Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Tác dụng hỗ trợ điều trị của hợp phương bổ dương hoàn ngũ thang và đạo đàm thang phục hồi chức năng vận động bệnh nhân NMN sau giai đoạn cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.9 KB, 100 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ nhiều thập kỷ nay, tai biến mạch máu não (TBMMN) vẫn là một vấn
đề mang tính thời sự cấp bách, không chỉ đối với y học mà còn tác động
không nhỏ đối với nền kinh tế của các quốc gia trên toàn thế giới. Đây là một
tổn thương rất thường gặp của hệ thống mạch máu não, chiếm vị trí hàng đầu
trong các bệnh lý thuộc hệ thần kinh trung ương, TBMMN là nguyên nhân gây
tử vong đứng hàng thứ 3 sau các bệnh lý tim mạch và ung thư [1].
Tại Hoa Kỳ (2001) hàng năm có khoảng 700.000 - 750.000 người mới
mắc, tử vong 130.000 người. Trong số người còn sống chỉ 10% khỏi hoàn
toàn, 25% có di chứng nhẹ, 40% di chứng vừa và nặng cần trợ giúp một phần
hoặc hoàn toàn [2].
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (2005), mỗi năm có hơn 5,7
triệu người tử vong do TBMNN. Riêng ở Châu Á hàng năm tử vong do
TBMMN là 2,1 triệu người [3], [4]. Trong đó 1,3 triệu người ở Trung Quốc,
448.000 người ở Ấn Độ, 390.000 người ở những nước khác trừ Nhật Bản [3].
Ở Việt Nam, TBMMN cũng đang có xu hướng gia tăng. Theo Nguyễn Văn
Đăng (2000), tại Khoa Thần kinh bệnh viện Bạch Mai từ 1991 – 1993, có 631
bệnh nhân, tăng gấp 2,5 lần so với từ năm 1986 đến năm 1989 [1].
Bệnh TBMMN còn liên quan chặt chẽ với các yếu tố nguy cơ (YTNC)
như: tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid… điều trị các YTNC trong cộng
đồng có thể giảm tới 80% TBMMN [5], [6].
Sau giai đoạn cấp, TBMMN thường để lại nhiều di chứng về vận động
và tâm trí, đặc biệt là di chứng về vận động. Chính vì vậy, phục hồi chức năng
(PHCN) vận động là một vấn đề cấp bách nhằm giảm bớt tối đa các di chứng
và giúp bệnh nhân sớm trở lại tái hòa nhập với gia đình và xã hội. Do vậy,


2


hiện nay việc điều trị bằng Y học hiện đại (YHHĐ) thường kết hợp điều trị
PHCN và điều trị các YTNC.
Y học cổ truyền (YHCT) cũng có những đóng góp không nhỏ trong điều
trị PHCN và điều trị YTNC cho bệnh nhân TBMMN. Có nhiều phương pháp
điều trị như điện châm, xoa bóp bấm huyệt và đặc biệt là bài thuốc YHCT như
Bổ dương hoàn ngũ thang, Đại tần giao thang, An cung ngưu hoàng, Đạo đàm
thang,… đã và đang được các thầy thuốc dùng điều trị cho bệnh nhân đạt kết
quả tốt [53], [60].
Bài thuốc “Bổ dương hoàn ngũ thang” được trích trong “Y lâm cải thác”
của tác giả Vương Thanh Nhậm có tác dụng bổ khí hoạt huyết, khứ ứ thông
lạc [54], bài thuốc “Đạo đàm thang” trích trong “Tế sinh phương” của tác giả
Nghiêm Dụng Hoàn có tác dụng ích khí, trừ đàm hóa trọc [55].
Tại Bệnh viện YHCT Vĩnh phúc, tỉ lệ bệnh nhân khám và điều trị bệnh
TBMMN hàng năm khá cao, theo thống kê, từ 01/2012 đến hết 03/2015 có
1.336 bệnh nhân TBNNM ở các giai đoạn cấp, phục hồi và di chứng đến
khám và điều trị chiếm 12,15% tổng số bệnh nhân đến viện [7]. Tại đây đã có
một vài nghiên cứu điều trị PHCN vận động cho bệnh nhân TBMMN. Nhằm
đa dạng hóa phương thức điều trị, nghiên cứu: “Tác dụng hỗ trợ điều trị của
hợp phương Bổ dương hoàn ngũ thang và Đạo đàm thang phục hồi chức
năng vận động bệnh nhân NMN sau giai đoạn cấp”đã được đặt ra nhằm
mục tiêu:
1. Đánh giá tác dụng hỗ trợ điều trị của hợp phương “Bổ dương hoàn
ngũ thang” và “Đạo đàm thang” phục hồi chức năng vận động cho
bệnh nhân NMN sau giai đoạn cấp có rối loạn Lipid máu.
2. Khảo sát tác dụng không mong muốn của phương pháp can thiệp này
trên lâm sàng và cận lâm sàng.


3


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình tai biến mạch máu não trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Tình hình TBMMN trên thế giới
Trên thế giới (1998): tỷ lệ mắc trên 100.000 dân: ở Rochster (Mỹ) là
556, xứ Wales (Anh) là 336, Nhật Bản là 569, Bangkok là 690, Ấn Độ là 596,
Đài Loan là 1.642. Tỷ lệ mắc mới hàng năm trên 100.000 dân ở Phần Lan là
150, Canada là 109, Hà Lan là 99, Nhật Bản là 303. Tỷ lệ tử vong do
TBMMN trên 100.000 dân ở Trung Quốc là 77,54, Nhật Bản là 196,7,
Malaysia là 15,9, Thái Lan là 11,8, Singapore là 35, Hồng Kong là 45,8 [8].
Ở Châu Phi, Conncor (2004), tỷ lệ mắc ở nông thôn 300/100.000 dân. Số
người bị đột quỵ trên 50 tuổi chiếm tới 81,3% [8].
Nghiên cứu dịch tễ học đột quỵ não ở Trung Quốc đầu tiên được tiến
hành từ những năm 1980. Nhóm tác giả Li, Zhang Z và cộng sự [9], đã tổng
hợp 14 nghiên cứu trên toàn Trung Quốc từ 1983 đến 1993 thấy tỷ lệ hiện
mắc trên 100.000 dân có sự khác nhau giữa các vùng: ở Bắc Kinh là 1,285,
Hà Bắc là 1,249, Vân Nam là 824, Thượng Hải là 615. Tỷ lệ mắc mới trên
100.000 dân hàng năm cũng có sự khác nhau: ở Bắc Kinh là 370, Hà Bắc là 441,
Thượng Hải là 151, Quảng Châu là 162. Tỷ lệ tử vong do TBMMN trên 100.000
dân: ở Bắc Kinh là 281, Hà Bắc là 272, Thượng Hải là 104. Tỷ lệ các loại
TBMMN: ở Bắc Kinh nhồi máu não (NMN) chiếm 52,5%, xuất huyết não
(XHN) là 39,6%, xuất huyết dưới nhện là 2,2%. Ở Hải Nam, XHN là 27,8%,
NMN là 58,3% [10].


