Trờng THPT ứng hòa b GV Nguyễn Hòa
1
Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội
Trường THPT ứng hòa B
Sáng kiến kinh
nghiệm
ti:
Đổi mới phương pháp dạy học trong việc
tiếp nhận văn bản văn học
Người viết : Nguyễn Mạnh Hòa
Tổ : Ngữ Văn
Trường THPT ứng hòa B
H Ni- thỏng 5 nm 2009
A. Mở đầu
I.Lý do chọn đề tài.
Đổi mới PPDH là một vấn đề đã đợc đặt ra từ rất lâu và đợc sự quan tâm đặc biệt
của nhiều nhà giáo dục, nhất là của các thầy giáo, cô giáo. Nhng việc vận dụng đổi mới
PPDH trong dạy học không phải là việc dễ dàng thực hiện và đạt đợc hiệu quả ngay từ
đầu. Trớc đây, chúng ta dạy học vẫn theo phơng pháp truyền thống với quan niệm : học
là quá trình tiếp thụ và lĩnh hội qua đó hình thành kiến thứ, kỹ năng, t tởng tình cảm.
Giáo viên luôn là ngời truyền thụ toàn bộ những kiến thức, những hiểu biết của mình về
một vấn đề nào đó; còn học sinh là ngời ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của giáo viên.
Chính vì vậy mà phơng pháp đó dẫn đến chỗ học sinh là ngời thụ động và qúa trình nhận
thức mang tính chất áp đặt, một chiều. Học sinh học để đối phó với thi cử và sau khi thi
xong những điều đã học thờng bị bỏ quên hoặc ít dùng đến. Hiện nay, PP DH truyền
thống không còn thích hợp với mục tiêu giáo dục - đào tạo, hơn thế việc đổi mới chơng
trình SGK càng cần phải đặt trọng tâm vào việc đổi mới PPDH. Bởi chỉ có đổi mới cơ
bản PP DH chúng ta mới có thể tạo đợc sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể
đào tạo đợc lớp ngời năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh
nhiều nớc trên thế giới đang hớng tới nền kinh tế tri thức.
Định hớng đổi mới phơng pháp dạy và học đã đợc xác định trong Nghị quyết Trung -
ơng 4 khóa VII(1993), Nghị quyết Trung ơng 2 khóa VIII(1996),đợc thể chế hóa trong
luật giáo dục (2005). Điều 28.2 trong Luật giáo dục đã ghi : Phng pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh;phù hợp vói
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dỡng phơng pháp tự học, rền luyện kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đêm lại niềm vui hứng thú
học tập cho học sinh . Có thể nói cốt lõi của việc đối mói dạy học là hớng tới hoạt
động học tập chủ động; chống lại thói quen học tập thụ động.
Tuy nhiên, đối với mỗi môn học trong nhà trờng tùy theo đặc trng bộ môn mà vận
dụng việc đổi mới phơng pháp sao cho thích hợp, linh hoạt để đạt mục tiêu cần đạt . Đối
với môn Ngữ văn, việc vận dụng PP dạy học mới vẫn còn hạn chế . GV chỉ say mê khám
phá văn bản và khổ công tìm tòi cách thức lên lớp sao cho hấp dẫn mà không chú ý học
sinh học bái đó nh thế nào ?. Mục đích của giờ dạy học văn theo quan điểm, phơng
pháp mới không phải ngời giáo viên là ngời truyền thụ lời giảng của mình một cách chủ
quan mà mục đích cao nhất là làm sao để chủ thể học sinh dới sự hớng dẫn của giáo viên
chủ động khám phá, tiếp nhận tác phẩm và đồng thời bộc lộ đợc tình cảm bản thân.
Trong quá trình giảng dạy văn học, có nhiều phơng pháp dạy học tích cực đợc áp
dụng và mỗi phơng pháp đều đợc thử thách qua thời gian. Chẳng hạn PP thuyết trình;
PP dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề ; PP dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ; dạy
học theo dự án ... Kết quả của mỗi phơng pháp đều có những u điểm, nhợc điểm riêng.
Một trong những phơng pháp dạy học tích cực đa lại kết quả cao trong học tập, phát huy
đợc tính chủ thể của học sinh là phơng pháp vấn đáp.
