1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, giáo dục nước ta đã có nhiều thay đổi vượt
bậc. Mục tiêu là: “Xây dựng nội dung, chương trình giáo dục phát triển toàn
diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực, phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt
Nam”. Là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non
có mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng là giáo dục toàn diện cho trẻ, “giúp trẻ phát
triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên
của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp một” [1].
Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ đó, giáo dục mầm non đã đổi mới theo
hướng phát huy tính tích cực; tự giác, chủ động, sáng tạo của trẻ, phù hợp với
đặc điểm của từng độ tuổi, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện
kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú học tập cho trẻ, để trẻ được trải nghiệm những kiến thức, kĩ năng
mới. Trẻ không chỉ đơn thuần được học trong một môi trường tốt như cơ sở vật
chất đầy đủ, không gian thoáng mát, rộng rãi nữa mà môi trường tốt hiện nay là
còn đảm bảo được sự tương tác, giao lưu giữa các bé với cô giáo hay giữa các bé
với nhau, thậm chí là tương tác với thế giới bên ngoài thông qua các chương
trình ngoại khóa khá thú vị, giúp phát triển khả năng tư duy và sáng tạo của trẻ.
Chính vì vậy, việc đưa ra các giải pháp giáo dục gắn với thực tiễn và giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ là hết sức cần thiết, nhằm tạo cho trẻ có cơ hội để trẻ
được trải nghiệm, khám phá, thích nghi và hướng dẫn cho trẻ cách tự thể hiện
mình, giúp trẻ phát triển hài hòa, toàn diện về nhân cách...Tuy nhiên, trên thực tế
chương trình giáo dục mầm non không có những hoạt động giáo dục kỹ năng
sống riêng biệt, chỉ lồng ghép giáo dục tích hợp qua các hoạt động trong ngày ở
mức giản đơn, giáo viên chưa nhận thức rõ mục đích, ý nghĩa của việc giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ; chưa nắm bắt và biết cách tận dụng các cơ hội trong ngày
để giáo dục trẻ, chưa biết chọn nội dung phù hợp với trẻ nên hiệu quả giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ ở các trường mầm non còn rất hạn chế.
Đề án “Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ” được ban hành theo Quyết định 1615/QĐ- UBND của Chủ tịch UBND
huyện Quảng Xương ngày 16 tháng 8 năm 2017 là căn cứ để các trường mầm
non trong toàn huyện thực hiện tốt việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, giúp cán
bộ giáo viên hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của việc giáo dục gắn với thực tiễn và rèn
kỹ năng sống cho trẻ trong các trường mầm non; góp phần định hướng nội dung,
các biện pháp thực hiện việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ có hiệu quả.
Là một trong những đơn vị thực hiện trọng điểm đề án theo kế hoạch năm
học 2018- 2019 của phòng giáo dục và đào tạo huyện, bản thân tôi luôn trăn trở:
Làm thế nào để tất cả các đồng chí giáo viên đều hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của
việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ; xác định được mục tiêu, nhiệm vụ của bản
thân trong việc thực hiện đề án; nắm chắc và thực hiện có hiệu quả các nội dung
1
đề án, nâng cao chất lượng chăm sóc- giáo dục trẻ trong nhà trường. Vì lẽ đó, tôi
đã lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện tốt đề án “xây dựng
trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ” là đề tài
nghiên cứu viết sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học này.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Đề xuất một số biện pháp chỉ đạo thực hiện tốt đề án “xây dựng trường
học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ” ở trường mầm non.
- Tìm ra nội dung, hình thức tổ chức giáo dục gắn với thực tiễn và rèn kỹ
năng sống cho trẻ trong trường mầm non đạt hiệu quả cao, phù hợp với đặc điểm
tình hình kinh tế, xã hội ở địa phương và thực tế nhà trường.
- Đổi mới phương pháp dạy học một cách hiệu quả, kích thích được sự
hứng thú của trẻ, hình thành và rèn cho trẻ những kỹ năng sống cần thiết, giúp
trẻ ứng phó được mọi hoạt động; mọi tình huống trong cuộc sống.
- Nâng cao năng lực quản lý chỉ đạo cho bản thân tại đơn vị công tác.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Các biện pháp chỉ đạo giáo viên nhằm thực hiện tốt đề án “Xây dựng
trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ”
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp khảo sát thực trạng.
- Phương pháp luyện tập, thực hành.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá.
- Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp.
- Phương pháp tổng kết và rút kinh nghiệm.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận
Theo UNESCO, kỹ năng sống có nghĩa là: Học để biết, học để khẳng định
bản thân, học để chung sống, học để làm việc. Còn theo Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO), kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá
nhân cần có để tương tác với những người khác một cách hiệu quả hoặc ứng phó
với những vấn đề hay những thách thức của cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên,
theo UNICEFF, kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao
tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một
cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân để có một
cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả [2].
Từ những định nghĩa trên, có thể khẳng định: Kỹ năng sống là cách ứng xử
tích cực, cần thiết để có cuộc sống an toàn, khỏe mạnh và hiệu quả. Giáo dục kỹ
năng sống có tác dụng nâng cao nhận thức, trang bị thái độ sống và hành vi tích
2
cực, lành mạnh cho trẻ. Bởi lẽ, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ngay từ khi còn
thơ bé, sẽ giúp trẻ tự biết chăm sóc và bảo vệ bản thân tránh khỏi những nguy
hiểm. Trẻ có thể hoà nhập nhanh với cuộc sống xung quanh, biết cách phát triển
các mối quan hệ với mọi người, với thiên nhiên từ đó học hỏi và làm giàu có
thêm vốn kiến thức, kinh nghiệm cũng như các kĩ năng của bản thân. Nếu thiếu
các kỹ năng sống cần thiết, trẻ sẽ khó tránh khỏi những lúng túng, sai phạm
thậm chí gặp nguy hiểm khi phải giải quyết các tình huống xảy ra trong cuộc
sống hàng ngày. Việc trang bị những kỹ năng sống phù hợp giúp trẻ có cơ hội
phát triển nhân cách đầy đủ và đúng hướng. Như vậy, việc giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ ngay từ độ tuổi mầm non là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thiết
thực. Mỗi đứa trẻ có những yếu tố cá nhân khác nhau và sự ảnh hưởng của các
quan hệ xã hội cũng như hoàn cảnh sống, môi trường trải nghiệm khác nhau nên
nhà giáo dục cần có những hình thức, biện pháp linh hoạt, hợp lý dựa trên quan
điểm then chốt của giáo dục mầm non là “lấy trẻ làm trung tâm” và tận dụng các
điều kiện để tạo ra nhiều cơ hội cho đứa trẻ được tự trải nghiệm. Với kỹ năng
sống phong phú trẻ sẽ biết cách khai thác kiến thức từ cuộc sống xung quanh,
tạo lập các mối quan hệ với tự nhiên và con người để sống an toàn, hòa bình và
phát triển [3].
Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở trường mầm non, giáo viên cần thực
hiện tốt 4 nội dung sau:
- Giáo dục gắn với rèn kỹ năng tự bảo vệ bản thân
Giáo dục trẻ kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể; kỹ năng ứng xử khi bị lạc;
kỹ năng thoát hiểm khi gặp hỏa hoạn; kỹ năng đảm bảo an toàn khi tham gia
giao thông…
- Giáo dục gắn với rèn kỹ năng giao tiếp
Rèn cho trẻ kỹ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông; kỹ năng nói rõ
ràng, mạch lạc; kỹ năng giao tiếp thông thường; kỹ năng sử dụng lời nói để trình
bày cảm xúc, nhu cầu của bản thân…
- Giáo dục gắn với rèn Kỹ năng tự lập
Giáo dục cho trẻ hiểu và biết thực hiện thành thạo một số kỹ năng tự phục
vụ trong ăn uống, sinh hoạt, học tập… hàng ngày. Biết giúp người lớn làm một
số công việc đơn giản phù hợp với lứa tuổi. Biết nói lên nhu cầu, nguyện vọng,
sở thích riêng của bản thân...
- Giáo dục gắn với rèn Kỹ năng hoạt động nhóm
Rèn luyện cho trẻ biết thiết lập quan hệ, trao đổi trò chuyện giữa các
thành viên trong nhóm tổ chức các hoạt động hàng ngày, kết hợp hài hòa làm
việc theo nhóm: Biết quan tâm chia sẻ và giúp đỡ bạn bè, người thân; biết hợp
tác với người khác để hoàn thành những công việc chung đơn giản phù hợp với
lứa tuổi; biết nhận xét một số hành vi đúng sai của con người đối với môi
trường, xã hội [4].
3
Có thể nói, nội dung của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ hết sức đơn giản,
đó là những nội dung mà giáo viên mầm non đã thường xuyên dạy trẻ nhưng khi
gắn vào trong đề án “xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ” giáo viên phải gắn với các việc làm, tình huống cụ thể để trẻ được
quan sát người khác làm, trẻ được thực hành trải nghiệm. Sự trải nghiệm nhiều
lần sẽ giúp trẻ nhận thấy ý nghĩa thiết thực của việc làm, từ đó trẻ sẽ chủ động
vận dụng các kỹ năng cần thiết vào từng tình huống cụ thể trong cuộc sống,
thông qua nhiều hình thức khác nhau.
2.2.Thực trạng vấn đề
Trường mầm non Quảng Lợi nằm ở phía Nam huyện Quảng Xương, là
đơn vị được công nhận trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ I năm
2016. Trong những năm gần đây, nhà trường đã có nhiều đổi mới trong công tác
quản lý, nâng cao chất lượng chăm sóc- giáo dục trẻ và đã đạt được những thành
tích đáng ghi nhận. Năm học 2018- 2019, nhà trường được phòng giáo dục và
đào tạo chọn là một trong những đơn vị thực hiện trọng điểm đề án. Trong quá
trình thực hiện đề án, tôi nhận thấy những thuận lợi, khó khăn sau:
2. 2.1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm chỉ đạo của UBND huyện Quảng Xương, sự đầu tư
kêu gọi các nguồn lực của lãnh đạo UBND xã, các ban, ngành, đoàn thể trong
toàn xã đã xây dựng cơ sở vật chất cho nhà trường có đầy đủ các phòng học,
phòng chức năng theo quy định.
- Được sự chỉ đạo sát sao của Phòng Giáo dục và Đào tạo, trực tiếp là các
đồng chí lãnh đạo, chuyên viên tổ mầm non nhiệt tình, tâm huyết, bám cơ sở, tư
vấn về công tác tham mưu; bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ giúp nhà
trường nâng cao chất lượng toàn diện.
- Phụ huynh học sinh trong nhà trường, đứng đầu là Ban đại diện cha mẹ
học sinh luôn nhiệt tình ủng hộ tinh thần, vật chất giúp nhà trường xây dựng cơ
sở vật chất, đầu tư mua sắm trang thiết bị dạy học.
- Đội ngũ CBGV, NV đoàn kết, có tâm huyết với nghề, yêu nghề, mến trẻ,
có tinh thần học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
2.2.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trên, việc thực hiện đề án vẫn còn gặp nhiều
khó khăn, đó là:
- Nhà trường vẫn còn thiếu phòng học theo quy định. Trang thiết bị bên
trong các nhóm/ lớp vẫn chưa đảm bảo so với yêu cầu hiện nay.
