kết quả điều trịphẫu thuật u lợi có cuống ở phụ nữ mang thai(thai kỳ II)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 94 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh vùng quanh răng là bệnh răng miệng thường gặp nhất ở Việt Nam.
Các nghiên cứu điều tra về bệnh quanh răng ở Việt Nam cho thấy tỷ lệ mắc
bệnh quanh răng tăng dần theo tuổi và là nguyên nhân hàng đầu gây mất răng
ở người lớn sau tuổi 35. Các thể bệnh quanh răng phổ biến là viêm lợi(VL) và
viêm quanh răng (VQR). Theo kết quả điều tra sức khỏe răng miệng (SKRM)
toàn quốc lần thứ 2 năm 2000 của Trần Văn Trường và cộng sự, tỷ lệ viêm lợi
(VL) cả nước chiếm 74,6%, riêng ở lứa tuổi 35 – 44 , tỷ lệ người bị viêm quanh
răng là 29,7%. Cũng theo điều tra này, tỷ lệ bệnh quanh răng ở người lớn trên
18 tuổi rất cao: 96,7% [1]. Sự thay đổi của yếu tố nội tiết ở tuổi dậy thì, chu kỳ
kinh nguyệt hay mang thai cũng ảnh hưởng đến tình trạng bệnh vùng quanh
răng. Mang thai liên quan đến những thay đổi phức tạp về sinh lý, thể chất và
tâm lý do ảnh hưởng của sự thay đổi lượng các hormon sinh dục nữ. Thay đổi
sinh lý trong thời kỳ mang thai có thể làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh
quanh răng đã có sẵn mà viêm lợi là phổ biến nhất ở phụ nữ mang thai
(PNMT), có tới 90% thai phụ có triệu chứng của viêm lợi [2].
Nhiều PNMT xuất hiện tổn thương phì đại lợi, u lợi trong ba tháng giữa,
phát triển nhanh, dễ chảy máu.
Một số nghiên cứu cho thấy nhiễm trùng quanh răng ở mẹ có liên quan
đến biến chứng của thai kỳ như sinh non [3], thai kém phát triển [4]. Hiệp hội
Nha chu Hoa Kỳ khuyến cáo PNMT có bệnh quanh răng nên được điều trị
trong thời gian mang thai [5]. Tarannum và Faizuddin đánh giá hiệu quả của
điều trị quanh răng lên kết quả thai kỳ trong một thử nghiệm ngẫu nhiên với
200 PNMT viêm nha chu; kết quả là tỉ lệ sinh non ở nhóm chứng chỉ được
hướng dẫn chải răng cao hơn nhóm được can thiệp điều trị nha chu (76,4% so
với 53,5%, p< 0,001) [6].


2



Nhiều thai phụ bị viêm lợi nặng trong quá trình mang thai nhưng
không đi điều trị vì sợ ảnh hưởng đến thai nhi. Tại Việt Nam hiện chưa có
nhiều nghiên cứu về tình trạng bệnh quanh răng ở PNMT, cũng như điều trị
bệnh quanh răng cho PNMT. Vì vậy, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Đặc
điểm lâm sàng viêm lợi và kết quả điều trị phẫu thuật u lợi có cuống ở
phụ nữ mang thai (thai kỳ II)” với mục tiêu:
1.

Nhận xét đặc điểm lâm sàng viêm lợi, u lợi có cuống trên phụ nữ
mang thai (thai kỳ thứ II) ở một số Bệnh viện tại Hà Nội từ tháng

2.

8/2017 – 10/2018.
Đánh giá kết quả điều trị u lợi có cuống ở nhóm đối tượng nghiên cứu
nói trên.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Giải phẫu vùng quanh răng [7]
1.1.1. Lợi
a. Cấu trúc đại thể
A. Lợi viền (lợi tự do)
B. Lợi dính
Ngà răng
Men răng

Rãnh lợi
Bờ lợi
Biểu mô tiếp nối
Lõm dưới lợi tự do
Vùng tiếp nối niêm mạc lợi
Niêm mạc xương ổ răng
Xương ổ răng

Xương răng

Hình 1.1. Các phần của lợi [7]
Lợi là vùng đặc biệt của niêm mạc miệng được giới hạn ở phía cổ răng
bởi bờ lợi và phía cuống răng bởi niêm mạc miệng. Ở phía ngoài của hai hàm
và phía trong của hàm dưới, lợi liên tục với niêm mạc miệng bởi vùng tiếp nối
niêm mạc di động - lợi dính, ở phía khẩu cái, lợi liên tục với niêm mạc khẩu
cái cứng. Lợi được chia thành hai phần, đó là lợi tự do và lợi dính.
+ Lợi tự do: lợi tự do là phần lợi không dính vào răng, ôm sát cổ răng và
cùng với cổ răng tạo nên một khe sâu khoảng 0,5-3 mm gọi là rãnh lợi. Lợi tự
do gồm hai phần: nhú lợi và lợi viền.
- Nhú lợi: là lợi ở kẽ răng, che kín kẽ, có một nhú ở phía ngoài, một nhú
ở phía trong, giữa hai nhú là một vùng lõm.


4

- Lợi viền: Không dính vào răng mà ôm sát cổ răng, cao khoảng 0,5 –
3mm. Mặt trong của lợi viền là thành ngoài của rãnh lợi.
Lợi tự do tiếp nối với vùng lợi dính tại lõm dưới lợi tự do (Hình 1.1).
+ Lợi dính: là vùng lợi bám dính vào chân răng ở trên và mặt ngoài
xương ổ răng ở dưới. Mặt ngoài lợi dính cũng như mặt ngoài lợi tự do đều

được phủ bởi lớp biểu mô sừng hoá. Mặt trong của lợi dính có hai phần: phần
bám vào chân răng khoảng 1,5 mm gọi là vùng bám dính và phần bám vào
mặt ngoài xương ổ răng
b. Cấu trúc mô học
Lợi bao gồm các thành phần cấu tạo: biểu mô lợi, mô liên kết, các mạch
máu và thần kinh. Biểu mô lợi có hai loại: biểu mô kết nối và biểu mô phủ.
+ Biểu mô kết nối: là biểu mô ở đáy rãnh lợi, bám dính vào răng tạo
thành một vòng quanh cổ răng. Biểu mô kết nối không bị sừng hoá và không
có những lõm ăn sâu vào mô liên kết ở dưới.
+ Biểu mô phủ
- Biểu mô phủ bề mặt vùng lợi dính và mặt ngoài lợi viền: là biểu mô lát
tầng sừng hoá, từ sâu ra nông gồm bốn lớp tế bào: lớp tế bào đáy, lớp tế bào
gai, lớp tế bào hạt, lớp tế bào sừng hoá.
- Biểu mô phủ mặt trong lợi viền: là biểu mô không sừng hoá.