Trong phạm vi bài tập nghiên cứu khoa học này, tôi đi sâu tìm hiểu phơng pháp
dạy học vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn ở khối trung học phổ thông. Tôi đã quyết
định chọn đề tài này để trớc hết là bản thân có điều kiện khái quát nâng cao chuyên môn
sau thời gian nghiên cứu áp dụng và qua đây mong đợc chia xẻ với đồng nghiệp cùng
Trờng THPT ứng hòa b GV Nguyễn Hòa
2
quan tâm để góp phần nâng cao chất lợng chuyên môn và đổi mới PPDH môn ngữ văn
trong phạm vi nhà trờng THPT
II Mục đích nghiên cứu.
- Dựa trên một số lí luận cơ bản về triết học, về tâm lí học, về việc đổi mới PPDH
văn ... để đề ra một số biện pháp trong PP dạy học vấn đáp .
- Nhằm mục đích nâng cao chất lợng của giờ học, phát huy tính tích cực, tự giác
chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi dỡng phơng pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn cho HS bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề,
gây hứng thú học tập cho học sinh
IV. Thời gian, đối tợng và phạm vi nghiên cứu.
- Thời gian nghiên cứu : Từ tháng 09 năm 2008 đến tháng 05 năm 2009
- Đối tợng nghiên cứu: Phơng pháp vấn đáp trong việc dạy học môn Ngữ Văn.
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh khối : 11,12
V. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tôi đề xuất một số nhiệm vụ của đề tài:
+ Xác định cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của dạy học vấn đáp (đàm thoại) .
+ Đề xuất một số biện pháp dạy học vấn đáp trong môn Ngữ Văn.
+ Thực hiện một số công việc trong phơng pháp vấn đáp.
+ Thiết kế một bài dạy vận dụng PP vấn đáp
VI. Phơng pháp nghiên cứu.
Làm đề tài này, tôi đã vận dụng nhiều phơng pháp. Dới đây là những phơng pháp chủ
yếu:
1. Phơng pháp thống kê, nêu ví dụ.
2.Phơng pháp thực nghiệm qua giảng dạy, dự giờ,bài kiểm tra, bài thi học kỳ,
số điểm.
3.Phơng pháp so sánh.
4.Phơng pháp phân loại, phân tích.
5. Phơng pháp tổng hợp.
B. Nội dung
Trờng THPT ứng hòa b GV Nguyễn Hòa
3
Chơng I
Những cơ sở khoa học của phơng pháp vấn đáp trong giờ
học Ngữ văn.
1. Cơ sở tâm lí học.
Nhận thức thế giới xung quanh, tìm hiểu những sự vật, hiện tợng xảy ra xung
quanh mình là một nhu cầu không thể thiếu của con ngời. Đây là một trong ba mặt cơ
bản của đời sống, của tâm lí con ngời (Nhận thức - Tình cảm - Hành động). Nhờ có
nhận thức mà chúng ta không chỉ phản ánh hiện thực xung quanh mình mà cả hiện thực
của bản thân nữa, không chỉ phản ánh cái bên ngoài, cái hiện tại mà cả cái bên trong, cái
sẽ tới và các quy luật phát triển của hiện thực.
Mục tiêu của nhà trờng phổ thông nói chung và mục tiêu của trờng THPT nói
riêng là hình thành nhân cách của học sinh, phát triển toàn diện và trởng thành về mặt xã
hội của học sinh. Trong nhà trờng phổ thông, học sinh đợc giáo dục bằng nhiều phơng
pháp, nhiều ngành học... trong đó bộ môn Ngữ văn đợc coi là một môn học chủ công
trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lí cá nhân quy định giá trị
xã hội và hành vi của họ. Học sinh là một nhân cách trong chừng mực nào đó mà các
phẩm chất xã hội ở đó đợc phát triển để nó trở thành chủ thể có ý thức đối với mọi hoạt
động công ích của mình. Nh vậy có nghĩa là một trong những con đờng để hình thành và
phát triển nhân cách là con đờng hoạt động của chính học sinh. Con đờng tác động có
mục đích tự giác của xã hội bằng giáo dục đến học sinh sẽ trở nên vô hiệu hoá nếu nh
học sinh không tiếp nhận, không hởng ứng những tác động đó, không trực tiếp tham gia
vào các hoạt động nhằm phát triển tâm lí, hình thành nhân cách. Chính vì vậy qua giờ
học vấn vận dụng PP vấn đáp, học sinh có dịp bù đắp những tri thức mà mình cha đợc
biết, cha hiểu hoặc hiểu cha rõ, để tự mình tiếp nhận và hoàn thiện mình về t tởng, đạo
đức và hành vi trong học tập và trong cuộc sống.