- Đội ngũ giáo viên trẻ đông, nhiều giáo viên mới ra trường nên kinh
nghiệm chăm sóc- giáo dục trẻ còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó, giáo viên nghỉ
sản nhiều trong năm học cũng ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý, chỉ đạo trong
nhà trường
4
- Số học sinh tương đối đông, vượt chỉ tiêu biên chế số trẻ/lớp đối với các
độ tuổi. Nhiều trẻ ra lớp năm đầu nên nhút nhát, thiếu tự tin, chưa mạnh dạn
trong giao tiếp với mọi người xung quanh; trẻ nói năng không mạch lạc, rõ ràng;
một số trẻ chưa tự giác trong việc chào hỏi người lớn, bạn bè, chưa có ý thức
cao trong việc bảo vệ môi trường xung quanh, ngay cả tại nhóm/ lớp, nhà
trường, gia đình, nơi công cộng; trẻ chưa chủ động trong các hoạt động tự phục
vụ bản thân hàng ngày, do cha mẹ còn bao bọc thường xuyên làm hết mọi việc
cho con.
- Hầu hết các bậc cha mẹ chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Chưa phối kết hợp với giáo viên trong các hoạt
động chăm sóc- giáo dục trẻ.
- Kinh phí để thực hiện đề án còn rất hạn chế.
2.2.3. Khảo sát thực trạng trước khi thực hiện đề tài
Để việc nghiên cứu đạt hiệu quả, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành
khảo sát đánh giá trẻ theo 4 nội dung giáo dục kỹ năng sống và khảo sát giáo
viên theo 3 nội dung để nắm bắt được khả năng của trẻ và giáo viên trong việc
thực hiện đề án.
Bảng 1. Kết quả khảo sát học sinh đầu năm học
(Tổng số: 376 trẻ)
Kết quả
STT
Nội dung khảo sát
Đạt
Tỷ lệ
Chưa đạt
Tỷ lệ
1
Kĩ năng giao tiếp
205/376
54,5%
171/376
45,5%
2
Kĩ năng tự lập
185/376
49,2%
191/376
50,8
3
Kỹ năng tự bảo vệ bản
thân
166/376
44,1%
210
55,9%
4
Kỹ năng làm việc nhóm
163/376
43,3%
213
56,6%
Nhìn vào bảng khảo sát ta thấy: Các kỹ năng của trẻ còn hạn chế. Kỹ năng
giao tiếp có số lượng trẻ đạt cao nhất nhưng chỉ chiếm 54,5%. Còn lại các kỹ
năng khác số lượng trẻ đạt đều không vượt quá 50%.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy nhiều trẻ còn thụ động, nhút nhát, rụt rè;
chưa tích cực suy nghĩ, tìm tòi, khám phá...
- Về Kỹ năng giao tiếp: Trẻ chưa tự tin trong giao tiếp với mọi người xung
quanh; trẻ nói năng không mạch lạc, rõ ràng; một bộ phận trẻ chưa chủ động
trong việc chào hỏi người lớn, bạn bè…
- Các kỹ năng tự bảo vệ mình, kỹ năng tự lập, hình thành kỹ năng làm
việc nhóm còn hạn chế. Trẻ chưa được làm quen, chưa được thực hiện nhiều các
thao tác tự chăm sóc mình, giúp đỡ người lớn, bạn bè...
5
Bảng 2. Kết quả khảo sát đội ngũ giáo viên đầu năm học
(Tổng số: 26 GV)
Kết quả
STT Nội dung khảo sát
Đạt
Tỷ lệ
Chưa đạt
Tỷ lệ
1
Nắm vững các nội
dung giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ
19/26
73%
7/26
27%
2
Biết
hoạt
ghép
năng
quả
15/26
57,7%
11/26
42,3%
3
Mạnh dạn, tự tin
trong giao tiếp trước
đám đông
20/26
77%
6/26
23%
tổ chức các
động lồng
giáo dục kỹ
sống có hiệu
Qua bảng khảo sát ta thấy rõ: Vẫn còn một số giáo viên chưa nắm được
các nội dung của đề án giáo dục kỹ năng sống cho trẻ; nhiều giáo viên chưa biết
cách tổ chức các hoạt động lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động
trong ngày đạt hiệu quả; việc giao tiếp tự tin, thể hiện bản thân của một số giáo
viên vẫn còn hạn chế,... Điều này sẽ khiến việc thực hiện đề án tại đơn vị gặp
khó khăn và không mang lại kết quả như mong đợi.
Đứng trước tình hình đó, bản thân là phó hiệu trưởng phụ trách công tác
thực hiện đề án, tôi thực sự băn khoăn, trăn trở trước việc làm thế nào để khắc
phục khó khăn và triển khai thực hiện đề án đạt hiệu quả? Từ việc sưu tầm, tìm
kiếm tài liệu nghiên cứu, đến quá trình chỉ đạo thực hiện đề án tại đơn vị công
tác tôi đã tìm ra được “một số biện pháp chỉ đạo nhằm thực hiện tốt đề án xây
dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ”.
2.3. Các biện pháp chỉ đạo thực hiện đề án
2.3.1. Biện pháp 1: Chỉ đạo giáo viên thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của
năm học
Sau khi được nhận được công văn Số: 542/HD-GDĐT ngày 14/9/2018 của
phòng giáo dục và đào tạo huyện “Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học
2018- 2019 bậc học mầm non”, và được tiếp thu tại Hội nghị hướng dẫn thực
hiện nhiệm vụ năm học của ngành, tôi tham mưu với đồng chí Hiệu trưởng tổ
chức các cuộc họp (Ban giám hiệu, chi bộ và hội đồng nhà trường) nhằm triển
khai, quán triệt các nội dung, nhiệm vụ của bậc học để tất cả các đồng chí Đảng
viên- giáo viên trong nhà trường nắm được. Nhấn mạnh nội dung “thực hiện có
hiệu quả các cuộc vận động và phong trào thi đua”, “Tiếp tục triển khai thực
hiện có hiệu quả đề án “Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ
6
năng sống cho trẻ”. Trong đó, đơn vị trường mầm non Quảng Lợi được lựa chọn
là một trong 9 đơn vị thực hiện trọng điểm thực hiện đề án [5]. Từ đó, lấy ý kiến
của các đồng chí cán bộ giáo viên nhằm xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ
năm học của nhà trường để thực hiện tốt nhiệm vụ mà phòng giáo dục và đào
tạo giao cho.