4

1.1.2. Tình hình TBMMN ở Việt Nam
Theo Nguyễn Văn Đăng (1994) nghiên cứu ở nhiều tỉnh thành như Hà
Nội, Thanh Hóa, Thái Bình cho thấy tỷ lệ hiện mắc trung bình là

115,92/100.000 dân, tỷ lệ mắc mới là 28,25/100.000 dân và tỷ lệ tử vong là
20,55/100.000 dân [1].
Ở Miền Nam, Lê Văn Thành và cộng sự (2003) nghiên cứu dịch tễ ở thành
phố Hồ Chí Minh và Kiên Giang thấy tỷ lệ mắc mới hàng năm 152/100.000 dân,
tỷ lệ hiện mắc 606/100.000 dân và tỷ lệ tử vong là 36,06% [11].
Tại miền Trung, theo nghiên cứu của Hoàng Khánh và cộng sự (19891993) thấy tỷ lệ mắc mới có xu hướng tăng dần 16,3/100.000 dân năm 1989
lên 47,5/100.000 dân năm 1993 [11].
Theo Đặng Quang Tâm (2005) ở Cần Thơ tỷ lệ mắc mới hàng năm
29,4/100.000 dân, tỷ lệ hiện mắc 129/100.000 dân và tỷ lệ tử vong là
33,53/100.000 dân [12].
Nghiên cứu của Trần Văn Tuấn (2007) tại Thái Nguyên tỷ lệ mắc mới
hàng năm 8,5/100.000 dân, tỷ lệ hiện mắc 100,4/100.000 dân và tỷ lệ tử vong
là 5/100.000 dân [12].
Dương Đình Chỉnh nghiên cứu tại Nghệ An (2007 – 2008), tỷ lệ mắc
mới hàng năm 104,7/100.000 dân, tỷ lệ hiện mắc 355,9/100.000 dân và tỷ lệ
tử vong là 65,1/100.000 dân [13].
1.2. Tai biến mạch máu não theo Y học hiện đại
Định nghĩa: TBMMN là tình trạng tổn thương chức năng thần kinh xảy
ra đột ngột do nguyên nhân mạch máu não (thường tắc hay vỡ động mạch
não). Các tổn thương thần kinh thường khu trú hơn là lan tỏa, tồn tại quá 24
giờ, hoặc diễn biến nặng có thể tử vong trong vòng 24 giờ [14].
Trên lâm sàng được bệnh chia thành 2 thể chính: nhồi máu não (chiếm
80%) và xuất huyết não [14], [15].


5

1.2.1. Xuất huyết não
Xuất huyết não là hiện tượng chảy máu vào trong nhu mô não đột ngột
và cấp tính. XHN chiếm 10-30% của TBMMN chung và là nguyên nhân đưa

đến tàn phế hay tử vong trong vòng 6 tháng với tỷ lệ 30-50% [16].
1.2.2. Nhồi máu não
Nhồi máu não là hậu quả của sự giảm lưu lượng máu hoặc đình chỉ sự
lưu thông của một hoặc nhiều động mạch mà chúng tưới máu, nuôi dưỡng
vùng nào đó của não [17].
1.2.2.1. Nguyên nhân
Nguyên nhân gây NMN tại mạch máu não là do xơ vữa thành mạch, làm
hẹp động mạch, viêm động mạch nhất là động mạch nhỏ.
Mảng xơ vữa, huyết khối, bọt khí… từ một nơi khác di chuyển tới một
nhánh động mạch có đường kính bằng hoặc nhỏ hơn đường kính mảng xơ
vữa, cục huyết khối và làm mạch bị lấp [18].
1.2.2.2. Cơ chế bệnh sinh
Lưu lượng máu não bình thường 55ml /100g não/ phút. Khi bị tai biến
thiếu máu cục bộ ổ nhồi máu phân biệt hai vùng rõ ràng
+ Vùng trung tâm lưu lượng máu 10 – 15ml /100g não /phút. Các tế bào
vùng này chết không cứu vãn được gọi là vùng hoại tử.
+ Vùng ngoại vi, lưu lượng máu 23 – 30ml /100g não /phút, các tế bào
não không chết nhưng không hoạt động gọi là vùng tranh tối tranh sáng [19].
Vùng tranh tối tranh sáng còn được gọi là vùng nửa tối. Vùng này nếu
được tưới bù do tuần hoàn bàng hệ mạch hoặc nhờ thuốc giúp hấp thụ oxy, sẽ
hồi phục, vì vậy gọi là vùng điều trị. Thời gian tồn tại vùng nửa tối gọi là cửa
sổ điều trị, thường là 3 – 72 giờ, quá thời gian đó các tế bào chuyển sang hoại
tử, vì vậy phải điều trị càng sớm càng tốt, “thời gian là não – time is brain”.
Vùng nửa tối tồn tại được nhờ các yếu tố tăng trưởng thần kinh (FGF, TGF,
IGF). Nhiều khuyến cáo khuyên nên dùng các yếu tố tăng trưởng thần kinh


6

ngay giờ phút đầu tại nhà hoặc trên xe cấp cứu với hy vọng kéo dài cửa sổ

điều trị chờ điều kiện thuận lợi để tế bào não hồi phục [20].
1.2.3. Những yếu tố nguy cơ của TBMMN
Các yếu tố nguy cơ được chia thành hai nhóm: nhóm không biến đổi
được và nhóm có thể biến đổi được [21], [22].
1.2.3.1. Nhóm không biến đổi được
Tuổi, giới, chủng tộc, di truyền, địa lý là những YTNC không biến đổi
được. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đều đưa đến kết luận TBMMN
tăng theo tuổi và tăng vọt lên từ lứa tuổi 50 trở đi. Nam giới bị TBMMN nhiều
hơn nữ từ 1,5 đến 2 lần [21].
1.2.3.2. Nhóm có thể biến đổi được
Tăng huyết áp: là nguy cơ hàng đầu trong cơ chế bệnh sinh của
TBMMN. Tăng huyết áp tâm thu, tâm trương hoặc cả hai là YTNC độc lập
gây ra tất cả các loại TBMMN. Khi huyết áp tâm thu (HAtt) từ 160mmHg trở
lên và/hoặc huyết áp tâm trương (HAttr) từ 95mmHg trở lên, tỷ lệ TBMN ở
người tăng huyết áp so với những người huyết áp bình thường sẽ tăng từ 2,9
lần (đối với nữ) đến 3,1 lần (đối với nam) [21], [23].
Rối loạn lipid máu: là YTNC ngày càng được quan tâm do Lipid trong
huyết tương tồn tại dưới dạng kết hợp với apoprotein và được chia làm ba
loại: lipoprotein trọng lượng phân tử thấp (LDL – C) chiếm 40 - 50% các loại
lipoprotein tham gia vào cơ chế gây dày lớp áo trong của thành mạch;
lipoprotein trọng lượng phân tử cao (HDL – C) chiếm 17 - 23% các loại
lipoprotein có tác dụng bảo vệ thành mạch; triglycerid (TG) chiếm 8 - 12%
các lipoprotein và cũng tham gia vào cơ chế tạo mảng xơ vữa mạch. Mức độ
HDL thấp (dưới 0,9mmol/l), mức độ cao của TG (trên 2,3 mmol/l) cộng với
tăng huyết áp sẽ gia tăng gấp đôi nguy cơ TBMMN [21].