2. Cơ sở nhận thức.
Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc ngời nhng sự phản ánh
này không phải giản đơn, thụ động mà là quá trình biện chứng dựa trên hoạt động tích
cực của chủ thể trong quan hệ đối với khách thể. Nhng không phải con ngời nào cũng
đều là chủ thể của nhận thức. Con ngời trở thành chủ thể khi nó tham gia vào hoạt động
xã hội nhằm biến đổi và nhận thức khách thể. Trong nhà trờng học sinh chính là chủ thể
của hoạt động nhận thức; còn khách thể chính là những tri thức kinh nghiệm của nền văn
minh nhân loại. Theo cơ sở triết học: con ngời tự làm ra mình bằng chính hoạt động của
mình nhng cái quan trọng là làm ra cái đó nh thế nào và bằng cách nào?
Đối với môn Ngữ Văn học sinh đến trờng để học tập thực chất là để tiếp nhận,
chiếm lĩnh những giá trị của tác phẩm văn chơng. Vì mục đích ấy, học sinh tự đọc lấy tác
phẩm, tự chiếm lĩnh lấy tác phẩm, nắm bắt đợc cái hồn của tác phẩm chứ không phải học
lấy những điều giáo viên giảng giải, giáo viên cắt nghĩa nh xa nay ngời ta vẫn thờng làm.
Giáo viên chỉ là ngời hớng dẫn, chỉ bảo cho học sinh những hớng tiếp cận tác phẩm sao
cho có hiệu quả nhất, học sinh từ đó mà tự chiếm lĩnh tác phẩm. Đồng thời cùng với sự
Trờng THPT ứng hòa b GV Nguyễn Hòa
4
chiếm lĩnh tác phẩm ấy, học sinh dới những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt của giáo viên mà
trình bày những suy nghĩ, cách hiểu của mình về vấn đề đặt ra trong tác phẩm.
Chính vì những vấn đề đó mà rất cần có một giờ học vấn đáp để qua giờ học ấy
học sinh có thể khẳng định họ thật sự là những chủ thể sáng tạo trong quá trình nhận thức
bằng chính hoạt động của mình.
3. Cơ sở văn học.
Nếu hình tợng hội hoạ đợc xây dựng bằng đờng nét, màu sắc; âm nhạc đợc xây
dựng bằng nhịp điệu, giai điệu, âm thanh...thì hình tợng văn học đợc xây dựng bằng chất
liệu ngôn từ. Do lấy ngôn từ làm chất liệu cho nên hình tợng văn học chỉ tác động vào trí
tuệ, tâm hồn, tình cảm gợi nên sự liên tởng và tởng tợng trong tâm trí ngời đọc. Nhờ liên
tởng và tởng tợng trên những nét tơng đồng giữa thế giới âm thanh và hình ảnh, giữa thế
giới hữu hình và thế giới vô hình trở thành hiện hình qua phơng tiện ngôn ngữ.
Thực chất của vấn đề phát huy chủ thể học sinh trong giờ Ngữ văn là khêu gợi,
kích thích và nuôi dỡng, phát triển ở học sinh nhu cầu đồng cảm và khát vọng nhận thức
cái mới qua hình tợng, tính cách nhân vật. Và cũng qua đó việc học tác phẩm văn học
thực sự trở thành một hoạt động cá thể hoá sâu sắc đi từ nhận thức khách quan hình tợng
đến chỗ tự nhận thức; do đó có khát vọng sống và hành động theo nhân vật lí tởng.