Để giáo viên nhận thức rõ ý nghĩa, vai trò, nhiệm vụ của mình trong việc
thực hiện đề án tôi chỉ đạo các tổ chuyên môn họp bàn, đưa việc thực hiện đề án
là một trong vấn đề mà tổ chuyên môn quan tâm, thường xuyên thảo luận; xây
dựng kế hoạch hoạt động của tổ chuyên môn. Mỗi cá nhân giáo viên sẽ căn cứ
vào tình hình thực tế tại lớp, khả năng của bản thân để xây dựng kế hoạch thực
hiện nhiệm vụ năm học của bản thân. Trong đó, phải có nội dung thực hiện đề án
“xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ”.
2.3.3. Biện pháp 2: Lập kế hoạch thực hiện đề án
Cũng như bất cứ một hoạt động nào, một công việc gì thì việc lập kế
hoạch cụ thể để chỉ đạo là điều vô cùng cần thiết, bởi khi đã có kế hoạch sẽ dễ
dàng trong việc chỉ đạo thực hiện đề án đạt kết quả cao. Ngay từ đầu năm học,
tôi đã nghiên cứu tìm hiểu các công văn, văn bản liên quan đến việc thực hiện đề
án; nắm chắc lại các nội dung cần thực hiện của bậc học. Đồng thời, dựa vào kế
hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học của bậc học mầm non, kế hoạch thực hiện đề
án giai đoạn 2017- 2021 của nhà trường, cũng như điều kiện thực tế tại địa
phương, đơn vị để xây dựng kế hoạch thực hiện đề án trong năm học 20182019.
Việc xây dựng kế hoạch thực hiện đề án cũng phải đảm bảo theo các
bước: Cùng với các đồng chí trong Ban giám hiệu xây dựng dự thảo kế hoạch, tổ
chức hội nghị lấy ý kiến đóng góp (thành phần hội nghị gồm: Toàn thể Hội đồng
trường; đại diện BTV đảng ủy, UBND xã, các tổ chức đoàn thể địa phương; đại
diện cha mẹ học sinh;...); bổ sung các nội dung, nhiệm vụ, giải pháp vào kế
hoạch; báo cáo, xin ý kiến UBND xã trước khi gửi phòng GD&ĐT thẩm định kế
hoạch.
Trong quá trình lập kế hoạch, việc lựa chọn nội dung và các giải pháp
thực hiện đề án khiến tôi phải cân nhắc kĩ điều kiện thực tế của địa phương và
đơn vị. Với nguồn kinh phí hạn hẹp, chúng tôi đã thống nhất xây dựng mô hình
“Vườn rau của bé” là mô hình thực tiễn để trẻ được trải nghiệm, khám phá tại
đơn vị. Đồng thời, vẫn tiếp tục thực hiện 4 nội dung giáo dục kỹ năng sống của
đề án nhưng chú trọng thực hiện hai nội dung: Giáo dục gắn với kỹ năng giao
tiếp và giáo dục gắn với kỹ năng tự lập. Sau khi lựa chọn được nội dung, tôi đề
ra chỉ tiêu và các giải pháp cho từng nội dung thực hiện; dự trù nguồn kinh phí
và phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên trong nhà trường.
Ngoài việc xây dựng kế hoạch chung cho cả năm học, tôi đã xây dựng kế
hoạch cụ thể hàng tháng để làm căn cứ chỉ đạo thực hiện đề án mang lại hiệu
quả cao nhất:
7
Tháng
Nội dung
- Dự Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện đề án tại huyện.
Tháng 8/2018 - Khảo sát thực trạng nhà trường năm học 2018- 2019
-Tu sửa CSVC, TTB.
- Mua sắm, bổ sung đầy đủ đồ dùng, trang thiết bị giáo dục.
- Tổ chức kịch bản “Ngày hội đến trường của bé” (5/9).
- Ra QĐ thành lập tổ giúp việc của nhà trường năm học 20182019.
Tháng 9/2018
- Xây dựng kế hoạch triển khai đề án “xây dựng trường học gắn
với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ” năm học 20182019.
- Thực hiện công tác tuyên truyền, đẩy mạnh công tác huy động
nguồn lực cho việc thực hiện chuyên đề.
- Xây dựng lớp điểm thực hiện chuyên đề tại các lớp 5 tuổi A4,
A1; Lớp 4 tuổi: B1; Lớp 3 tuổi : C1
- Tổ chức các kịch bản ngày hội, ngày lễ “Ngày hội đến trường
của bé” (5/9), “Vui hội trung thu” (15/8 ÂL)
- Kiểm tra các nền nếp, thói quen của trẻ.
- Chỉ đạo Gv tập cho trẻ có một số thói quen tốt và các kỹ năng
sống trong sinh hoạt hàng ngày phù hợp với từng độ tuổi.
- Rèn cho trẻ kỹ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông; kỹ năng
nói rõ ràng, mạch lạc; kỹ năng giao tiếp thông thường; kỹ năng
Tháng 10/2018 sử dụng lời nói để trình bày cảm xúc, nhu cầu của bản thân…
- Chỉ đạo các nhóm/ lớp tổ chức biểu diễn các tiết mục văn nghệ
chào mừng ngày 20/10( Ngày phụ nữ việt Nam).
- Tổ chức cho trẻ 5 tuổi thăm quan trải nghiệm tại công ty Fruit
of the loom.
- Tập huấn bồi dưỡng về kỹ năng sống cho đội ngũ CBGV.
- Tổ chức thao giảng GV giỏi cấp trường. Chỉ đạo các đ/c GV
Tháng 11/2018 lồng ghép các HĐ rèn kỹ năng sống vào các tiết dạy.