7

Béo phì: là một yếu tố không trực tiếp gây TBMMN mà thông qua các

bệnh tim mạch. Có sự liên quan rất rõ rệt giữa béo phì, tăng huyết áp và sự đề
kháng Insulin [24].
Các bệnh lý tim: rung nhĩ không có bệnh lý van tim, nhồi máu cơ tim
cấp, phì đại thất trái, bệnh tim do thấp, các tai biến do van tim giả là nguyên
nhân chủ yếu gây tắc mạch não từ tim [21], [24].
Đái tháo đường: là yếu tố nguy cơ gây ra tất cả các thể TBMMN [17].
Hút thuốc lá: nguy cơ tương đối của TBMMN ở người hút thuốc lá nhiều
(trên 40 điếu/ ngày) gấp hai lần ở người hút thuốc lá ít (dưới 10 điếu/ ngày) [21].
Rượu: lạm dụng rượu (56 đến 70g rượu/ngày hoặc say quá chén) sẽ làm
tăng áp lực máu, tăng kết tập tiểu cầu, tăng đông máu, tăng mức TG, cơn rung
nhĩ kịch phát, bệnh cơ tim và liên quan đến sự gia tăng của nguy cơ TBMMN
(đặc biệt là thể xuất huyết não) [21].
Tiền sử bị tai biến thoáng qua: nguy cơ xảy ra TBMMN sau cơn
thiếu máu thoáng qua là 10% trong năm đầu tiên; sau đó trong năm năm
tiếp theo, mỗi năm có tỷ lệ 5% [21].
Ngoài ra, còn một số yếu tố khác cũng được xếp vào nhóm này như tình
trạng kháng insulin, sử dụng thuốc ngừa thai, lạm dụng thuốc và dùng thuốc
gây nghiện, ít vận động thể lực, bệnh tế bào hình liềm, tăng acid uric máu,
nhiễm khuẩn, yếu tố tâm lý, tăng homocystein máu, các yếu tố đông máu, hẹp
động mạch cảnh chưa có triệu chứng [21], [22], [23].
1.2.4. Xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh
1.2.4.1. Các xét nghiệm cơ bản
Công thức máu: số lượng hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu [15].
Sinh hóa máu: định lượng glucose, ure, creatinin, điện giải đồ, Chol,
TG, LDL – C, HDL – C, đông máu cơ bản nhằm xác định yếu tố nguy cơ,
bệnh lý kèm theo [15],[23].


8


1.2.4.2. Chẩn đoán hình ảnh
Chụp cắt lớp vi tính (CLVT) sọ não giúp phân biệt NMN và XHN, vị trí
và kích thước của tổn thương [23],[22]. Trên thực tế chụp CLVT sọ não cho
kết quả âm tính xấp xỉ một phần ba số trường hợp TBMMN đã được chẩn
đoán lâm sàng [7], [18].
Chụp cộng hưởng từ sọ não có độ nhạy cao hơn chụp CLVT sọ não.
Hình ảnh XHN là hình ảnh tăng tín hiệu thì T2, hình ảnh NMN là tăng tín
hiệu thuần nhất trên T2 và giảm tín hiệu trên T1 [14], [18].
Chụp X quang tim phổi tìm các bệnh lý ở phổi kèm theo khi có chỉ định [14].
Ghi điện tim, xét nghiệm men tim và siêu âm tim mạch: phát hiện
bệnh lý van tim, cơ tim, huyết khối buồng tim, rối loạn nhịp tim [14], [19].
Siêu âm ổ bụng tổng quát.
• Một số xét nghiệm khác:
Ghi điện não: thường thấy hoạt động điện não giảm, nhưng thay đổi này
không đặc hiệu [18].
Chụp động mạch não số hoá xoá nền cho hình ảnh động mạch não rõ
nét, phát hiện được tắc, hẹp mạch máu, phình mạch, dị dạng mạch, co thắt
mạch não[25], [26], [29].
Siêu âm Doppler: Để phát hiện tắc, hẹp hệ động mạch cảnh trong và
ngoài sọ [18].
1.2.5. Chẩn đoán nhồi máu não
Tiền sử: thiếu máu não thoáng qua, các yếu tố nguy cơ (tăng huyết áp,
rối loạn lipid máu, đái tháo đường, bệnh lý tim mạch). Thường gặp ở người
trên 50 tuổi [20], [27].
Tính chất xuất hiện: các triệu chứng, dấu hiệu thần kinh khu trú xuất
hiện đột ngột từ vài phút, vài giờ, tối đa có thể vài ngày. Các triệu chứng có
thể tăng dần đến ngày thứ 3-4 sau đó giảm dần.


9


Triệu chứng thần kinh khu trú: biểu hiện thiếu sót chức năng vùng não
bị tổn thương. Liệt nửa người, có thể kèm theo rối loạn cảm giác, thất ngôn,
bán manh, chóng mặt, liệt các dây thần kinh sọ não, hội chứng giao bên…
Rối loạn ý thức: thường không có hoặc nhẹ, rối loạn ý thức nặng nếu
tổn thương diện rộng, có thể kèm rối loạn tâm thần trong những ngày đầu, đặc
biệt ở bệnh nhân trên 65 tuổi.
Cơn động kinh: cục bộ hoặc toàn thể (5% các trường hợp).
Chụp cắt lớp vi tính: hình ảnh vùng giảm tỷ trọng ở nhu mô não thuộc
khu vực động mạch bị tổn thương chi phối [14].
Chụp công hưởng từ: hình ảnh tăng tín hiệu thuần nhất trên T2 và giảm
tín hiệu trên T1 [26].
1.2.6. Phân chia giai đoạn NMN
NMN để lại di chứng thường gặp nhất là liệt nửa người với các mức độ
khác nhau. NMN có thể diễn biến qua các giai đoạn: cấp tính, hồi phục và giai
đoạn di chứng [28].
1.2.6.1. Giai đoạn cấp tính
Bệnh nhân thường có các yếu tố nguy cơ như: tăng huyết áp, đái tháo
đường, các bệnh tim mạch như hẹp van hai lá, xơ vữa động mạch, suy tim…
Các triệu chứng thường là:
Thay đổi về tri giác, nhận thức: hôn mê ở các mức độ khác nhau: lú lẫn,
mất định hướng, giảm tập trung chú ý, rối loạn trí nhớ, ngôn ngữ, tư duy, cảm
xúc và mất thực dụng,…
Khiếm khuyết vận động: liệt nửa người, liệt các dây thần kinh sọ não,…;
các rối loạn giác quan: rối loạn cảm giác nông, sâu, thường được hồi phục
hoàn toàn trong giai đoạn cấp; các hậu quả của bất động.
Các thương tật thứ cấp như loét do tỳ đè, teo cơ, cứng khớp, bội nhiễm
phổi hoặc tiết niệu,…[28].