Chính vì vậy trong giờ học văn rất cần có sự trao đổi giữa giáo viên và học sinh,
giữa học sinh và giào viên để qua giờ học ấy thu đợc kết quả cao hơn và cũng qua giờ học
ấy học sinh có dịp bộc lộ mình, tự khẳng định mình, đồng thời giáo viên cũng có cơ hội
để nắm đợc trình độ tiếp nhận của học sinh.
Chơng II
Thực trạng của đề tài
Qua quá trình dạy học, kinh nghiệm của bản thân, quá trình dự giờ của đồng nghiệp ,
tôi nhân thấy :
- Một số giáo viên chủ yếu vẫn dạy theo phơng pháp dạy học truyền thống : giáo viên sử
dụng các PP diễn giảng truyền thụ toàn bộ những kiến thức một chiều ; còn học sinh là
ngời ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của giáo viên. Giờ học trở nên khô khan, trầm, thậm
chí căng thẳng, học sinh tham gia học bài một cách chiếu lệ. Rõ ràng điều đó dẫn đến
chất lợng, hiệu quả giờ học không cao
- Còn một số giáo viên có vận dụng một số PPDH tích cực trong giờ học song cha hiệu
quả còn hình thức . Chẳng hạn vận dụng PP vấn đáp : giáo viên đặt ra những câu hỏi yêu
cầu học sinh trả lời song cha tạo ra đợc không khí tranh luận sôi nổi giữa học sinh với
nhau hay giữa học sinh với giáo viên.
Một trong những nguyên nhân đẫn tới tình trạng trên là một số giáo viên nhận thcs
cha rõ bản chất của việc dạy học văn. Dạy học văn trong nhà trờng không đơn thuần là
giảng văn, phân tích văn học mà là dạy đọc văn bản, đó là quá trình đối thoại giữa học
sinh, thấy giáo và tác giả đằng sau văn bản . Đó là hình thức giao tiếp , đói thoại vợt thời
gian , không gian. Không phải là truyền thụ một chiều.Bên cạnh đó một số giáo viên vẫn
còn nhiều ngộ nhận về lí thuyết và lùng túng trong biện pháp thực thi việc cải cách, đổi
mới phơng pháp dạy học vấn đáp . Chẳng hạn các phơng pháp đổi mới là gì ? Khi đổi
Trờng THPT ứng hòa b GV Nguyễn Hòa
5
mới phơng pháp dạy học thì vai trò của ngới thầy có bị hạ thấp không ? Câu hỏi nh thế
nào là đổi mới?Bao nhiêu câu hỏi là vừa ?.....
Ngoài ra, giáo viên chuẩn bị bài dạy cha thật kĩ, đặc biệt là cha xây dựng đợc hế
thống câu hỏi phù hợp với bài dạy, cha chú ý tới việc chuẩn bị bài học của học sinh, cha
phân loại đối tợng học sinh trong từng lớp ... Giáo viên cha ý thức rõ về dạng câu hỏi,
mức độ yêu cầu của câu hỏi dẫn đến khâu tổ chức dạy học tìm hiểu bài học thiếu tính
khao học, tình trạng giáo viên hỏi một đằng học sinh trả lời một nẻo hoặc trả lời không
đùng trọng tâm yêu cầu.
Chính vì vậy, vần đề vận dụng đổi mới phơng pháp dạy và học văn càng đợc quan
tâm hơn bao giờ hết đặc biệt là phơng pháp vấn đáp . Tuy nhiên, việc đổi mời PP DH văn
không có nghĩa là gạt bỏ các PP truyền thống mà phải vận dụng một cách hiệu quả các
PPDH hiện có theo quan điểm dạy học tích cực kết hợp các PP hiện đại
Chơng III:
Nội dung dạy học vấn đáp (đàm thoại).
I Quan niệm về dạy học vấn đáp (đàm thoại).
1.1 Thế nào là phơng pháp vấn đáp?.
Phơng pháp vấn đáp là phơng pháptrong đó giáo viên đặt ra các câu hỏi để HS trả
lời , hoặc tranh luận với nhau và với cả giáo viên, qua đó HS lĩnh hội đợc nội dung bài
học. Phơng pháp vấn đáp, đàm thoại khác vói thuyết trình ở chỗ nội dung cần truyền thụ
không đợc thể hiện qua lời giảng của ngời dạy mà đợc thực hiện bời hệ thống câu trả lời
của ngời học, dới sự gợi mở bởi các câu hỏi của ngời dạy đè xuất . Các câu hỏi này đợc
tổ chức thành một hệ thống phù hợp với nội dung bài học, đối tợng học sinh.