- Tổ chức kịch bản “Cô giáo như mẹ hiền” chào mừng ngày
20/11.
- Tạo cơ hội để trẻ được thực hiện hoạt động khám phá, trải
Tháng 12/2018 nghiệm các HĐ đơn giản về các kỹ năng sống hàng ngày: kỹ
năng tự phục vụ trong ăn uống, sinh hoạt, học tập… hàng ngày.
Biết giúp người lớn làm một số công việc đơn giản phù hợp với
lứa tuổi: Giúp nhà bếp hái rau; bóc lạc,... Biết nói lên nhu cầu,
8
nguyện vọng, sở thích riêng của bản thân...
- Lồng ghép nội dung tuyên truyền qua nội dung của chủ đề
trong tháng về các kỹ năng tình cảm- xã hội
- Giáo dục vệ sinh thân thể; Tập tính ngăn nắp, gọn gàng; tư thế,
dáng điệu,...
- Tổ chức cho trẻ tham quan tượng đài liệt sĩ tại xã.
- Tổ chức hội thi “bé khỏe, bé tài năng” cấp trường.
- Tham gia hội thi “Bé khỏe, bé tài năng” cấp huyện.
- Chỉ đạo các khối sinh hoạt chuyên môn trao đổi, chia sẻ kinh
Tháng 01+2 / nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
2019
- Sơ kết việc thực hiện đề án.
- Hướng dẫn trẻ làm lịch tết.
- Tổ chức Hội chợ xuân.
- Tiếp tục cho trẻ học và khám phá về kỹ năng sống qua các HĐ
học, các trò chơi ở các góc và mọi luc, mọi nơi.
Tháng 03/2019 - Hướng dẫn trẻ làm bưu thiếp tặng bà, tặng mẹ, tặng cô giáo,
tặng các bạn gái nhân ngày 8/3. Thông qua đó GD trẻ cách tặng
quà và thể hiện tình cảm của mình với mọi người.
- Kiểm tra các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự bảo vệ bản thân; kỹ
Tháng 04/2019 năng tự lập; kỹ năng hoạt động nhóm của trẻ.
- Tổ chức cho trẻ tham quan bãi biển Tiên Trang.
- Tổ chức cho trẻ tham quan trường Tiểu học.
Tháng 05/2019 - Đánh giá kết qủa trong quá trình thực hiện đề án “xây dựng
trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ”.
- Tổng kết và báo cáo tình hình thực hiện đề án.
Nhờ việc xây dựng kế hoạch thực hiện đề án của nhà trường một cách cụ
thể, hợp lý mà việc chỉ đạo thực hiện đề án của ban giám hiệu trở nên dễ dàng
hơn, Trên cơ sở kế hoạch của nhà trường, các đồng chí giáo viên đã xây dựng kế
hoạch thực hiện đề án của từng nhóm/ lớp. Từ đó, đề án được thực hiện theo
đúng kế hoạch và mang lại hiệu quả cao.
2.3.3. Biện pháp 3: Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
Việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong nhà trường là việc làm thường
xuyên, liên tục theo kế hoạch hàng tháng, hàng tuần của Ban giám hiệu nhà
trường.
Xác định được việc muốn thực hiện có hiệu quả đề án, nâng cao chất
lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thì trước tiên giáo viên phải nắm
vững các nội dung của đề án. Để giúp giáo viên có kiến thức và kỹ năng để dạy
9
trẻ, trước hết tôi cung cấp tài liệu cho giáo viên tham khảo, học tập (Quyết định
1615 của Chủ tịch UBND huyện, các văn bản liên quan đến việc thực hiện đề
án, các tài liệu về những hoạt động dạy trẻ kỹ năng sống trong trường mầm non
mà bản thân sưu tầm được qua sách báo, mạng internet,...)
Sau khi cung cấp tài liệu, tôi cùng với tổ chuyên môn tổ chức các buổi tập
huấn, hội thảo chuyên đề hay đơn giản là các buổi sinh hoạt chuyên môn, đưa ra
các vấn đề, các nội dung của đề án mà giáo viên còn băn khoăn để tất cả mọi
người trao đổi, thảo luận; giúp giáo viên hiểu rõ thế nào là dạy kỹ năng sống?
Kỹ năng sống là dạy cho trẻ những kỹ năng gì? Dạy kỹ năng sống cho trẻ vào
thời điểm nào là hiệu quả nhất? Đặc biệt nhấn mạnh thảo luận các nội dung giáo
dục kỹ năng sống theo Quyết định 1615/QĐ- UBND; các giải pháp để thực hiện,
cách đánh giá trẻ, ...
Căn cứ vào kế hoạch thực hiện đề án, tôi chỉ đạo xây dựng một số lớp
điểm thực hiện đề án, giao cho các đồng chí có năng lực phụ trách (lớp 5 tuổi
A4- cô Nguyễn Thị Huế, A1- cô nguyễn thị Thảo; Lớp 4 tuổi: B1- cô Trịnh Thị
Xuân ; Lớp 3 tuổi : C2- cô Nguyễn Thị Gấm), tập huấn cho các đồng chí giáo
viên cách lập kế hoạch thực hiện đề án phù hợp với tình hình, điều kiện của từng
nhóm/ lớp. Phân công mỗi khối có 1 lớp điểm và lựa chọn nội dung giáo dục kỹ
năng sống trọng tâm để các lớp thực hiên. Sau khi các lớp điểm thực hiện tốt
tiến hành cho các nhóm/ lớp còn lại thực hiện đại trà. Đây là một trong những
cách bồi dưỡng theo phương pháp “làm mẫu”, hay “nêu gương”, đem lại hiệu
quả đáng kể.