10

1.2.6.2. Giai đoạn hồi phục
Ở giai đoạn này các triệu chứng ở giai đoạn cấp tính đã ổn định và các
chỉ số sinh tồn trở về bình thường.
Tri giác nhận thức được cải thiện nhờ đó mà các hoạt động ăn uống, bài
tiết, hô hấp được kiểm soát, giảm bớt các nguy cơ thương tật thứ cấp.
Khiếm khuyết vận động đặc trưng bởi liệt mềm chuyển dần sang liệt
cứng với mẫu co cứng điển hình và “cử động khối”. Hội chứng vai tay và hiện
tượng đau khớp vai bên liệt còn được gọi là phản xạ loạn dưỡng giao cảm:
khớp vai sưng, đau, co rút, hạn chế vận động, đau lan xuống các khớp còn lại
của chi.
Các hoạt động chức năng bắt đầu hồi phục: BN thường di chuyển bằng
xe lăn, có thể tự lăn trở, ngồi dậy; hoạt động tự chăm sóc ở tay liệt phục hồi
chậm hơn, chủ yếu nhờ tay lành. Rối loạn ngôn ngữ và lời nói, phổ biến nhất
là thất ngôn ở 1 trong 4 hình thái ngôn ngữ: nghe hiểu, nói, đọc và viết. Theo
thống kê tại khoa PHCN Bệnh viện Bạch Mai, thời gian trung bình từ khi bị
tai biến tới khi BN đi được là 30 ngày [28].
1.2.6.3. Giai đoạn di chứng
Quá trình hồi phục diễn ra chậm dần, sau 6 tháng bị tai biến khả năng hồi
phục rất hạn chế.
Nói đến các di chứng sau tai biến là nói tới giai đoạn này. Tuy nhiên,
những rối loạn nhận thức và ngôn ngữ vẫn tiếp tục được cải thiện hàng năm
sau khi bị bệnh. Những vấn đề chính BN có thể gặp phải trong giai đoạn này
là: co cứng và co rút các khớp bên liệt, rối loạn thăng bằng và điều hợp, hạn
chế về giao tiếp, trầm cảm [28].
1.2.7. Điều trị
Điều trị TBMMN phải đạt được mục đích “Hạn chế tàn phế mà không
tăng tỷ lệ tử vong” theo phương châm phát hiện sớm các YTNC, điều trị dự
phòng là căn bản [28].



11

1.2.7.1. Nguyên tắc điều trị
Điều trị TBMMN nhằm mục đích phòng các biến chứng, khôi phục tổn
thương cấp tính của nhu mô não và phòng đột quỵ tái phát [19]:
Phòng và điều trị biến chứng: chống phù não; kiểm soát huyết áp động
mạch; phòng huyết khối tĩnh mạch sâu và tắc động mạch phổi; phòng viêm
phổi do sặc hoặc trào ngược; kiểm soát đường máu; kiểm soát thân nhiệt; theo
dõi và chăm sóc; phẫu thuật mở hộp sọ hoặc dẫn lưu não thất giảm áp lực nội
sọ (khi cần); điều trị nguyên nhân và yếu tố nguy cơ.
Khôi phục các tổn thương nhu mô não cấp tính: các thuốc tiêu sợi
huyết; thuốc chống đông heparin; thuốc chống ngưng tập tiểu cầu aspirin;
thuốc bảo vệ tế bào thần kinh.
Phòng tái phát TBMMN: là kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ.
1.2.7.2. Một số thuốc điều trị
Thuốc làm tiêu Fibrin và tan huyết khối t-PA, chế phẩm của t-PA là
Alteplase (t-PA tái tổ hợp – recombinant t-PA) [30].
Thuốc chống đông máu (Lovenox).
Thuốc giãn mạch: thường dùng: Nimodipin (Nimotop), Flunarizin
(Sibelium), Naftidrofuryl (Praxilen), Buflomedil (Fonzylan) [22].
Thuốc bảo vệ thần kinh: Citicolin (Cytidin 5’-diphosphocholin),
Cerebrolysin
Thuốc chống kết dính tiểu cầu: Aspirin, Clopidogrel (Plavix)
Yếu tố phát triển: Các yếu tố phát triển có tác dụng dự phòng và điều trị
cơn thiếu máu não cấp. Có thể kể ra là yếu tố phát triển bạch cầu hạt
(granulocyte colony stimulating factor / G-CSF), yếu tố phát triển tế bào sợi
(basic fibroblast growth factor / bFGF) và erythropoietin (EPO) [22]
Phục hồi và tái tạo vùng não tổn thương: Vinpocetin (Cavinton),

Piracetam (Nootropyl)


12

1.2.7.3. Phục hồi chức năng bệnh nhân TBMMN
Bệnh nhân TBMMN thuộc loại đa tàn tật vì ngoài giảm khả năng vận
động bệnh nhân còn có nhiều rối loạn khác kèm theo như rối loạn về ngôn
ngữ, thị giác, cảm giác, nhận thức [31].
Swenson (1984) đề xuất: bệnh nhân NMN không hoàn toàn nên bắt đầu
tập vận động sau 2 - 3 ngày, bệnh nhân XHN có thể tập sau ngày thứ 14, khi
các chỉ số sinh tồn ổn định [32].
Mục tiêu phục hồi chức năng
Độc lập tối đa trong các sinh hoạt bản thân hàng ngày như: ăn uống, tắm
rửa, thay quần áo, đại tiện, di chuyển trong nhà,…
Hoạt động trợ giúp những việc làm từ đơn giản đến phức tạp với khả
năng tối đa như: chăm sóc gia đình, vệ sinh, nấu ăn, giao tiếp,…
Hoạt động xã hội: lao động hữu ích, văn hóa thể thao, học tập, và cao
hơn là trở lại nghề nghiệp cũ [31].
a. Phục hồi chức năng giai đoạn cấp tính: ngoài các mục tiêu chăm sóc, nuôi

dưỡng, theo dõi và kiểm soát chức năng sống, kiểm soát các yếu tố nguy cơ,
PHCN cho bệnh nhân TBMMN ở giai đoạn này nhằm 2 mục tiêu chính là
[30]:
Đề phòng các thương tật thứ cấp: tổn thương do nhiễm trùng phổi, nhiễm
trùng tiết niệu, nhiễm trùng da; loét do đè ép; teo cơ, co rút cơ…
Nhanh chóng đưa người bệnh ra khỏi trạng thái bất động tại giường.
Các hoạt động được tiến hành bao gồm: cho ăn đúng cách tránh nghẹn,
sặc; lăn trở 2giờ/lần; tư thế bệnh nhân nằm hướng bên liệt ra ngoài để tăng
khả năng nhận kích thích, dùng gối kê vai, hông bên liệt, hướng dẫn người

nhà bệnh nhân tư thế đúng tránh loét do đè ép; tập theo tầm vận động của các
khớp, tự tập phối hợp bên lành - bên liệt (tập làm cầu, cài hai tay gấp vai lên
1800,…); cho bệnh nhân ngồi dậy tại giường ngay khi có thể [30].