Hình 1.2. Hình ảnh mô học của biểu mô miệng.


5

Bốn lớp có thể thấy được: Lớp đáy, lớp sao, lớp gai, và lớp sừng
+ Rãnh lợi: ở vùng lợi răng bình thường, rãnh lợi là một khe hẹp, sâu
0,5mm nằm giữa bờ lợi và bề mặt răng. Rãnh lợi mở về phía mặt nhai và giới
hạn về phía cuống răng với 3 thành:
- Thành trong được tạo bởi men răng.
- Thành bên là biểu mô rãnh lợi.
- Về phía cuống răng, rãnh lợi tận cùng ở đáy khe, là bề mặt tự do của
biểu mô kết nối.
+ Mô liên kết của lợi: gồm các tế bào và các sợi liên kết.
Các tế bào: phần lớn là các nguyên bào sợi, có dạng thoi hay dạng sao.

Ngoài ra có chứa các dưỡng bào, lym phô bào, bạch cầu hạt trung tính, bạch
cầu đơn nhân lớn và đại thực bào .
Các sợi mô liên kết: các sợi mô liên kết gồm nhiều sợi keo và ít sợi chun.
Các sợi tập hợp thành bó theo cùng một hướng.

Hình 1.3. Các bó sợi ở lợi [7]
A. Sợi răng lợi

B. Sợi mào xương ổ răng

C. Sợi vòng

D. Sợi răng màng xương E. Sợi ngang vách
+ Mạch máu và thần kinh
-

Mạch máu
Lợi có hệ thống mạch máu rất phong phú. Các nhánh của động mạch ổ
răng đến lợi xuyên qua dây chằng quanh răng và vách giữa các răng. Những
mạch khác băng qua mặt ngoài hay mặt trong, xuyên qua mô liên kết trên
màng xương vào lợi, nối với những động mạch khác từ xương ổ răng và dây
chằng quanh răng.


6

Hình 1.4. Mạch máu ở lợi [7]
-

Thần kinh

Là những nhánh thần kinh không có bao myelin chạy trong mô liên kết,
chia nhánh tới tận lớp biểu mô.
1.1.2. Dây chằng quanh răng
Về mặt giải phẫu, dây chằng quanh răng là mô liên kết có cấu trúc đặt
biệt, nối liền răng với xương ổ răng
Cấu trúc mô học của dây chằng quanh răng bao gồm các tế bào, sợi liên
kết, chất căn bản ,mạch máu và thần kinh.
a. Các tế bào của dây chằng quanh răng
Các tế bào của dây chằng quanh răng gồm có: Nguyên bào sợi, các tiền
tạo xương răng bào và tiền tạo cốt bào, tạo xương răng bào, tạo cốt bào, huỷ
cốt bào, tế bào biểu mô, bạch cầu.
b. Sợi liên kết của dây chằng quanh răng
Thành phần sợi liên kết chiếm chủ yếu ở dây chằng quanh răng, trong đó
phần lớn là các sợi collagen. Hệ thống các bó sợi tạo thành từ các sợi sắp xếp
theo hướng từ xương ổ răng đến xương răng. Tuỳ theo sự xắp xếp và hướng
đi của các bó sợi mà có những nhóm dây chằng quanh răng sau: nhóm mào ổ
răng, nhóm ngang, nhóm chéo, nhóm cuống răng.


7

c. Chất căn bản của dây chằng quanh răng: chất căn bản của dây
chằng quanh răng gồm glycosaminoglycan, glycoprotein.
d. Mạch máu và thần kinh của dây chằng quanh răng
+ Mạch máu: dây chằng quanh răng có rất nhiều mạch máu. Hệ thống
mạch máu được cung cấp từ ba nguồn: các nhánh từ động mạch răng

,các

nhánh của động mạch liên xương ổ răng và trên chân răng, các nhánh của

động mạch màng xương.
+ Mạch bạch huyết: mạch bạch huyết của dây chằng quanh răng tạo
thành một mạng lưới dày đặc nối tiếp với bạch huyết của lợi và của vách
xương ổ răng.
+ Thần kinh: dây chằng quanh răng chịu sự chi phối của hai nhóm sợi
thần kinh: một nhóm thuộc hệ thống thần kinh cảm giác và một nhóm thuộc
hệ thống thần kinh giao cảm.
1.1.3. Xương ổ răng
Về giải phẫu, xương ổ răng là phần lõm của xương hàm để giữ các chân
răng gồm có:
+ Bản xương (có cấu tạo là xương đặc): bản xương ngoài là xương vỏ,
bản xương trong (còn gọi là lá sàng).
+ Xương xốp: nằm giữa hai bản xương trên và giữa các lá sàng
Cấu trúc mô học của xương ổ răng
* Cấu trúc của lớp xương vỏ nhìn chung giống như ở các xương đặc
khác, có nghĩa là nó bao gồm các hệ thống Havers.
* Xương xốp bao gồm một mạng lưới bè xương mỏng, xen giữa là các
khoang tuỷ, chủ yếu lấp đầy tuỷ mỡ.
1.1.4. Xương răng
Xương răng bọc phần ngà răng ở chân răng. Xương răng có vùng vô bào
và vùng có tế bào, trong đó hydroxyapatite chiếm từ 45-50%. Xương răng gần
cuống răng có hệ thống Havers và mạch máu.