Không dừng lại ở việc bồi dưỡng trên lý thuyết, chúng tôi bồi dưỡng cho
giáo viên thông qua thực hành “hướng dẫn trẻ kỹ năng tập làm một số công việc
tự phục vụ”
1. Đi cầu thang
17.Cách gấp khăn lại
2. Cách đóng mở cửa
18.Cách rót nước
3. Cởi giầy và đi giầy, cất dép
19.Cách sử dụng thìa
4. Cất ba lô
20.Chải tóc
5. Cách đứng lên và ngồi xuống ghế
21.Cách sử dụng đũa
6. Cách bê ghế
22.Khóa kéo
7. Cách rửa tay
23.Cách cắt móng tay
8. Cách xúc miệng nước mũi
24.Cách quét rác trên sàn
9. Cách lấy nước uống
25.Cách lau chùi nước
10.Cách xử lý khi ho
26.Đóng mở đai da
11.Cách xử lý hỉ mũi
27.Chuẩn bị đồ ăn nhẹ
12.Cách mặc áo, cởi áo (móc quần áo) 28.Cách mời trà và rửa cốc
10
13.Cách mặc áo, cởi áo (gấp áo)
29.Cách cắt dưa chuột
14.Cách cài khuy áo
30.Vắt khăn ướt
15.Cách cầm dao, kéo, đĩa
31.Đánh giầy
16.Cách sử dụng kéo
Để các kỹ năng đến với trẻ một cách chính xác đòi hỏi các thao tác của
giáo viên phải chuẩn mực và có sự thống nhất giữa tất cả các lớp. Các kỹ năng
này phải được các cô giáo hướng dẫn giống nhau không có sự lệch lạc mỗi lớp
hướng dẫn một kiểu thì sẽ rất khó cho việc kế thừa từ lớp nhỏ đến lớp lớn. Vì
vậy, tổ chức các buổi tập huấn để giáo viên luyện tập thực hành các thao tác dạy
trẻ (Trong quá trình thực hiện các giáo viên tự quan sát lẫn nhau và cùng sửa
chữa cho nhau).
Ngoài ra, tôi chỉ đạo xây dựng các tiết dạy đối chứng chuyên đề “lấy trẻ
làm trung tâm”, “Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ” để giáo viên học tập, rút kinh
nghiệm; tổ chức các tiết dạy thao giảng giáo viên giỏi cấp trường yêu cầu có
lồng ghép tích hợp các nội dung giáo dục kỹ năng sống vào tiết dạy. Đặc biệt,
trong quá trình xây dựng kế hoạch giáo dục, tổ chuyên môn thảo luận đưa một
số đề tài giáo dục kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi thực hiện ở các chủ đề, chủ
điểm để giáo viên thiết kế giáo án dạy học có nội dung về dạy trẻ về kỹ năng
sống theo một số chủ đề, chủ điểm .Ví dụ: “Biết chào hỏi lễ phép với bạn bè”
(chủ điểm “Trường mầm non”), “Bé biết giữ gìn vệ sinh cơ thể” (chủ điểm “bản
thân”), “Biết chào hỏi lễ phép với người lớn” (chủ điểm “Gia đình”) ,...
Thông qua các hình thức bồi dưỡng này không chỉ nâng cao chất lượng
chuyên môn trong nhà trường mà còn giúp cho giáo viên nhận thức rõ vai trò, ý
nghĩa của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, nắm vững các nội dung và thực
hiện có hiệu quả các nội dung đề án.
2.3.4. Biện pháp 4: Chỉ đạo giáo viên lồng ghép giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ thông qua các hoạt động ở trường mầm non
- Thông qua giờ đón và trả trẻ : Giúp cho giáo viên nhận thấy rằng việc
dậy kỹ năng chủ yếu ở hoạt động này là kỹ năng tự phục vu và kỹ năng giao tiếp
: Cất gầy dép, ba lô, chào cô, chào bố mẹ,…Ngoài ra, giáo viên trò chuyện hoặc
kể cho trẻ nghe các câu chuyện thông qua đó giáo dục và khắc sâu các kỹ năng
sống cho trẻ.
Ví dụ: Cô hỏi trẻ: Hôm qua nghỉ ở nhà con làm gì? Ở nhà chơi như thế
nào là an toàn nhất? Khi đi thăm người ốm cùng bố mẹ con phải như thế nào?,
….
- Thông qua hoạt động học
Trong các tiết học “Làm quen với chữ cái”, “Làm quen với tác phẩm văn
học”, “Khám phá khoa học”, “Nhận biết tập nói”,... rèn cho trẻ phát âm chuẩn,
diễn đạt rõ ràng, mạch lạc.
11
Lựa chọn các đề tài phù hợp với chủ đề, chủ điểm và lứa tuổi của trẻ để
đưa vào các tiết học dạy trẻ những kỹ năng sống cần thiết, bổ ích và phù hợp với
độ tuổi của trẻ. (Ví dụ: Trong một chủ đề, chủ điểm có thể lựa chọn 1-2 tiết dạy
giáo dục kỹ năng sống để thực hiện).
Thường xuyên giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua việc lồng ghép
thực hiện các chuyên đề tiết kiệm năng lượng điện, an toàn giao thông, bảo vệ
môi trường…Cung cấp kiến thức cho trẻ qua các chủ đề, chủ điểm. Sử dụng các
hình ảnh minh họa, hành động làm mẫu để giải thích cho trẻ hiểu. Tổ chức các
hoạt động sáng tạo trong giờ học: đóng vai để xử lý tình huống (Khi đi siêu thị
bị lạc sẽ làm gì?; khi xảy ra hỏa hoạn xử lý thế nào, ăn các loại thức ăn gây ngộ
độc, đau bụng,...….).