1.2 Mục đích và yêu cầu của PP vấn đáp
Mục đích của PP vấn đáp là nâng cao chất lợng giờ học bằng cách tăng cờng hình
thúc hỏi đáp, đàm thoại giữa GV va HS , rèn cho HS bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt
một vấn đề trớc tập thể . Muốc thực hiện điều đó, đòi hỏi GV phải xây dựng đợc hệ thống
câu hỏi phù hợp với yêu cầu bài học, hấp dẫn , sát đối tợng, xác định đợc vai trò chức
năng của từng câu hỏi , mục đích hỏi , các yếu tố kết nối hệ thống câu hỏi. Câu hỏi phải
khơi gợi đợc hứng thú tham gia hoạt động của học sinh và phải đợc chuẩn bị một cách
chu đáo và thục sự khoa học, không thể tùy hứng, vụn vặt, thiếu hệ thống,đặc biệt là
không có tác dụng.đẫn dắt HS thâm nhập và cắt nghĩa văn bản . Câu hỏi không cần
nhiều nhng phải là những câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống buộc
học sinh phải suy nghĩ và có húng thú bộc lộ cảm nghĩ của mình Ngoài ra ngời giáo viên
cần dự án các phơng án trả lời của học sinh đế có thể thay đổi hình thức , cách thức mức
độ hỏi, có thể dẫn dắt qua các câu hỏi phụ tránh đơn điệu nhàm chán, nặng nề bế tắc ; tạo
hứng thú học tập cho HS và tăng hấp dẫn của giờ học .
1.3 Các nhân vật tham gia trong giờ học vấn đáp.
1.3.1 Ngời giáo viên trong giờ học vấn đáp.
Trờng THPT ứng hòa b GV Nguyễn Hòa
6
Thực tế cho thấy, trong một thời gian dài trớc khi cải cách giáo dục ngời ta đã từng
quan niệm học văn là một quá trình thầy đọc, giảng, cảm thụ còn trò chỉ là những cỗ máy
ghi chép.Theo cách dạy học truyền thống, ngời giáo viên trong giờ học là ngời quyết
định một cách toàn diện chất lợng dạy học và đợc coi là chủ thể của hoạt động dạy Thế
nhng, trớc yêu cầu ngày càng cao của xã hội và sự bùng nổ về tri thức, thông tin đã đặt
ngời học trớc một nhiệm vụ mới khó khăn hơn. Bản chất của sự học ngày nay đã thay
đổi. Học bao giờ cũng phải đi đôi với hành học và hành phải kết hợp chặt chẽphải
gắn liền với thực tế những đòi hỏi của dân tộc, xã hội giáo viên không còn đóng vai trò
đơn thuần là ngời truyền đạt kiến thức, GV trở thành ngời thiết kế, tổ chức, hớng dẫn các
hoạt động độc lập, hoặc theo nhóm nhỏ để HS tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ
động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chơng trình. Điều này
đòi hỏi ngời GV phải đầu t công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động
mời có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là ngời gợi mở, xúc tác, đông viên, cố vấn,
trọng tài trong các hoạt đọng tìm tòi tranh luận của HS . GV phải có trình độ chuyên
môn sâu, rộng, có trình độ s phạm mới có thể tổ chức hớng dẫn các hoạt động của HS.