8

1.2. Những khái niệm cơ bản về bệnh viêm lợi
1.2.1. Định nghĩa viêm lợi
Viêm lợi là tình trạng viêm chỉ khu trú ở lợi bao gồm lớp biểu mô bên
ngoài, lớp mô liên kết kế cận. Các mô khác như xương ổ, dây chằng nha chu,

màng nha chu hay cement không bị ảnh hưởng [8].
Ở PNMT, những thay đổi về sinh lý không đủ để gây ra bệnh lợi, nhưng
nhờ những kích thích tại chỗ nên viêm lợi đã xảy ra [9].
1.2.2. Phân loại viêm lợi
Kiến thức về bệnh căn học và bệnh học của các loại bệnh trong miệng
thay đổi liên tục theo sự phát triển của khoa học
Phân loại trình bày dưới đây là bản cập nhật mới nhất (03/2018) cho
phân loại bệnh nha chu năm 1999 của Hiệp Hội Nha chu Hoa Kỳ (AAP). [7]
* Viêm lợi do mảng bám (Murakami và cộng sự - 2018).
- Chỉ liên quan trực tiếp mảng bám
- Do ảnh hưởng của các yếu tố nguy cơ toàn thân hoặc tại chỗ
- Lợi phì đại do ảnh hưởng của thuốc
* Bệnh lợi không do mảng bám (Holmstrup và cộng sự - 2018)
- Do rối loạn tăng trưởng / di truyền
- Do vi khuẩn đặc hiệu
- Tình trạng viêm và miễn dịch
- phản ứng quá mẫn
- U lợi
- Do bệnh nội tiết, dinh dưỡng và chuyển hóa
- Bệnh lợi do tổn thương sang chấn
- Nhiễm sắc tố ở lợi
1.2.3. Các triệu chứng lâm sàng viêm lợi [8]
Đánh giá những triệu chứng của VL cần chú ý đến những thay đổi rõ rệt
của lợi viêm để phân biệt với lợi bình thường


9

Vị trí viêm:
Quá trình viêm đầu tiên xảy ra ở lợi - răng, nơi có kích thích tại chỗ

như vi khuẩn, vôi răng, dắt thức ăn...VL có thể khu trú trên một răng, một
nhóm răng hay toàn bộ hai hàm
Chảy máu lợi:
- Hai triệu chứng đầu tiên của VL, trước khi viêm được xác lập là:
+ Dịch lợi tiết ra nhiều hơn
+ Chảy máu ở khe lợi khi thăm dò bằng dụng cụ.
- Chảy máu lợi là dấu chứng có tầm quan trọng đặc biệt trong việc chẩn
đoán sớm đồng thời giúp cho công việc dự phòng không để bệnh VL tiến triển
nặng hơn.
- Người ta phân biệt: chảy máu lợi do những nguyên nhân tại chỗ và
chảy máu lợi do nguyên nhân toàn thân.
+ Chảy máu cấp tính: Đó là những hiện tượng chảy máu ở những giai
đoạn viêm cấp tính hoặc do lợi bị tổn thương một cách đột ngột (như chải
răng gây chấn thương lợi). Lợi bị chảy máu bất thình lình khi có kích thích
nhẹ như trong trường hợp “Viêm lợi loét hoại tử cấp”.
+ Trong trường hợp chảy máu cấp tính, chảy máu là do các mạch máu
sung huyết trong mô liên kết bị bộc lộ ra ngoài tiếp theo sự tróc vảy của lớp
biểu mô hoại tử ở bề mặt.
+ Có những trường hợp chảy máu lợi theo chu kì kinh nguyệt của phụ
nữ. Cơ thể suy yếu, ăn uống không đầy đủ cũng có thể làm chảy máu lợi đặc
biệt là khi chải răng.
Những thay đổi về màu sắc
-

Đổi màu là dấu chứng rất quan trọng của bệnh lợi. Bình thường là màu
hồng nhạt.


10


-

Từ màu hồng nhạt đổi sang đỏ, đỏ sẫm và xanh xám.

-

Lợi trở nên đỏ hơn: khi có sự gia tăng số lượng mạch máu, giảm độ
sừng hóa.

-

Lợi trở nên nhạt: giảm lượng mạch máu (trong trường hợp bị xơ hóa)
tăng độ sừng hóa ở bề mặt biểu mô.

-

Viêm mạn: có màu đỏ sẫm hay đỏ xanh, do máu ứ dịch, chậm tuần
hoàn giảm oxy huyết. Sự đổi màu bắt đầu từ gai lợi, tới lợi viền, lợi dính.

-

Viêm cấp: màu đỏ thắm. Viêm nặng đổi màu đỏ thắm xanh hơi xám và
xám trắng đục (mô bị hoại tử).

-

Nhiễm sắc kim loại: Bệnh nhân sử dụng thuốc có kim loại với mục đích
điều trị hay tiếp xúc với kim loại nặng tạo vết đen trên lợi, hay tạo một đường
dài đen song song với lợi viền.


-

Đổi màu do bệnh tổng quát: do mắc bệnh toàn thân

-

Nhiễm melanin tăng trong bệnh Addison, bệnh u xơ thần kinh…
Thay đổi vị trí của lợi: Bờ lợi gai lợi sưng phù có thể lên đến phần lồi
của thân răng. Tạo túi giả (biểu mô kết nối không di chuyển).
Thay đổi tính săn chắc của lợi: Lợi bình thường thì chắc và đàn hồi.
Viêm mãn, viêm cấp đều làm thay đổi tình trạng ấy. Trong viêm mãn, lợi có
vẻ chắc hơn là viêm cấp. Đôi khi lợi săn cứng do bị xơ hóa.
Thay đổi về cấu trúc bề mặt: Lợi mất lấm tấm ở bề mặt là dấu chứng
khởi đầu của viêm. Trong viêm mãn, lợi có thể bóng láng hoặc cũng có thể
chắc, có hạt. Những thay đổi này tùy thuộc vào sự phù nề của lợi hay sự xơ
hóa của lợi.
Thay đổi ở đường viền của lợi: Lúc đầu lợi không viêm, săn chắc và
màu sắc bình thường. Sau vì tình trạng lợi sưng phồng tích tụ thức ăn nên gây
ra viêm thứ cấp.
Đau: VL thường không đau, nhưng ở giai đoạn cấp gây đau. Lợi sưng
đỏ và đau [10].


