Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.76 KB, 2 trang )
QUÁ TRÌNH CHUYỂN NGHIA CỦA CHỮ XUÂN
Trong kho tàng ngôn ngữ dân tộc chữ Xuân có nhiều nét nghĩa. Trước hết, nó có một ý nghĩa
cơ bản, nghĩa thường trực là "chỉ một mùa thời tiết mở đầu trong năm, là khoảng thời gian
giữa mùa đông và mùa hạ".
Trong Truyện Kiều, một mặt Nguyễn Du đã triệt để khai thác những khả năng vận động của
từ theo qui luật chung về sự phát triển của tiếng nói dân tộc, mặt khác ông còn tạo ra nhiều
văn cảnh lý thú làm cho chữ xuân trở nên sống động bởi một quá trình chuyển hóa khá tinh
tế về các nét nghĩa phát sinh của nó. Chẳng hạn, trong trường hợp sau đây, chữ xuân không
chỉ có nghĩa thông thường mà còn có ý nghĩa "lễ hội":
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Cũng như vậy, khi dùng chữ xuân với nét nghĩa là "đẹp", cách tả của Nguyễn Du rất gợi, tạo
nên nét nghĩa về cảm giác:
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
hoặc:
Hải đường là ngọn đông lân
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà
Mặc dù sử dụng chữ xuân rất nhiều lần nhưng Nguyễn Du dường như không chịu để xảy ra
sự trùng lặp. Nếu ngày xuân trong cách nói thông thường chỉ có nét nghĩa là sự "tươi đẹp" thì
ở Nguyễn Du, qua miêu tả lời thoại của Kim Trọng, hai chữ này lại có những nét nghĩa tinh tế
hơn, nét nghĩa về "tuổi trẻ" và rất gợi tình:
Sinh rằng: "Rày gió mai mưa
Ngày xuân đã để tình cờ mấy khi"
Với nét nghĩa là "vui" cách dùng chữ xuân của Nguyễn Du còn có thêm nét nghĩa bộc lộ tâm
trạng:
Một tường tuyết chở sương che,
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng
Có những trường hợp, thoạt nhìn chúng ta rất dễ nhầm lẫn để nghĩ rằng tổ hợp hai chữ đêm
xuân không có gì khác nhau, nhưng thực chất nó lại rất khác nhau. Sự khác nhau ấy không
chỉ biểu hiện qua nét nghĩa hình thái của từ mà còn khác nhau bởi phần tin bổ sung có tác