Với giờ đọc - hiểu văn bản Ngữ văn, GV là ngời điều khiển, hớng dẫn để học sinh tự
khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. Ngời GV phải chuẩn bị kĩ nội dung bài học nh
xác định rõ mục tiêu bài học, tiến trình tổ chức dạy học . Đặc biệt là quá trình tổ chức h-
ớng dẫn dạy học bài mới. GV phải xây đựng đợc một hệ thống câu hỏi vấn đáp phù
hợp với nội dung bài học.Câu hỏi phải khơi gợi đợc hứng thú tham gia hoạt động của học
sinh và phải đợc chuẩn bị một cách chu đáo và thục sự khoa học, không thể tùy hứng,
vụn vặt, thiếu hệ thống,đặc biệt là không có tác dụng.đẫn dắt HS thâm nhập và cắt nghĩa
văn bản . Câu hỏi không cần nhiều nhng phải là những câu hỏi thích đáng, trọng tâm,
then chốt, có tình huống buộc học sinh phải suy nghĩ và có húng thú bộc lộ cảm nghĩ của
mình . Có thể nói xây dựng đợc hệ thống câu hỏi vấn đáp có chất lợng có tác dụng gợi
dẫn HS thâm nhập khám phá tác phẩm là một nghệ thuật đòi hỏi sự công phu và tài năng
thực sự của GV
Theo kinh nghiệm của tôi, đối với mỗi câu hỏi, ngời GV phải xác định đợc mức độ,
mục đích, nội dung và hình thức câu hỏi, cũng nh tính hệ thống, đẫn dắt của mồi câu
hỏi .Cũng cũng phải lu ý một điều là tùy vào tình huống thực tế, vào đối tợng HS mà ng-
ời GV có thể thay câu hỏi hoặc bổ sung các câu hỏi cho phù hợp vói tình huống, đối tợng
học sinh và mục tiêu bài học. Chẳng hạn, đứng trớc một vấn đề mà học sinh khó phát
hiện cũng nh khó trả lời, ngời giáo viên cần có câu hỏi gợi mở để từ đó giúp học sinh có
sự định hớng và trả lời.
1.3.2 Ngời học sinh trong giờ học vấn đáp.
Trong cơ chế dạy học văn theo lối cũ, mối liên hệ giữa giáo viên và học sinh là
mối liên hệ giữa ngời giảng với ngời nghe, ngời truyền thụ với ngời tiếp thu, ngời thông
tin với ngời tiếp nhận, ngời trình bày với ngời ghi nhớ. Nh vậy những năng lực chủ quan
của bản thân học sinh không đợc phát huy. Trong giờ học văn , học sinh chỉ có nhiệm vụ,
nghe nhớ, và lặp lại điều đã nhớ đợc qua lời giảng của giáo viên. Học sinh đợc xem nh là
khách thể, một đối tợng thụ động chịu sự tác động của giáo viên, của tài liệu, của tiến
trình giảng dạy mà không thấy rõ học sinh cũng là chủ thể năng động trong tiến trình tổ
chức dạy học.
Tởng đổi mới dạy học văn hiện nay là coi trọng, chú trọng đến ngời học, là phát huy
cao độ tiềm năng sáng tạo của ngời học . Do đó, khi dạy một bài Ngữ văn, GV không chỉ
Trờng THPT ứng hòa b GV Nguyễn Hòa
7
chú trọng đến văn bản, đến việc dạy cái gì và cách dạy nh thế nào mà còn phải chú ý tới
ngời học sẽ học nh thế nào . Sai lầm lâu nay của cách dạy học cũ là GV chỉ say mê khám
phá văn bản và khổ công tìm tòi cách thức lên lớp sao cho háp dẫn mà không chú ý HS
học bài đó nh thế nào. Xác định đúng đắn vai trò của học sinh nh là một chủ thể cảm thụ
trong giờ dạy học văn sẽ đa đấn những đổi mới cơ bản trong phơng pháp dạy học văn.
Trong giờ đọc hiểu văn bản, khi giáo viên vận dụng PP vấn đáp gợi mở đẫn dắt, HS
không chỉ tự cảm thụ, rung cảm, cảm xúc trớc cái hay, cái đẹp mà còn đợc trao đổi, thảo
luận với bạn bè, đợc tiếp thu tri thức mới và đợc tự do phát biểu những suy nghĩ, sáng
kiến của mình. Với hệ thống câu hỏi phát vấn trong giờ học Văn, giáo viên có thể phát
huy những năng lực t duy và phẩm chất trí tuệ của từng học sinh. Năng lực độc lập, tự
làm việc, óc tìm tòi suy nghĩ, thói quen giao tiếp xã hội của học sinh đợc phát huy một
cách tích cực.