11

1.3. Các chỉ số dùng trong đánh giá bệnh quanh răng [8]
1.3.1. Chỉ số GI (Gingival Index): Đánh giá VL bằng chỉ số GI của Loe và
Silnees (1963). GI rất hữu hiệu trong nghiên cứu bởi vì nó khá nhạy dù có
thay đổi nhỏ, dễ đánh giá và cho phép tách biệt từng điểm số khi khám nên
giảm tối đa lỗi. Mô lợi quanh răng được chia thành bốn vùng để chấm điểm:

gai lợi ngoài xa, lợi mặt ngoài, gai lợi ngoài gần và lợi mặt trong. Mỗi đơn vị
này được đánh giá theo thang điểm từ 0 đến 3
Bảng 1.1. Chỉ số lợi (GI)
Điểm số

Tiêu chuẩn

0

Lợi bình thường

1

Lợi viêm nhẹ , đổi màu, hơi phù, chaỷ máu rất ít khi thăm khám

2

Lợi viêm trung bình, đỏ, phù, chảy máu nhiều điểm khi thăm khám

3

Lợi viêm nặng, đỏ, phù, lở loét, chảy máu khi thăm khám và chảy
máu tự phát.

1.3.2. Chỉ số chảy máu khe lợi SBI (sulcus bleeding index) của Műhleman và
Mazor (1958). Chỉ số này cho thấy mối quan hệ giữa nhiễm khuẩn và chảy
máu khi thăm dò. Chỉ số này khá nhạy, độ tách biệt cao do đó đòi hỏi người
khám phải được huấn luyện kỹ. Thường được dùng trong nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng, không dùng trong nghiên cứu dịch tễ mô tả. Đánh giá ở nhú
lợi và lợi viền. SBI của một cá thể là tất cả trung bình SBI của các vị trí đánh

giá của cá thể đó. Nguyên thủy của bảng này chỉ có 4 điểm số, sau đó số 4
được tách thành số 4(1), 4(2) và số 5.


12

Bảng 1.2. Chỉ số chảy máu rãnh lợi (SBI)
Điểm số

Tiêu chuẩn

0

Không viêm, không chảy máu khi thăm khám

1

Chảy máu khi thăm nhưng bề mặt lợi bình thường

2

Chảy máu khi thăm và lợi đổi màu sắc

3

Chảy máu khi thăm, lợi đổi màu và phù nhẹ

4

(1) Chảy máu khi thăm, lợi đổi màu và phù rõ

(2) Chảy máu khi thăm và phù rõ

5

Chảy máu khi thăm và chảy máu tự phát, lợi đổi màu, phù
nhiều, có hay không có lở loét

1.3.3. Chỉ số vệ sinh răng miệng đơn giản OHI-S (Oral Hygiene IndexSimplified) của Greene và Vermillion (1964). MB răng có liên hệ mật thiết
với sự hiện diện và mức độ trầm trọng của bệnh nha chu nên hầu hết tất cả các
nghiên cứu đều sử dụng chỉ số này. Sáu bề mặt răng được đánh giá là mặt
ngoài răng hàm lớn thứ nhất hàm trên bên phải và trái, mặt trong răng hàm
lớn thứ nhất hàm dưới bên phải, trái và mặt ngoài răng cửa giữa hàm trên bên
phải và của giữa hàm dưới bên trái. Thang điểm đánh giá từ 0 đến 3.
Bảng 1.3. Chỉ số vệ sinh răng miệng đơn giản (OHI-S)
Điểm số
0
1
2
3

Tiêu chuẩn
Không có cao răng và mảng bám
Cao răng mềm phủ không hơn 1/3 mặt răng, hoặc có mảng
bám nhưng chưa có cao răng
Cao răng mềm phủ hơn 1/3 nhưng không quá 2/3 mặt răng
Cao răng phủ hơn 2/3 mặt răng

1.4. Dịch tễ học viêm lợi
Theo điều tra sức khỏe răng miệng (SKRM) toàn quốc ở Việt Nam năm
2000 của Trần Văn Trường và Lâm Ngọc Ấn: tỷ lệ người có bệnh quanh răng

ở mức rất cao 90,7%. Trong đó có 31,8% người có túi lợi nông và sâu. Tỷ lệ


13

người có sức khỏe vùng quanh răng từ trung bình trở lên (tức là có từ 3 vùng
lục phân lành mạnh trở lên) ở mức rất thấp, dưới 10% [1].
Các nghiên cứu dịch tễ học trên thế giới và Việt Nam đã chỉ ra rằng viêm
lợi gặp hầu hết ở mọi người trong cộng đồng.VL xuất hiện và lưu hành rất cao ở
nhóm tuổi vị thành niên: Theo Mühleman và Mazor (1958) tuổi 13 ở Thụy điển bị
VL là 93% [11].Ở Trung Quốc theo Bian Jin You ở vùng Yungcheng tỷ lệ VL là
99% (1986) và theo nghiên cứu của Yupin ở Chiengmai - Thái Lan cho thấy 93%
VL, chỉ có 0,7% người có lợi hoàn toàn khỏe mạnh ở lứa tuổi 35- 44 [12].
Theo điều tra SKRM toàn quốc ở Việt Nam năm 2000 ,tỷ lệ VL của cả
nước như sau [1]
Bảng 1.4. Tỷ lệ viêm lợi cả nước năm 2000
Tuổi
12
15
35-44

Cả Nước
95%
95,6%
99,26%

TP. Hà Nội
84%
96%
92%


TP. HCM
100%
96%
100%

Cao Bằng
88%
92%
100%

+ Ở Huế, theo điều tra SKRM của nhân dân thành phố năm 1990, tỷ lệ
VL là 93,57% ở lứa tuổi 12-15.
+ Các nước trên thế giới tỷ lệ VL lứa tuổi 15-19 như sau:
- Ấn Độ: năm 1989 là 96%.
- Nepal: năm 1986 là 99%.
- Thái Lan: năm 1981 là 100%.
- Úc: năm 1984 là 63%.
- Nhật: Năm 1987 là 88%.
1.5. Bệnh viêm lợi trên phụ nữ mang thai
1.5.1. Những thay đổi về giải phẫu và sinh lý phụ nữ mang thai
Trong khi có thai, cơ thể người phụ nữ có những thay đổi lớn, toàn bộ cơ
thể tham gia vào quá trình thai nghén . Những thay đổi về giải phẫu thể hiện
rõ ở tất cả các cơ quan trên cơ thể người mẹ như: cơ quan sinh dục, hệ thống