13

b. Phục hồi chức năng giai đoạn hồi phục: ở giai đoạn này việc phục hồi chức

năng mang tính toàn diện, nhằm tác động lên toàn bộ những khiếm khuyết,
giảm khả năng của người bệnh sớm cho họ độc lập [30].
Mục tiêu
Duy trì tình trạng sức khỏe ổn định, tạo điều kiện cho việc tập luyện, vận
động phục hồi các chức năng.
Tăng cường sức mạnh cơ bên liệt.
Tạo thuận và khuyến khích tối đa các hoạt động chức năng.
Kiểm soát các rối loạn tri giác, nhận thức, giác quan, ngôn ngữ.
Hạn chế và kiểm soát các thương tật thứ cấp.
Giáo dục và hướng dẫn gia đình cùng tham gia PHCN [30].
Các dạng bài tập, hoạt động phục hồi chức năng
Tăng cường sức mạnh cơ bên liệt: tùy theo mức độ hồi phục ở các cơ mà
bệnh nhân sẽ có các bài tập chủ động trợ giúp, chủ động theo tầm vận động
hoặc có kháng trở. Để tái rèn luyện thần kinh cơ, bệnh nhân được tập các hoạt
động chức năng, đặc biệt là di chuyển.
Nếu trương lực cơ tăng quá mạnh: sử dụng một số bài tập và kỹ thuật
khác để kéo giãn, ví dụ kéo giãn khớp cổ chân, kỹ thuật ức chế co cứng đối
với các khớp ở gốc chi và ngọn chi, đứng bàn nghiêng hoặc sử dụng nẹp
chỉnh hình. Đôi khi cần sử dụng thuốc giãn cơ phối hợp.
Rối loạn thăng bằng và điều hợp: được tiến hành ngay từ đầu bằng các
bài tập thăng bằng ngồi, đứng, đi. Có thể sử dụng nạng, gậy, thanh song song,

khung đi, có thể cho bệnh nhân đi trên ghế băng, đi theo hình vẽ trên mặt đất,
tập bàn nhún…[30].
Tiến hành song song với các bài tập là
Hoạt động trị liệu: tăng cường khả năng hoạt động của tay, giúp độc lập
trong sinh hoạt, cải thiện năng lực thể chất và tinh thần, giúp người bệnh sớm
hội nhập với xã hội.


14

Ngôn ngữ trị liệu: được chỉ định trong trường hợp bị thất ngôn, nhằm
mục đích thiết lập một hệ thống tín hiệu ngôn ngữ bổ sung và thay thế những
hình thái ngôn ngữ bị mất hoặc tổn thương.
Dụng cụ chỉnh hình: được sử dụng rộng rãi và rất hiệu quả với nhiều
mục đích khác nhau: trợ giúp các hoạt động chức năng, chỉnh hình và các
dụng cụ vật lý trị liệu. Các dụng cụ chỉnh hình có thể dùng cho bệnh nhân là:
đai nâng vai, nẹp cổ chân, máng đỡ cổ tay. Khi mẫu co cứng quá mạnh, các cơ
đối vận yếu, có nguy cơ biến dạng khớp cần chỉ định nẹp chỉnh hình [30].
Các mục tiêu không phải bao giờ cũng đạt được dù tiến hành phục hồi
chức năng sớm. Kết quả cuối cùng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tuổi, mức
độ nặng, mức độ tổn thương của bệnh, tình trạng ban đầu, yếu tố nguy cơ đi
kèm, trình độ học vấn, sự hợp tác của bệnh nhân và gia đình,…[31].
1.3. Tổng quan về rối loạn chuyển hóa lipid
1.3.1. Đại cương
Lipid là các phân tử kỵ nước khó tan trong nước. Lipid được tìm thấy
trong màng tế bào, duy trì tính nguyên vẹn của tế bào và cho phép các tế bào
chia ngăn để tạo thành các cơ quan riêng biệt.
Lipid là tiền thân của các hormon và acid mật, là chất truyền tín hiệu từ
nội bào và ngoại bào. Các lipoprotein vận chuyển các phức hợp lipid và cung
cấp cho các tế bào khắp cơ thể.

Lipid là thành phần cung cấp năng lượng chính cho cơ thể, tham gia
cung cấp 25% - 30% năng lượng của cơ thể. Mỗi gam lipid cung cấp 9,1 kcal.
Lipid là nguồn năng lượng dự trữ lớn nhất của cơ thể, dạng dự trữ là mỡ trung
gian TG tại mô mỡ.
Nhu cầu lipid của cơ thể khoảng 1g/ngày [33].


15

1.3.2. Chuyển hóa lipid
Mỡ ăn vào chủ yếu là TG. Dưới tác dụng của acid mật và lipase, TG bị
thủy phân thành acid béo và monoglycerid. Tại các tế bào niêm mạc ruột, hầu
hết acid béo và monoglycerid được tái tổng hợp thành TG rồi kết hợp với apo
– B48, phospholipid và Chol thành các hạt dưỡng chấp (chylomicron).
Hạt dưỡng chấp được hấp thu vào mạch bạch huyết rồi qua ống ngực đổ
vào tuần hoàn chung. Riêng acid béo có chuỗi cacbon dưới 12 và glyceron
được hấp thu trực tiếp vào tĩnh mạch cửa.
Hạt dưỡng chấp chứa nhiều TG, khi vào máu thì nhận thêm apo – CII từ
lipoprotein tỷ trọng cao (HDL). Apo – CII là cofactof của lipoprotein lipase
thủy phân TG đưa acid béo đến tế bào ngoại vi để tiêu thụ. Sau đó hạt dưỡng
chấp được bổ xung apo – E rồi được gan thu nhận.
Tế bào gan thu nhận acid béo từ các hạt dưỡng chấp và mô mỡ, tổng hợp
thêm acid béo từ các mẫu acetyl coenzym A, kết hợp acid béo với
glycerolphosphat để tạo TG.
Sau đó tế bào gan kết hợp TG với apo – B100, phospholipid và Chol
đưa vào máu dưới dạng lipoprotein tỷ trọng rất thấp (VLDL).
VLDL cũng chứa nhiều TG, được HDL chuyển apo – CII qua để kích
hoạt lipoproteinlipase nhằm thủy phân TG đưa acid béo đến tế bào ngoại vi để
tiêu thụ.
Sau đó, VLDL do giảm tỷ lệ TG chuyển thành IDL (lipoprotein tỷ trọng

trung gian). IDL có hai chức năng: (1) chuyên trở lại tế bào gan, (2) chuyển
thành LDL (lipoprotein tỷ trọng thấp) nhờ tác dụng của hepatic TG lipase
thủy phân bớt TG trên IDL.
LDL chứa nhiều Chol nhất, được vận chuyển trong máu, đến cung cấp
Chol cho những tế bào có thụ thể của LDL, đặc biệt là tuyến thượng thận và
sinh dục để tổng hợp hormon steroid [33].