- Thông qua hoạt động ngoài trời và tham quan dã ngoại
Chỉ đạo giáo viên thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài trời: Dạo
chơi trong vườn cổ tích khám phá các nhân vật, hướng dẫn trẻ trò chuyện cùng
nhân vật nhằm phát triển tư duy ngôn ngữ riêng cho trẻ, hay tìm hiểm về môi
trường thiên nhiên để hiểu biết và mô tả về các loại cây và hoa. Lựa chọn trò
chơi phù hợp với trẻ và cùng chơi với trẻ, tăng cường các trò chơi dân gian có
gắn kết với văn hóa của địa phương, kèm theo lời là các bài đồng giao, câu đố
vui,...để cuốn hút trẻ giúp trẻ năng động tự tin hơn. Tổ chức cho trẻ được thực
hành trải nghiệm các tình huống về bảo vệ môi trường, giáo dục luật lệ an toàn
giao thông, kỹ năng tự bảo vệ bản thân khi gặp thời tiết thay đổi, khi có hỏa
hoạn hoặc nếu có sự cố không an toàn khi đi chơi, tham quan...
+ Thông qua các hoạt động ngoại khóa, giao lưu tập thể giữa các khối lớp
(“Ngày hội toán học”, “Hội khỏe măng non”, “Bé với nghệ thuật”,... hay các
buổi tham quan thực tế giúp trẻ cứng cáp hơn, tư duy nhạy bén hơn, thích ứng
với môi trường bên ngoài. Thực hiện theo đúng kế hoạch đầu năm, tôi đã tham
mưu tổ chức cho trẻ đi tham quan tại Công ty Fruit of the loom (tháng 10),
tượng đài liệt sĩ và công sở xã Quảng Lợi (tháng 12), bãi biển Tiên Trang (tháng
4), trường Tiểu học (tháng 5). Sau tham quan, chỉ đạo giáo viên cho trẻ thể hiện
suy nghĩ, ấn tượng của mình sau buổi tham quan qua việc thể hiện bằng lời nói
(Kể lại ấn tượng của mình về những nơi đã tham quan, thể hiện niềm vui, sự
thích thú khi được đi tham quan) và các tác phẩm tạo hình (vẽ tranh về các hoạt
động trong nhà máy, tranh về các cô chú công nhân, tranh về biển, trường tiểu
học,...).
- Thông qua hoạt động vui chơi (HĐ góc)
Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo đối với trẻ, tạo cho trẻ nhiều
hứng thú có cơ hội vận dụng kiến thức và kỹ năng để giải quyết nhiệm vụ, cần
hướng dẫn cho trẻ lựa chọn địa điểm chơi (Không tự ý chơi một mình ở những
nơi vắng vẻ), an toàn khi vui chơi, biết xử lý và giúp đỡ bạn khi gặp nạn (bị
ngã).
Tạo môi trường, phân bố góc chơi hợp lý, sau mỗi chủ đề thay đổi cách
bố trí phù hợp, lựa chọn nội dung phù hợp với chủ đề và hướng tới những
12
nguyên liệu đồ dùng có sẵn ở địa phương. Hướng dẫn trẻ thiết lập nhóm chơi
trong lớp và tự về nhóm chơi.
Sử dụng góc phát triển vận động cho trẻ hoạt động, tổ chức các nội dung
thi trong từng nhóm/lớp, phối hợp nhiều động tác, nhiều tư thế khác nhau, sử
dụng nhiều đồ dùng vận động, nhằm tăng cưởng khả năng thích ứng của trẻ.,
Thường xuyên quan tâm đến việc giữ gìn vệ sinh thân thể sau khi tổ chức
các hoạt động vui chơi (rửa tay xà phòng, trang phục sạch sẽ...)
- Thông qua giờ ăn: Giáo dục trẻ kỹ năng tự phục vụ bằng cách tập cho
trẻ những việc vừa sức như: Sắp bàn ăn, xếp ghế, lau bàn, tự thay quần áo, gấp
quần áo; biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử
dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn
gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, biết tự dọn, cất đúng chỗ,
biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn không làm ảnh hưởng đến người
xung quanh, biết giúp cô những công việc vừa sức. Đây là một trong những kỹ
năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này. Giáo viên cần hiểu rõ tâm
lý của trẻ cũng như sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để hình thành nơi trẻ kỹ
năng sống. Chỉ đạo giáo viên rèn cho trẻ khả năng tự phục, nhất là tự phục vụ
trong ăn uống bằng cách: Tập cho trẻ cùng cô sắp bàn ăn, sắp bát thìa, sắp khăn
lau tay, khăn lau miệng. Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn và nhỡ tập cho cháu tự lấy đồ
ăn theo khả năng và sở thích của mình, với sự chỉ dẫn của cô. Đồng thời, tập cho
trẻ cách sử dụng khăn lau miệng khi ăn như thế nào cho đẹp, đúng. Ăn xong cất
bát thìa ở vị trí nào, để như thế nào cho đúng, gọn gàng và tiện lợi nhất. Song
song với việc tập cho trẻ khả năng tự phục vụ trong bữa ăn là tập cho trẻ tự vệ
sinh cá nhân như rửa tay đúng quy trình, lau mặt đúng kỹ năng, biết thay quần
áo, gấp quần áo…, biết sử dụng đồ dùng ăn uống cách đúng mức.
- Thông qua hoạt động lao động, vệ sinh: Dọn đồ chơi, dọn dẹp chỗ chơi,
lau bụi bẩn, rửa đồ chơi, dội nước sau khi đi vệ sinh khi đi vệ sinh, vứt rác vào
đúng nơi quy định, không hò hét, nói to, không nhổ nước bọt ở những nơi đông
người, biết chăm sóc bảo vệ cây cối, các con vật quanh nơi mình ở.. Thực hiện
đúng lịch vệ sinh. Trẻ biết phân loại rác, sống tiết kiệm: Giữ gìn đồ chơi, đồ
dùng, tiết kiệm điện, nước trong sinh hoạt ở lớp và ở nhà dùng chậu, cốc lấy
nước không để vòi nước chảy liên tục khi đánh răng, rửa mặt… Biết cùng cô
làm đồ dùng, đồ chơi từ các nguyên vật liệu phế thải, biết giữ gìn quần áo, tay
chân sạch sẽ, trẻ tham gia quét dọn sân trường…Đây chính là những việc làm tốt
cho môi trường, ngoài ra còn hình thành lòng tự hào ở trẻ khi được góp công sức
của mình vào việc làm cho môi trường xanh - sạch - đẹp thông qua các hoạt
động này Giáo viên giáo dục trẻ các kĩ năng tự phục vụ bản thân…, kĩ năng biết
bảo vệ bản thân khi có nguy hiểm.(Ví dụ: Khi trẻ trong phòng vệ sinh sàn nhà
thường rất trơn thì phải làm như thế nào?