14

xương, thay đổi ở da, thay đổi ở hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa. Thể tích máu
tăng dần từ 3 tháng đầu của thai kỳ, tăng nhanh vào 3 tháng giữa, chậm lại

vào 3 tháng cuối [13].
- Thai kỳ I (tuần thứ 1 đến tuần thứ 12), trong giai đoạn này hormone
chủ yếu có nguồn gốc từ cơ thể người mẹ, thai phụ chưa có thay đổi rõ về giải
phẫu, nhưng lại mang đến rất nhiều phiền toái (mà dân gian hay gọi là nghén)
như: thiếu máu cấp, chóng mặt, đau đầu, buồn nôn [13]. Trong 3 tháng đầu,
thai phụ hay bị nôn, buồn nôn, thích ăn thức ăn lạ chua hoặc ngọt vì thế tăng
nguy cơ cho nhóm bệnh răng lợi. Giai đoạn này nội tiết tố chưa ổn định, rau
thai chưa bám chắc vào buồng tử cung, dễ có nguy cơ sảy thai vì thế các thủ
thuật tránh làm trong giai đoạn này.
- Thai kỳ II (tuần thứ 13 đến tuần thứ 24): các triệu chứng nghén dần hết đi,
thai phụ ăn uống trở lại bình thường, cơ thể đã có những thay đổi rõ ràng về giải
phẫu [13]. Tâm lý, cảm xúc và sức khỏe của thai phụ cũng dần trở về bình
thường. Giai đoạn này nội tiết tố ổn định, rau thai đã bám chắc trong buồng tử
cung, thành tử cung dầy và chắc nhất. Trung bình trong 3 tháng giữa mỗi tuần
tăng khoảng 0,5 kg, đây là giai đoạn thai phụ dễ chịu nhất trong cả thai kỳ vì thế
cũng là giai đoạn thích hợp nhất cho mọi thủ thuật (nếu cần thiết).
- Thai kỳ III (từ tuần 25 đến tuần 40): Lúc này cơ thể của thai phụ đã trở
nên nặng nề hơn, gây ra nhiều biểu hiện như: mệt mỏi, ăn nhanh no, khó thở,
phù do chèn ép…Giai đoạn này tử cung dãn rộng, thành tử cung mỏng dần,
bắt đầu tăng sinh nội tiết tố kích đẻ, khả năng co rút và co bóp bắt đầu tăng
dần, vì thế các kích thích trong thai kỳ này dễ gây nguy cơ sinh non thiếu
tháng. Nếu tiến hành các thủ thuật trong thời kỳ này để PNMT nằm lâu ở một
tư thế dễ gây khó thở, mỏi, mệt và có nguy cơ sinh non. Chính vì vậy, chúng
tôi chọn bệnh nhân can thiệp trong kỳ hai của thai kỳ tức là từ tuần thứ 13 đến
tuần thứ 24.


15

- Đặc trưng của thời kỳ mang thai là có sự thay đổi nội tiết rất lớn. Mô

nhau thai sản sinh một lượng progesterone và estrogen đáng kể, gây những
thay đổi sinh lý ở toàn cơ thể như: cơ quan sinh dục, hô hấp, tiết niệu, cơ
xương khớp, da...tuy nhiên thay đổi về tuần hoàn và tiêu hóa là những thay
đổi có ảnh hưởng trực tiếp đến răng - miệng.
1.5.2. Ảnh hưởng của sự thay đổi hormone giới tính trên mô lợi
Mảng bám vi khuẩn là yếu tố khởi phát bệnh nha chu, tuy nhiên còn có
nhiều yếu tố tổng quát có ảnh hưởng đến tỷ lệ, tiến triển và độ trầm trọng của
bệnh trong đó có hormone giới tính [14]. Khoảng hơn 50% trường hợp tình
trạng viêm sẽ trầm trọng hơn trong thời gian mang thai ở những phụ nữ có viêm
lợi trước đó. Viêm lợi thường rõ hơn ở tháng thứ 2 của thai kỳ và đạt mức tối đa
trong tháng thứ 8. Mức độ trầm trọng của viêm lợi có tương quan với nồng độ
hormone sinh dục trong thai kỳ. Trong lúc mang thai, nồng độ progesterone đạt
mức 100mg/ml, cao gấp 10 lần ở thì hoàng thể của chu kỳ kinh nguyệt. Nồng
độ hormone giới tính trong mô lợi, nước bọt, huyết thanh và dịch lợi cao có
thể làm đáp ứng viêm trở lên mạnh hơn [15]. Estrogen và progesterone có
nhiều tác dụng sinh học quan trọng có thể ảnh hưởng đến nhiều hệ thống cơ
quan trong đó có khoang miệng [16].
+ Ảnh hưởng của estrogen trên mô lợi [14]
-

Làm tăng sinh tế bào mạch máu

-

Giảm sừng hóa trong khi tăng glycogen biểu mô
+ Ảnh hưởng của progesterone trên mô lợi [14]

-

Làm tăng giãn mạch dẫn đến tăng tính thẩm thấu gây phù nề và tập

trung các tế bào viêm

-

Gia tăng tình trang tăng sinh các mạch máu mới làm lợi có khuynh
hướng dễ chảy máu

-

Gây rối loạn tốc độ và kiểu sản xuất collagen

-

Tăng phân hủy từ chuyển hóa folate (thiếu folate có thể ức chế sửa
chữa mô, chậm lành thương)


16

Giảm yếu tố ức chế hoạt hóa plasminogen type 2(PAI-2) và do đó làm

-

tăng phân hủy protein của mô liên kết.
-

Ojanotko - Harri và cộng sự (1991) đưa ra vai trò của progesterone
trong viêm lợi và u lợi thai nghén: hormon này hoạt động như một chất
ức chế miễn dịch trong các mô lợi của phụ nữ mang thai, do dó ức chế
các phản ứng chống viêm cấp tính [17].