16

1.3.3. Chẩn đoán
1.3.3.1. Lâm sàng
Rối loạn lipid máu là bệnh lý xảy ra trong thời gian dài mà khó có thể
nhận biết được. Vì bệnh không có triệu chứng đặc trưng. Phần lớn bệnh được
phát hiện khi nồng độ các thành phần lipid tăng cao kéo dài hoặc có tổn
thương cơ quan đích kèm theo như: xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim,
TBMMN…[34].
1.3.3.2. Cận lâm sàng
Rối loạn lipid máu chủ yếu được chẩn đoán dựa vào các xét nghiệm lipid
máu. Có thể có một hoặc nhiều rối loạn các thành phần lipid máu.
Tiêu chuẩn chẩn đoán theo Hội tim mạch Việt Nam
Tăng Triglycerid huyết tương
+ Bình thường: TG máu ≤ 2,26 mmol/l (< 200mg/dl)
+ Tăng giới hạn: TG từ 2,26 – 4,5 mmol/l (200 – 400 mg/dl)
+ Tăng: TG 4,5 – 11,3 mmol/l (400 – 1000mg/dl)
+ Tăng cao: >11,3 mmol/l (>1000mg/dl)
Tăng Cholesterol huyết tương
+ Bình thường: Chol <5,2 mmol/l (<200mg/dl)
+ Tăng giới hạn: Chol 5,2 – 6,2 mmol/l (200 - 329 mg/dl)
+ Tăng cao: Chol > 6,2 mmol/l (>240mg/l)

Tăng LDL – C huyết tương
+ Bình thường: LDL – C < 3,4 mmol/l (< 130mg/dl)
+ Tăng giới hạn: LDL – C 3,4 – 4,1 mmol/l (130 – 159 mg/dl)
+ Tăng cao: LDL – C > 4,1 mmol/l (> 160mg/dl)
Giảm HDL – C huyết tương
+ Bình thường: HDL – C ≥ 0,9 mmol/l
+ HDL – C giảm khi < 0,9 mmol/l
Rối loạn lipid kiểu hỗn hợp: khi Cholesterol > 6,2 mmol/l và
Triglycerid 2,26 – 4,5 mmol/l [34].


17

1.3.4. Điều trị
Một số thuốc điều trị rối loạn lipid máu bao gồm:
Các loại resins gắn với acid mật: Choleschiramine (Questran 8 –
16g/ngày), Colestipol (Colestid 10 – 30g/ngày).
Nicotinic acid 100mg/lần x 3 lần/ngày.
Thuốc ức chế men HMG – coA Reductase (nhóm Statin): Atovastatin
(10 – 80mg/ngày), Simvastatin (5 – 40mg/ngày)….
Các dẫn xuất của Fibrat: Fenofibrat (100 - 300mg/ngày), Bezafibrat…
Omega – 3
Điều trị thay thế bằng hormon sinh dục nữ như Estrogen [34].
1.4. Tai biến mạch máu não theo Y học cổ truyền
Trong YHCT không có bệnh danh TBMMN nói chung hay XHN, NMN
nói riêng. Với triệu chứng lâm sàng và tính chất xuất hiện đột ngột trong giai
đoạn cấp theo YHHĐ, YHCT xếp TBMMN vào chứng trúng phong. Sau giai
đoạn cấp với triệu chứng liệt nửa người nổi bật, bệnh được YHCT xếp vào
chứng bán thân bất toại [35].
1.4.1. Một số quan niệm về trúng phong và nguyên nhân trúng phong

Trúng phong còn gọi là thốt trúng, vì bệnh phát sinh cấp, đột ngột và rất
nặng, triệu chứng thường nhiều biến hóa, phù hợp với tính thiện hành đa biến của
phong. Bệnh nhân đột nhiên ngã ra bất tỉnh hoặc vẫn còn tỉnh, bán thân bất toại
hoặc tứ chi không cử động được, miệng méo, mắt lệch, nói khó [35].
Qua các thời đại có nhiều học thuyết khác nhau:


Từ thời Hán – Đường về trước:
Trong Linh Khu nói: “Hư tà xâm nhập nửa người, khu trú ở dinh vệ, dinh vệ
hơi suy thì chân khí tán mất, tà khí đóng lại phát thành chứng thiên khô”.


18

Sách Kim Quỹ cho rằng: “Mạch lạc hư không, phong tà thừa cơ xâm
nhập gây chứng trúng phong, tùy theo bệnh nặng nhẹ mà biểu hiện chứng hậu
ở kinh lạc hay tạng phủ” [36].


Từ thời Hán – Đường về sau:
“Hà gian lục thư” chủ trương “Tâm hoả cực mạnh”, nhiệt khí uất kết gây
ra bệnh.
Trong “Đan khê tâm pháp – Trúng phong luận” cho rằng “Đàm thấp sinh
nhiệt” mà gây nên bệnh.
“Đông đản tập thư” cho rằng “Chính khí hư tụ”: hư tổn chân khí nên dễ
bị trúng phong.
Diệp Thiên Sỹ thiên về phong dương: do huyết kém, thủy không hàm
mộc, can dương cang thịnh, phong dương vọng động, âm dương cùng tổn
thương là nguyên nhân gây trúng phong.
Danh y Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV) đã nói: “Trúng phong là đầu mối các

bệnh, biến hoá lạ thường và phát bệnh khác biệt. Triệu chứng là thình lình ngã
ra, hôn mê bất tỉnh, miệng méo mắt lệch, sùi bọt mép, bán thân bất toại, nói
năng ú ớ, chân tay cứng đờ không co duỗi được. Các chứng trạng như thế đều
là trúng phong cả” [37].
Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (thế kỷ XVIII) mô tả
chứng trúng phong như sau: “Trúng phong là bỗng nhiên ngã vật ra, người
mắc bệnh này bảy đến tám phần do âm hư, còn do dương hư chỉ một hai
phần, bệnh phần nhiều do hư yếu bên trong mà sinh ra phong, thỉnh thoảng
mới có ngoại phong…” [38].
Ngày nay, đúc kết kinh nghiệm của các danh y đi trước và kinh
nghiệm thực tiễn, các thầy thuốc YHCT cho rằng nguyên nhân của trúng
phong là do:


19

+ Nội thương hao tổn: tố chất cơ thể âm huyết suy, dương thịnh hoả
vượng, phong hoả dễ tích hoặc do cơ thể già yếu can thận âm hư, can
dương thiên thịnh, khí huyết thượng nghịch lên che mờ nguyên thần, đột
nhiên mà phát bệnh [36].
+ Ẩm thực bất điều: do ăn uống không điều độ, ảnh hưởng đến công
năng tỳ vị, thấp nội sinh tích tụ sinh đàm, đàm thấp sinh nhiệt, nhiệt cực sinh
phong, phong kết hợp với đàm phạm vào mạch lạc, đi lên trên làm tắc thanh
khiếu gây bệnh [36].
+ Tình chí thương tổn: uất nộ thương can, can khí bất hoà, khí uất hoá
hoả, can dương bạo cang, thận thủy hư không chế ước được tâm hoả, khí
huyết thượng xung lên não mà gây bệnh [36].
+ Khí huyết hư tà trúng vào kinh lạc: do khí huyết không đủ, mạch lạc
hư rỗng nên phong tà nhân chỗ hư trúng vào kinh lạc làm khí huyết tắc trở.
Hoặc người béo khí suy, đàm thấp thịnh, ngoại phong dẫn động đàm thấp

bế tắc kinh lạc gây nên bệnh [ 36].
Như vậy nguyên nhân của trúng phong theo YHCT là do ngoại phong và
nội phong nhưng chủ yếu do nội phong.
+ Ngoại phong: do ảnh hưởng của khí hậu, phong tà nhân chính khí cơ
thể suy giảm, tấu lý sơ hở, mạch lạc trống rỗng mà xâm nhập vào.
+ Nội phong: phong do bên trong cơ thể sinh ra, do âm dương mất cân
bằng, chính khí cơ thể suy kém làm hao tổn chân âm, ảnh hưởng đến can
thận. Can là tạng thuộc phong, nếu can âm suy kém sẽ dẫn đến can hoả
vượng, nhiệt hoá hoả, hoả thịnh thì phong động, che lấp các khiếu, rối loạn
thần minh gây nên chứng trúng phong. Nếu nhẹ là trúng phong kinh lạc, nặng
là trúng phong tạng phủ, chữa không kịp thời sẽ tử vong hoặc để lại di chứng
bán thân bất toại [36].
1.4.2. Phân loại chứng trúng phong
1.4.2.1. Phân loại