Nh vậy, trong giờ văn theo phơng pháp vấn đáp học sinh luôn là một chủ thể trực
tiếp tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm cũng nh giáo viên. Ngời GV không cảm thụ hộ mà là
ngời đứng ra tổ chức quá trình học sinh tiếp nhận, chiếm lĩnh văn bản văn học. Từ đó,
học sinh đợc rèn luyện và phát triển một số kĩ năng tự tiếp nhận văn bản văn học cũng
nh các vấn đề trong cuộc sống.
II - Một số giải pháp vận dụng PP vấn đáp
Tuy là một giáo viên mới vào nghề, kinh nghiệm còn hạn chế, nhng qua một thời
gian công tác giảng dạy, bản thân tôi mạnh dạn đa ra một số giải pháp bớc đầu làm căn
cứ cơ sở cho vận dụng PP DH vấn đáp trong giờ đọc hiểu Ngữ văn ở trờng THPT :
- Trong giờ học văn, giáo viên phải là ngời điều khiển, hớng dẫn để học sinh tự khám
phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. HS là một chủ thể trực tiếp tiếp nhận, chiếm lĩnh tác
phẩm. HS có điều kiện phát huy những khả năng mới vốn tiềm ẩn mà lâu nay bản thân
các em cha khám phá, bộc lộ hoặc còn rụt rè, lúng túng... Từ đó, tạo cho các em HS sự
mạnh dạn, tự tin khi diễn đạt một vấn đề trớc tập thể.
- GV cần phải nắm vững bản chất của PP vấn đáp, đặc biệt là phải phân biệt đợc các loại,
mức độ vấn đáp để từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có
tình huống , khơi gợi đợc hứng thú tham gia hoạt động của học sinh,phù hợp với nội
dung bài học .
Qua tài liệu tham khảo và kinh nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy có ba phơng
pháp (mức độ) vấn đáp : Vấn đáp tái hiện , Vấn đáp giải thích chứng minh và vấn đáp
tìm tòi, phát hiện, sáng tạo
+ Vấn đáp tái hiện : Đây là phơng pháp GV đặt ra câu hỏi yêu cầu HS chỉ cần nhớ lại
và tái hiện nội dung bài học .Đây là dạng vấn đáp ở mức độ bình thờng, không đòi hỏi
HS phải t duy mà chỉ cần huy động trí nhớ hoặc dựa vào văn bản văn học
Chẳng hạn khi tổ chức cho HS tìm hiểu chung về văn bản văn học, giáo viên chủ yếu
sử dụng PP vấn đáp tái hiện .Ví dụ dạy học bài Việt Bắc, sau khi đọc phần tiểu dẫn, giáo
viên đặt câu hỏi : Em hãy cho biết phn tiu dn gii thiu ni dung gỡ?. Học sinh lắng
nghe và căn cứ vào văn bản để trả lời :- Hon cnh v mc ớch sỏng tỏc bi th Vit
Bc. Gii thiu khỏi quỏt v b cc bi th . Hay khi tổ chức hớng dẫn học sinh đọc
hiểu văn bản Việt Bắc, giáo viên đặt câu hỏi tái hiện : Cuc chia giữa kẻ ở ngời đi tay
c miờu t nh thế nào trong tám câu thơ đầu? HS đọc văn bản và tái hiện cảnh chia tay
Trờng THPT ứng hòa b GV Nguyễn Hòa
8
: Trên nền cảnh núi rùng Việt Bắc, diễn ra cảnh chia tay đầy bịn rịn lu luyến giữa đồng
bào Việt Bắc và cán bộ CM miền xuôi .Li ca Vit Bc lờn ting trc
Hi v khụng gian v thi gian thng gi k nim va gn bú va sõu nng. Li anh
cỏn b khỏng chin ct lờn li ỏp thể hiện nỗi lòng bõng khuõng, xao xuyn không
muốn rời xa.
Ví dụ : Khi hớng dẫn học sinh tìm hiểu những phát hiện của ngời nghệ sĩ nhiếp ảnh
trongvăn bản Chiếc thuyền ngoài xa(Nguyễn Minh Châu) , giáo viên đặt câu hỏi vấn đáp
tái hiện : Tuy nhiên, ngay khi tâm hồn bay bổng trong những cảm xúc thẫm mỹ, đang
tận hởng cái khoảng khắc trong ngần của tâm hồn thì ngời nghệ sĩ nhiếp ảnh đã kinh
ngạc phát hiện ra điều gì tiếp theo ngay sau bức tranh ? Tâm trạng ngời nghễ sĩ khi
đó nh thế nào? .