1.5.3. Đặc điểm viêm lợi trên phụ nữ mang thai
Theo nghiên cứu của Phan Thị Kim Tuyết mô tả thì viêm lợi là biểu hiện
lâm sàng chủ yếu của viêm nha chu ở PNMT [9].
Trong thời kỳ thai nghén, lợi đáp ứng mạnh hơn với các kích thích của vi
khuẩn và sản phẩm đào thải của vi khuẩn, lợi phù nề đỏ và thay đổi hình dạng
bờ lợi và nhú lợi và dễ chảy máu khi khám nhẹ nhàng với cây thăm dò nha
chu, khác với viêm lợi do mảng bám thông thường là mảng bám vi khuẩn ít
hơn nhưng lại gây viêm nhiều hơn.
Viêm lợi thai nghén (VLTN) thường xuất hiện vào giai đoạn 2 của thai
kỳ và giảm dần sau khi sinh con [18].Đặc điểm lâm sàng viêm lợi trên PNMT:


Thay đổi màu sắc lợi



Thay đổi kích thước lợi



Tăng nhiệt độ và dịch tiết trong rãnh lợi



Chảy máu khi thăm khám, đánh răng hoặc chảy máu tự nhiên



Đau, ngứa vùng lợi

- Viêm quanh răng ở PNMT chủ yếu trước khi mang thai. Theo Cohen
(1969) và Hugoson (1971), độ sâu túi quanh răng lúc mang thai có thể tăng
lên do lợi bị phù nề và/hoặc tăng sản nhưng không phải là dấu hiệu của phá
hủy quanh răng thật sự. Kết quả nghiên cứu của Cohen (1969) và Tilakaratne
(1994) đều không tìm thấy ảnh hưởng của thai kỳ lên mức độ bám dính của
mô quanh răng. Mất bám dính thực sự là tình trạng viêm lợi mạn tính kéo dài
hơn 09 tháng của thai kỳ [19].


17

Năm 1946, Ziskin và Ness đưa ra phân loại lâm sàng của viêm lợi thai
nghén như sau [20]:
+ Loại I: đặc trưng bởi chảy máu lợi, không có biểu hiện khác.
+ Loại II: đặc trưng bởi sưng nề toàn bộ nhú lợi, nhú lợi mất nhọn
+ Loại III: đặc trưng bởi sự thay đổi màu sắc lợi tự do, có vùng bề mặt
lợi màu đỏ như quả mâm xôi.
+ Loại IV: Viêm lợi phì đại toàn hàm của thai kỳ.
+ Loại V: U lợi có cuống.
1.5.4. U lợi có cuống ở PNMT
Một biểu hiện đặc biệt của bệnh quanh răng trong lúc mang thai là “ u lợi
thai nghén”, tỷ lệ từ 0,2 – 9,6%. U lợi thai nghén đầu tiên được báo cáo bởi
Blum vào năm 1912. U lợi có màu đỏ tía có thể chuyển sang màu xanh sậm,
bản chất là tổ chức hạt do phản ứng quá mức với kích thích của vi khuẩn. Đây
là sự tăng sinh của lợi dạng u, thường xuất hiện ở nhú lợi và không phân biệt
được về lâm sàng cũng như mô học với u hạt sinh mủ ở người không mang thai
hoặc đàn ông. Trên lâm sàng, tổ chức u hay xuất hiện ở vùng nhú lợi của răng
hàm trên. U dễ chảy máu, trở nên quá sản, có dạng hòn, có cuống hay không có
cuống. U lợi thai nghén thường xuất hiện vào tháng thứ 2 hay thứ 3 của thai kỳ ở
vùng lợi viêm có kết hợp với tình trạng VSRM kém [14]. Màu sắc tổn thương

thay đổi từ đỏ tía đến xanh thẫm, phụ thuộc vào tổ chức mạch và mức độ ứ trệ
tuần hoàn. U thường không đau nếu không bị chấn thương do răng đối diện và
ăn nhai. Để điều trị phải loại bỏ các kích thích tại chỗ. Nếu tổ chức hạt tăng kích
thước nhanh, có thể lớn tới mức cản trở hoạt động nhai, phát âm, gây chảy máu
nhiều, ảnh hưởng đến sức khỏe và tâm lý của PNMT. Để điều trị phải can thiệp
ngoại khoa.


18

Hình 1.5. Tổ chức hạt và viêm lợi ở phụ nữ mang thai [7] [11]
1.5.5. Dịch tễ học bệnh viêm lợi ở PNMT ở Việt Nam và trên thế giới
Ở Việt Nam, việc phòng ngừa và điều trị viêm lợi cho PNMT chưa được
quan tâm đúng mức nhất là ở các tuyến huyện thị.
Một số nghiên cứu trên PNMT tỷ lệ VL như sau:
- Theo Loë và Silness năm 1963 là 100% [21].
- Theo Đặng Huệ Hồng năm 2001 là 70,6% [22].
- Theo Miyazaki (1991) là 95% [23] , Sarlati (2004) là 92,1% [24].
- Tilakaratne và cộng sự (2000) thấy rằng dù mảng bám được kiểm soát
ở cả PNMT và phụ nữ không mang thai nhưng tình trạng viêm lợi ở PNMT
vẫn cao hơn và tăng dần theo thời gian mang thai. Kết quả này chứng tỏ rằng
nồng độ hormone giới tính cao rất có ảnh hưởng đến độ trầm trọng của viêm
lợi [25].


19

- Theo Phan Thị Kim Tuyết và Hoàng Tử Hùng (tại bệnh viện Cai Lậy Tiền Giang năm 2006), nghiên cứu trên 146 PNMT thì có 11,6% PNMT bị
viêm nha chu và 100% PNMT có VL [9]. Cũng trong nghiên cứu này thì các
tác giả cho rằng: VL là biểu hiện lâm sàng chủ yếu của viêm nha chu trên

PNMT [9]. Kết luận này cũng phù hợp với nghiên cứu của Machuca và cộng
sự (1999), Taani và cộng sự (2003) [26] [27].
- Theo Lê Bảo Trâm (tại khoa sản bệnh viện Bạch Mai - Hà Nội) năm
2009 tỷ lệ viêm lợi là 90,7% trên mẫu 290 PNMT và không có trường hợp
nào bị viêm quanh răng [2].
- Theo Nguyễn Thị Thái (tại Bệnh viện Thanh Nhàn) năm 2012, VL trên
PNMT rất đặc trưng với 98,8% có chảy máu lợi nhất là sau đánh răng, trong
đó u lợi thai nghén chiếm 1,12% [28].
- Tỷ lệ u lợi thai nghén theo nghiên cứu của Caranza (2002) là 1,8% 5%, Corgel JO (2002) là 0,2%- 9,6%, Phan Thị Kim Tuyết và Lê Bảo Trâm là
1,4% [14] [2].
1.5.6. Bệnh quanh răng và nguy cơ sinh non, nhẹ cân
Các yếu tố như tuổi, tiểu đường, thuốc lá đã được xác định là nguy cơ
đối với bệnh nha chu. Mang thai là một tình trạng đặc biệt, có ảnh hưởng đến
bệnh quanh răng do nồng độ hormone giới tính tăng cao. Nhiều nghiên cứu
gần đây còn cho thấy bệnh nha chu cũng tác động trở lại tình trạng mang thai
(có thể gây ra sinh non, nhẹ cân).
Theo WHO (1984), được gọi là sinh non nhẹ cân (SN - NC) khi chuyển
dạ sinh trước 37 tuần thai và trọng lượng trẻ mới sinh dưới 2500g. Một cơ chế
sinh học hợp lý giải thích cho liên kết giữa nhiễm trùng nha chu và sinh non
là: các nội độc tố của vi khuẩn gram âm (như trong bệnh nha chu) kích hoạt
sản xuất các cytokine và với một nồng độ thích hợp cytokine, prostaglandine