20

Chứng trúng phong chia làm hai thể lớn:
- Trúng phong kinh lạc (TPKL) nói chung không có sự thay đổi về thần
chí, bệnh nhẹ. Triệu chứng chính là chân tay tê dại, yếu nửa người, nói khó,
rêu lưỡi trắng, mạch phù sác.
- Trúng phong tạng phủ (TPTP) bệnh xuất hiện đột ngột, liệt nửa
người có hôn mê, có hai chứng:
+ Chứng bế: bất tỉnh, răng cắn chặt, miệng mím chặt, hai bàn tay nắm
chặt, da mặt đỏ, chân tay ấm, không có rối loạn cơ tròn, mạch huyền hữu lực.
+ Chứng thoát: bất tỉnh, mắt nhắm, miệng há, tay duỗi, chân tay lạnh,
có rối loạn cơ tròn, mạch trầm huyền vô lực [39].
Trúng phong được chia làm ba giai đoạn: giai đoạn cấp tính, giai đoạn
hồi phục, giai đoạn di chứng [40],[41].

1.4.2.2. Điều trị
a) Giai đoạn cấp
Có 3 trạng thái: Không có rối loạn ý thức, bệnh nhân tỉnh táo; Hôn mê
nông; Hôn mê sâu [42], [40].
Phép chữa: Trừ phong dưỡng huyết thông lạc. Bài thuốc thường dùng
Đại tần giao thang [36].
Điều trị trường hợp hôn mê nông
Pháp điều trị: Cấp cứu, khai bế tỉnh thần.
Phương dược: Dùng An cung ngưu hoàng hoàn [43],[44], [45].
Châm cứu: Châm chích nặn máu các huyệt Bách hội, Thập tuyên để
thanh nhiệt, hạ áp. Châm kích thích mạnh các huyệt Nhân trung, Thập nhị
tỉnh để khai khiếu tỉnh thần [40].
Điều trị ở giai đoạn hôn mê sâu: YHCT gọi là chứng thoát [36], [40].
Pháp điều trị: Hồi dương cố thoát.
Phương dược: Sâm phụ thang gia vị.


21

Châm cứu: Cứu cách muối huyệt Thần khuyết, hoặc cứu huyệt Quan
nguyên, Khí hải đến khi chân tay ấm, sờ thấy mạch đập [36].
b) Phục hồi sau giai đoạn cấp
Trong giai đoạn cấp bệnh nhân hoặc tử vong, hoặc hồi phục để lại di
chứng như: liệt nửa người, miệng méo, nói khó. Ở giai đoạn sau cấp YHCT
kết hợp dùng thuốc và châm cứu, xoa bóp bấm huyệt phục hồi di chứng rất
hiệu quả.
Các phương pháp không dùng thuốc có tác dụng điều chỉnh lại sự mất
cân bằng âm dương, làm cho kinh mạch được lưu thông, khí huyết điều hòa.
Cơ thể khỏe mạnh sẽ chống lại tác nhân gây bệnh, góp phần phục hồi liệt.
Đây là giai đoạn can thiệp điều trị tốt nhất để phục hồi các di chứng.

Điều trị bán thân bất toại do di chứng trúng phong, sau giai đoạn cấp
bằng thuốc YHCT

Liệt nửa người
+ Khí hư huyết ứ, kinh lạc trở trệ
Triệu chứng: khí hư không vận hành được huyết, huyết không vinh
dưỡng được cân cơ, khí huyết ứ trệ, mạch lạc tắc trở làm cho các chi thể
không vận động được [42].
Pháp điều trị: ích khí hoạt huyết, thông kinh hoạt lạc [40].
Phương dược: chủ yếu dùng Bổ dương hoàn ngũ thang [40], [46].
+ Chính khí hư, phong tà trúng vào kinh lạc
Triệu chứng: bán thân bất toại, miệng méo mắt xếch, lưỡi cứng nói khó
hoặc không nói được, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù hoãn [39].
Pháp điều trị: bổ chính trừ phong, điều hòa khí huyết [36], [42].
Phương dược: chủ yếu dùng Tiểu tục mệnh thang. Hoặc dùng bài Đại tần
giao thang để trừ phong thanh nhiệt, điều lý khí huyết thì kinh lạc thông suốt,
chân tay cử động được, lưỡi mềm nên nói được [36].
+ Âm hư dương xung, mạch lạc ứ trở


22

Triệu chứng: bán thân bất toại, chân tay co cứng, tê tay chân, hoa mắt
chóng mặt, mặt đỏ, phiền táo không yên, nói khó, chất lưỡi đỏ, rêu vàng,
mạch huyền hữu lực [36], [47].
Pháp điều trị: bình can tiềm dương, tức phong thông lạc [8].
Phương dược: chủ yếu dùng Thiên ma câu đằng ẩm [48].
Điều trị bán thân bất toại do di chứng trúng phong, sau giai đoạn cấp
bằng phương pháp không dùng thuốc


Điều trị bằng châm cứu
Châm cứu là một trong những phương pháp chữa bệnh độc đáo của nền
YHCT phương Đông, là tên gọi chung của hai phương pháp châm và cứu.
Châm cứu có đặc điểm chưng là kích thích vào huyệt tạo nên những phản ứng
thích hợp với từng trạng thái bệnh lý, điều hòa các hoạt động chức năng bị rối
loạn và giảm đau [82].
Bệnh nhân NMN đã qua giai đoạn cấp thường còn lại một số triệu chứng
như: bán thân bất toại, nói khó, miệng méo mắt xếch, đái ỉa không tự chủ….
Dựa theo triệu chứng kết hợp tứ chẩn có pháp điều trị, xây dựng phác đồ
huyệt phù hợp cho từng thể.
Các phương pháp châm cứu hiện nay thường dùng: Thể châm là sử dụng
các phương pháp châm khác nhau trên thân mình để điều trị bệnh.
Hiện nay trên lâm sàng thường dùng các phương pháp tân châm để phục
hồi vận động như điện châm, điện trường châm, mãng châm, thủy châm, cấy
chỉ…[52].
Chọn huyệt ở kinh dương nửa người bên liệt là chính gồm: Kiên ngung,
Khúc trì, Thủ tam lý, Ngoại quan, Dương trì, Hợp cốc, Hoàn khiêu, Phong thị,
Túc tam lý, Dương lăng tuyền, Giải khê. Liệt mặt châm nửa mặt bên liệt gồm:
Hạ quan, Địa thương, Giáp xa. Thủ pháp bổ hoặc tả.
Huyệt phối hợp châm cả hai bên. Nếu âm huyết hư tổn: Huyết hải, Tam âm
giao, Thái khê. Đàm che lấp tâm khiếu: Bách hội, Nhân trung. Đàm trọc trở trệ:


23

Túc tam lý. Nói khó: Á môn, Thượng liêm tuyền, Thiên đột. Thận hư, khí huyết
bất túc: Can du, Thận du, Quan nguyên [36], [50].
Mãng châm: là phương pháp dùng kim dài và to với kỹ thuật châm
Thông kinh - Liên kinh - Thấu kinh để điều hòa khí huyết nhanh và mạnh hơn
[50], [51]. Trong điều trị thường tác động vào các huyệt ở các kinh Thủ Túc

Dương minh, kinh Đởm, Tỳ và Bàng quang… để khu phong, trừ thấp, bình
Can, kiện Tỳ, thông kinh hoạt lạc, khai khiếu, điều hòa khí huyết [50], [51].
Ngoài ra có thể áp dụng một số phương pháp khác như đầu châm, nhĩ
châm, cứu…[42], [40], [36].