HS tái hiện : Bớc ra từ chiếc thuyền ng phủ đẹp nh mơ là một ngời đàn bà xấu xí,
mệt mỏi ; một gã đàn ông to lớn, dữ dằn ; một cảnh tợng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập
vợ một cách thô bạo ... đứa con thơng mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt
tai của bố ngã dúi xuống cát...Chứng kiến cảnh tợng đó ngời nghệ sĩ Phùng kinh ngạc
đến thẫn thờ. Ngời nghệ sĩ nh chết lặng, không tin vào những gì đang diễn ra trớc mắt.
Vấn đáp tái hiện có thể xem là bớc đầu khi đi sâu tìm hiểu, khám phá,phát hiện
giá trị của văn bản văn học. Đây còn là cơ sở để giáo viên đặt ra những câu hỏi nêu vấn
đề nhằm hớng dẫn, giúp HS phát hiện giá trị, vẻ đẹp của văn bản văn học
+ Vấn đáp giải thích, chứng minh . Giáo viên phải xây dựng hệ thống câu hỏi yêu
cầu HS phải t duy, biết vận dụng các thao tác lập luận giải thích(dùng lí lẽ, lí giải nội
dung, bản chất của vấn đề để mọi ngời cùng hiểu vấn đề ), phân tích, chứng minh( chia
tách đôí tợng thành từng khía cạnh, từng phần xem xét đánh giá, kết hợp dùng dẫn chứng
để làm sáng tỏ vấn đề, đối tợng ) đẻ làm sáng rõ vấn đề, hay đối tợng .
Với PP này, giáo viên tổ chức hớng dẫn HS đi sâu khám phá các giá trị của tác
phẩm văn học nay bản chất vấn đề của bài học . Tuy nhiên vấn đề đặt ra là GV xây dựng
hệ thống câu hỏi vấn đáp giải thích, chứng minh nh thế nào để hấp dẫn học sinh đồng
thời đảm bảo đợc mục tiêu cần đạt. Theo kinh nghiệm của bản tôi, ngời GV nên căn cứ
vào mục tiêu cần đạt kết hợp với hệ thống câu hỏi Hớng dẫn học bài trong sách giáo
khoa, thể loại văn bản, dung lợng bài học . Ngoài ra, còn phải chú ý đến đối tợng HS
từng lớp, từng nhóm, thậm chí từng cá nhân trong lớp trong lớp về các mặt nh lứa tuổi,
tâm sinh lý, trình độ ,vốn sống, khả năng nhận thức, khả năng diễn đạt... Trên cơ sở đó
giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi vấn đáp .
Chẳng hạn khi tìm hiểu vẻ hung bạo của con sông Đà trong tùy bút Ngời lái đò
sông Đà của Nguyễn Tuân, Giáo viên nêu câu hỏi: có ý kiến nhận xét cho rằng : Nguyễ
Tuân đã có sự Quan sỏt cụng phu, tỡm hiu k cng khc ha s hung bo trờn nhiu
dng v. Emcó đồng ý với ý kiến trên không? vì sao ?. HS thảo luận rồi trả lời : Quả
đúng là Nguyễn Tuân đã có sự Quan sỏt cụng phu, tỡm hiu k cng khc ha s
hung bo trờn nhiu dng v . Từ đó, HS vận dụng thao tác giải thích ,chứng minh để
làm sáng tỏ vấn đề . Kết quả HS trả lời : Trong phm vi 1 lũng sụng hp, nh chic yt
hu b ỏ b sụng cht cng.Lại có những quãng sông hng cõy s ca mt th gii y
giú gựn ghố, ỏ ging n chõn tri v súng bt tung trng xúa... T cỏi hỳt nc quóng
T Mng Vỏt, nhng cỏi hỳt nc xoỏy tớt lụi tut mi vt xung ỏy sõu... Nhng
Trờng THPT ứng hòa b GV Nguyễn Hòa
9