20

là những yếu tố khởi phát chuyển dạ [29] [30]. Offenbacher và cộng sự
(1996) tìm thấy mối tương quan mạnh giữa viêm nha chu và SN - NC đã thu
hút nhiều sự quan tâm do tỷ số chênh khá ấn tượng OR = 7,9 [31], sau đó
nhiều nghiên cứu được thực hiện nhưng cho nhiều kết quả khác nhau do có sự
khác nhau về yếu tố kinh tế, xã hội và chủng tộc của mẫu nghiên cứu. Do đó

cần thêm nhiều mẫu nghiên cứu về SN - NC và các yếu tố ảnh hưởng trong đó
có bệnh nha chu. Ở Việt Nam theo nghiên cứu của Cao Thị Thương Huyền
(2006) tại bệnh viện Đa khoa Cần Thơ thấy rằng: sản phụ có bệnh viêm nha
chu có nguy cơ sinh non gấp 3,06 lần sản phụ không có bệnh nha chu [32].
Để giảm hậu quả của nhiễm trùng nha chu lên kết quả thai kỳ, chúng ta
phải có chiến lược chăm sóc, giáo dục và phòng ngừa hoặc điều trị thích hợp
cho phụ nữ trước và trong khi mang thai để đảm bảo một môi trường lành
mạnh trong suốt thai kỳ.
1.6. Điều trị u lợi có cuống trên PNMT
1.6.1. Mục tiêu điều trị
-

Loại trừ được viêm lợi, loại bỏ sự nhiễm khuẩn ở lợi, làm ngừng quá trình
viêm.

-

Làm giảm tình trạng chảy máu lợi, loại bỏ được đau (nếu có) giúp bệnh nhân
vệ sinh răng miệng dễ dàng.

-

Loại bỏ u lợi có cuống, tạo lại đường viền lợi sinh lý.

-

Giúp bệnh nhân ăn uống,vệ sinh răng miệng dễ dàng, cải thiện sức khỏe và
tâm lý.
1.6.2. Phương pháp điều trị
- Thời điểm điều trị thích hợp: PNMT có u lợi có cuống đang ở thai kỳ II

tức là từ tháng thứ 4 đến tháng thứ 6.
- Pha bệnh căn: điều trị viêm lợi, loại trừ các kích thích tại chỗ và hướng
dẫn CSRM


21

+ Lấy sạch cao răng và làm nhẵn mặt chân răng.
+ Kiểm soát MBR: Hướng dẫn VSRM đặc biệt là chải răng đúng kỹ
thuật, dùng bàn chải mềm và chải răng đúng cách; Dùng nước xúc miệng
có chứa chlohexidin 0,2% có tác dụng diệt khuẩn 01 lần/ ngày; Làm sạch
kẽ răng bằng các dụng cụ: bàn chải kẽ răng, chỉ tơ nha khoa, tăm hình tam
giác, tăm nước.
- Pha phẫu thuật: cắt bỏ u lợi bằng phương pháp phẫu thuật
Gây tê tại chỗ với thuốc tê Lidocain Hydrochloride 2% có Epinephrine
1: 100000. Sử dụng dao thường số 15C, cắt toàn bộ phần u có cuống dưới gây
tê tại chỗ. Đường rạch bờ vát ngoài, tạo hình lại lợi theo đúng giải phẫu.
-

Điều trị toàn thân:
+ Kháng sinh đường uống:Kháng sinh được sử dụng chống nhiễm trùng
miệng thường an toàn cho mẹ và thai nhi. Các thuốc họ penicillin thường
dùng phối hợp trong điều trị bệnh nha chu, áp xe lợi và viêm mô tế bào.
Cephalosporin cũng cùng nhóm. Ngoại trừ ở những bệnh nhân bị mẫn cảm, cả
hai loại kháng sinh này được FDA xếp vào loại an toàn (nhóm B). Đối với
những bệnh nhân dị ứng với penicillin thì lựa chọn thay thế là erythromycin
(ngoại trừ dạng estolate, có thể gây viêm gan ứ mật) và clindamycin (nhóm
B). Metronidazole, một thuốc thay thế cho clindamycin trong các nhiễm trùng
nặng, có thể được sử dụng trong ba tháng giữa và cuối (nhóm B).
Gentamycine, Tetracycline chống chỉ định trong thời kỳ mang thai.

+ Thuốc giảm đau trong trường hợp cần thiết: Acetaminophen – theo
phân loại FDA: thuộc nhóm B, an toàn trong suốt thai kỳ.
- Tái khám định kỳ kiểm tra: tình trạng cao răng, mảng bám, viêm lợi, u
lợi tái phát (nếu có).
* Hiệp hội nha khoa Mỹ khuyến cáo về phòng và điều trị u lợi thai
nghén, tóm tắt như sau:
- Phòng ngừa trước khi mang thai:


22

+ Khám răng miệng định kỳ và điều trị loại bỏ bệnh nha chu trước khi
mang thai.
+ Tích hợp chăm sóc nha khoa vào tư vấn sức khỏe thai kỳ.
- Phòng ngừa trong khi mang thai:
+ Khám răng miệng định kỳ và vệ sinh răng miệng tốt
+ Loại bỏ mảng bám răng
+ Sử dụng bàn chải đánh răng mềm
-

Nếu chẩn đoán có u lợi thai nghén, điều trị:
+ Tổn thương nhỏ, các tính năng tiêu biểu và không ảnh hưởng chức

năng hoặc thẩm mỹ thì lấy cao răng mảng bám, hướng dẫn chăm sóc răng
miệng và theo dõi đến sau sinh. Phẫu thuật cắt u lợi được thực hiện nếu vẫn
còn sau khi kết thúc thai kỳ.
+ Nếu kích thước lớn, chảy máu nhiều, đau và/ hoặc ảnh hưởng chức
năng: phẫu thuật cắt u lợi.
- Phòng ngừa tái phát:
+ Loại bỏ u lợi đến lớp màng xương.