Điều trị bằng xoa bóp bấm huyệt (XBBH)
Xoa bóp là phương pháp chữa bệnh ra đời sớm nhất với đặc điểm là: chỉ
dùng thao tác của bàn tay, ngón tay tác động lên da cơ của bệnh nhân để đạt
được mục đích phòng và chữa bệnh. Ưu điểm là giản tiện, có hiệu quả, có
phạm vi chữa bệnh tương đối rộng, có giá trị phòng bệnh lớn [52].
Tác dụng của xoa bóp: xoa bóp là một loại kích thích vật lý trực tiếp tác
động vào da thịt và các cơ quan cảm thụ của da và cơ, gây nên những thay đổi
về thần kinh, thể dịch, nội tiết từ đó ảnh hưởng đến toàn thân [52].
XBBH trong điều trị di chứng trúng phong: nhằm mục đích tăng cường
dinh dưỡng, chống teo cơ, cứng khớp, giúp nhanh chóng PHCN vận động nửa
người bên liệt [49]. Gồm xoa bóp vùng mặt, vai, lưng, chi trên và chi dưới
bên liệt [47].
Một số phương pháp khác của YHCT cũng được sử dụng trong điều trị
chứng trúng phong sau giai đoạn cấp như luyện tập, khí công, thiền… Thường
áp dụng cho những bệnh nhân liệt đã hồi phục hoặc hồi phục một phần, đã tự
đi lại được [47]. Luyện tập từ nhẹ rồi tăng dần theo tình trạng từng bệnh nhân
và cần kiên trì luyện tập thường xuyên, đều đặn [42].
1.4.3. Tổng quan chứng bán thân bất toại


24

Bán thân bất toại (nửa người vận động không theo ý muốn) là hậu quả
của chứng trúng phong, biểu hiện của thượng hạ chi một bên phải hoặc trái tê

dại, không cử động, có thể còn cảm giác biết đau, biết nóng, lạnh, tay không
cầm nắm được, chân không đi lại được.YHCT kết hợp dùng thuốc và châm
cứu, xoa bóp bấm huyệt phục hồi di chứng rất hiệu quả [53].
• Các thể lâm sàng
a) Thể can thận âm hư
Thường gặp ở những bệnh nhân tăng huyết áp, xơ vữa mạch, người cao tuổi.
Triệu chứng: Liệt nửa người, nửa mặt dưới cùng bên, tay chân bên liệt tê
dại, hay hoa mắt chóng mặt, mạch huyền tế sác.
Pháp điều trị: Tư âm tiềm dương, trấn hỏa tức phong.
Bài thuốc: Đại định phong châu (Ôn bệnh điều biện) hoặc Chân châu
mẫu hoàn (Trương thị Y Thông Q.14) hoặc Lục vị địa hoàng hoàn gia giảm
(Tiểu nhi dược chứng chân quyết).
Châm cứu: Châm tả các huyệt: Kiên ngung, khúc trì, Thủ tam lý, Ngoại
quan, Dương trì, Hợp cốc, Bát tà, Hoàn khiêu, Dương lăng tuyền, Huyền
chung, Côn lôn, Giải khê bên liệt, Giáp tích C7 – D1, L4 – L5, Châm bổ: Thái
khê, Tam âm giao, Thái xung, Nội quan hai bên. Miệng méo châm: Địa
thương, Giáp xa, Thừa tương bên liệt. Nói ngọng châm: Liêm tuyền, Thượng
liêm tuyền, Giản sử, Thông lý.
Thủy châm: Vitamin B1, B6, B12, Cerebrolysin vào một số huyệt.
Xoa bóp bấm huyệt: Bóp day ấn huyệt, vận động bên liệt.
Hướng dẫn, động viên bệnh nhân tự tập luyện, vận động.
Cấy chỉ vào một số huyệt [53].
b) Thể phong đàm
Thường gặp ở bệnh nhân tăng huyết áp, béo phì, Chol cao.


25

Triệu chứng: Liệt nửa người kèm theo liệt nửa mặt dưới cùng bên, tay
chân tê dại, nặng nề, lưỡi cử động khó, có nói ngọng hoặc không, rêu lưỡi

trắng dày nhớt, mạch phù hoạt hoặc huyền hoạt.
Pháp điều trị: Trừ đàm thông lạc, thanh can giáng hỏa.
Bài thuốc: Đạo đàm thang (Tế sinh phương) hoặc Thiên ma câu đằng ẩm
(Tạp bệnh chứng trị tân nghĩa).
Châm cứu: Châm các huyệt nửa người bên liệt, méo miệng, nói ngọng
giống như thể Can thận âm hư. Thêm châm bổ Túc tam lý, châm tả Phong
long 2 bên.
Thủy châm, XBBH, cấy chỉ, thuốc và các động tác tập luyện như thể
Can thận âm hư [53].
c) Thể khí hư huyết ứ
Triệu chứng: liệt nửa người, liệt mặt cùng bên, có nói ngọng hoặc
không, triệu chứng liệt khởi đầu từ từ, giai đoạn toàn phát có hôn mê hoặc
không, mạch sáp.
Pháp điều trị: Ích khí hoạt huyết, khu phong hóa đàm.
Bài thuốc: Bổ dương hoàn ngũ thang (Y lâm cải thác).
Châm cứu: Châm các huyệt nửa người bên liệt, méo miệng, nói ngọng
giống như thể Can thận âm hư. Thêm châm tả Huyết hải, Cách du 2 bên để
hoạt huyết tiêu ứ.
Thủy châm, XBBH, cấy chỉ, thuốc và các động tác tập luyện như thể
Can thận âm hư [53].
1.4.4. Tổng quan bài thuốc nghiên cứu
Bổ dương hoàn ngũ thang trích trong “Y lâm cải thác” của tác giả
Vương Thanh Nhậm [54]. Bao gồm các vị thuốc: Sinh hoàng kỳ 120g, Quy vĩ
12g, Xích thược 12g, Hồng hoa 8g, Địa long 6g, Đào nhân 8g, Xuyên khung
8g (Phụ lục 3).
Công dụng: Bổ khí, hoạt huyết, khứ ứ thông lạc.


×