+ Loại bỏ kích thích tại chỗ.
+ Vệ sinh răng miệng cẩn thận và loại bỏ mảng bám răng.
+ Sử dụng bàn chải đánh răng mềm.
1.6.3. Các nghiên cứu về điều trị phẫu thuật cắt u lợi
- Có rất nhiều quan điểm đưa ra về việc điều trị u lợi ở phụ nữ mang thai.
Một số nhà nghiên cứu khuyến cáo u lợi thai nghén cần được loại bỏ bằng
phẫu thuật, thường là thực hiện ở thai kỳ II, kết hợp chăm sóc vệ sinh răng
miệng; trong khi một số nhà nghiên cứu khác như Lindenmuller IH (2010) lại
cho rằng phẫu thuật có thể trì hoãn đến sau sinh [33].
- Theo Gordon – Nunez (2010), nghiên cứu trên 293 bệnh nhân có u hạt
trong miệng, trong đó 83% là u lợi. Đa số các trường hợp đều có triệu chứng


23

chảy máu; nốt sần (71,9%) với độ chắc mềm(62,3%) và bề mặt màu đỏ
(73,2%). Tỷ lệ sau phẫu thuật cắt bằng dao thường là 8,2% [34].
- Theo Sapp JP (1997), tỷ lệ tái phát sau cắt u lợi ở phụ nữ mang thai là
khá phổ biến [35]. Theo Taira (1992), sau khi phẫu thuật, tỷ lệ tái phát tối đa
là 16% các trường hợp và nếu tái phát thì phẫu thuật lại để loại bỏ là cần thiết.
Lawoyin và cộng sự (1997) nghiên cứu trên 38 bệnh nhân không có
trường hợp nào tái phát sau phẫu thuật cắt u lợi [36], Al-Khateeb và cộng sự
(2003) báo cáo tỷ lệ tái phát là 5,8% [37].
- Gilmore A, Kelsberg G, Safranek S. (2010) đã đưa ra kết quả so sánh
giữa các phương pháp phẫu thật u lợi [38].
Phương pháp

Nghiên cứu

Dao thường

Nạo hoặc loại
bỏ bằng đốt

2 NC thuần tập hồi cứu
1 NC thuần tập hồi cứu
1 NC thuần tập tiến cứu
1 NC thuần tập hồi cứu
1 ca lâm sàng

Laser CO2

Số bệnh
nhân
384

Số lần điều
trị
1

118

1-2

10%

103

1

2-10%


Tái phát
0-3,7%

- Saravana GH (2009) nghiên cứu trên 137 bệnh nhân có u lợi: phẫu
thuật cắt bỏ là đủ để ngăn ngừa tái phát nhưng nguyên nhân
và bệnh sinh phải được biết để hiểu bản chất của nó [39].
- Nisha S, Shivamallu AB, Hedge U (2018), báo cáo ca lâm
sàng: bệnh nhân 20 tuổi, mang thai 17 tuần có u lợi ở vùng răng hàm hàm
trên bên phải với kích thước lớn 5x4 cm. Sau phẫu thuật bằng dao thường
dưới gây tê tại chỗ, bệnh nhân được tái khám sau 1 tuần, theo dõi không có tái
phát trong vòng 6 tháng.

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu


24

2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Mục tiêu 1: đối tượng nghiên cứu là phụ nữ mang thai trong thai kỳ
II (từ tuần thứ 13 đến tuần thứ 24 thai kỳ) có tiền sử khỏe mạnh và thai kỳ
bình thường.
- Mục tiêu 2: đối tượng nghiên cứu là phụ nữ mang thai trong thai kỳ II
có u lợi có cuống.
- Các đối tượng tham gia nghiên cứu đều được nhận thông tin về nghiên
cứu và đồng ý tham gia
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Các trường hợp sau đây không được đưa vào mẫu nghiên cứu:

- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu, không hợp tác điều trị.
- Bệnh nhân còn ít hơn 20 răng.
- Đối tượng có nguy cơ thai kỳ cao: bệnh tiểu đường, cao huyết áp thai
kỳ, tiền sử sảy thai nhiều lần, có bệnh toàn thân khác đi kèm, đa thai.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Khoa Khám bệnh – Bệnh viện Phụ Sản trung ương, Khoa
Phụ Sản, bệnh viện Bạch Mai và Khoa Nha Chu – Bệnh viện Răng Hàm Mặt
trung ương Hà Nội.
- Thời gian: Từ tháng 9/2017 đến tháng 8/2018.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
a.

Cỡ mẫu cho mục tiêu đặc điểm lâm sàng viêm lợi, u lợi có cuống ở
PNMT:
- Phương pháp chọn mẫu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
- Cỡ mẫu được tính theo công thức


25

n=

Trong đó:


n: là cỡ mẫu nghiên cứu.




Z(1- α /2) = 1,96 là hệ số tin cậy ở mức sác xuất 95%.



p = 90% là tỷ lệ PNMT mắc viêm lợi. [2]



q = (1 - p) là tỷ lệ PNMT không mắc viêm lợi.



là khoảng sai lệch tương đối mong muốn: 5%
Vậy cỡ mẫu tính được là 171 bệnh nhân. Để dự phòng các đối tượng

nghiên cứu đã được chọn nhưng không đồng ý tham gia hoặc vắng mặt,chúng
tôi lấy cỡ mẫu là 180.
b.

Cỡ mẫu cho can thiệp điều trị u lợi ở PNMT:
Phương pháp chọn mẫu:
Chọn mẫu thuận tiện dựa theo tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ, khám lần

lượt đến khi đạt được cỡ mẫu cần có thì dừng lại.


Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng không đối chứng,
so sánh trước và sau điều trị theo thời gian tại 3 thời
điểm: trước điều trị, sau điều trị 1 tháng và sau điều
trị 2 tháng.




Cỡ mẫu:
n

Trong đó:
p0 = 94,2% theo nghiên cứu của Al Khateeb (2003) [37]
pa: ước tính bằng 77%
Với α= 0,05; lực mẫu 1- β= 0,8
Thay vào công thức ta có n= 30 bệnh nhân để can thiệp.


×