- Thông qua hội thi, các kịch bản trong năm
Tổ chức đủ 7 kịch bản ngày hội ngày lễ trong trường MN: “Ngày hội bé
đến trường”; “Vui tết trung thu”; “Cô giáo như mẹ hiền” (20/11); “Tết và mùa
xuân”; “Ngày vui của bà, của mẹ” (8/3); “Về thủ đô viếng Bác”; Tổng kết năm
13
học và tết thiếu nhi 1/6. Hình thức phải sáng tạo, trẻ phải được tham gia tích
cực cùng bạn bè.
Tổ chức các hội thi văn nghệ, hội thi “Bé khỏe, bé tài năng” cấp trường,
yêu cầu tất cả các trẻ đều tham gia, khuyến khích nội dung thi về năng khiếu:
múa hát, đóng kịch, thuyết trình, các phần thi có nội dung giới thiệu về bản thân,
đặc điểm sở trường và phong cách trình diễn trên sân khấu.
2.3.5. Biện pháp 5: Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá
“Kiểm tra” là một nhiệm vụ gắn liền với quản lý, chỉ đạo của ban
giám hiệu nhà trường. Thông qua kiểm tra, người quản lý nắm được việc thực
hiện các nhiệm vụ của giáo viên để từ đó có sự đôn đốc, uốn nắn, động viên
giúp đỡ để giáo viên thực hiện công việc tốt hơn. Việc kiểm tra còn giúp cho
người quản lý tìm ra nguyên nhân và những thiếu sót, hạn chế của giáo viên để
điều chỉnh các nội dung kế hoạch chỉ đạo, bồi dưỡng có hiệu quả hơn. Vì thế,
việc kiểm tra được tôi thực hiện thường xuyên và có kế hoạch cụ thể về nội
dung kiểm tra, thời điểm kiểm tra: kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn
hàng ngày, kiểm tra việc thực hiện các chuyên đề, đề án; kiểm tra kỹ năng của
trẻ… trên cơ sở giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi chứ không áp đặt, gò bó, phê
phán quá nhiều gây khó khăn, phiền toái, làm ảnh hưởng đến tâm lý giáo viên.
Sau kiểm tra có đánh giá, nhận xét những mặt làm tốt, chưa tốt để giáo viên kịp
thời rút kinh nghiệm.
Đối với công tác đánh giá trẻ, ngay từ đầu năm tôi đã chỉ đạo tổ chuyên
môn đứng đầu là đồng chí tổ trưởng, tổ phó chuyên môn, các đồng chí khối
trưởng các khối họp, thảo luận, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá trẻ ở từng khối/
lớp. Trong bộ tiêu chí có các tiêu chí để đánh giá trẻ theo các lĩnh vực ( gọi là
MT), đồng thời có các tiêu chí để đánh giá trẻ theo 4 nội dung giáo dục kỹ năng
sống trong đề án (gọi là KN). Từ bộ tiêu chí, giáo viên sẽ căn cứ vào tình hình
của nhóm/ lớp để lựa chọn các mục tiêu, tiêu chí phù hợp xây dựng kế hoạch
đánh giá trẻ theo từng chủ đề, chủ điểm. Sau mỗi chủ đề (chủ điểm) giáo viên sử
dụng phiếu để đánh giá trẻ một cách chính xác, khách quan. Điều này giúp giáo
viên có căn cứ để đánh giá trẻ, biết được mức độ đạt được của trẻ ở từng chủ đề,
chủ điểm. Từ đó, xây dựng kế hoạch thực hiện các mục tiêu, tiêu chí giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ ở chủ đề (chủ điểm) tiếp theo.
Đối với BGH nhà trường, căn cứ vào bộ tiêu chí của các khối lớp, tôi
cũng xây dựng bộ tiêu chí dành cho ban giám hiệu đi kiểm tra, đánh giá trẻ để có
cơ sở đánh giá chất lượng chăm sóc- giáo dục trẻ tại các nhóm/ lớp. Quá trình
kiểm tra, đánh giá chú trọng đến khảo sát các kỹ năng của trẻ, đối chiếu với kế
hoạch thực hiện đề án của nhóm/ lớp để đánh giá giáo viên ( Ví dụ: Trong kế
hoạch thực hiện đề án, giáo viên chủ nhiệm lựa chọn nội dung “Giáo dục gắn
với rèn kỹ năng giao tiếp” là nội dung trọng tâm lớp sẽ thực hiện trong năm học.
Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy: kỹ năng giao tiếp của trẻ tại lớp còn hạn
chế. Điều đó chứng tỏ giáo viên chưa chú trọng đến việc thực hiện đề án, xây
dựng kế hoạch nhưng chưa thực hiện đúng kế hoạch)
14
2.3.6. Biện pháp 6: Chỉ đạo xây dựng môi trường giáo dục gắn với thực
tiễn và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
- Xây dựng môi trường bên trong lớp học:
Ở phòng chờ các nhóm/ lớp có bảng tuyên truyền “Những điều phụ huynh
cần biết” để các bậc cha mẹ theo dõi được các hoạt động của lớp: Danh sách trẻ,
Kết quả theo dõi cân đo hàng tháng, định kỳ, kết quả khám sức khỏe, các nội
dung tuyên truyền về dịch bệnh, về giáo dục kỹ năng sống theo chủ đề... Các nội
dung được trang trí đẹp mắt và nổi bật gây được sự chú ý của các bậc phụ huynh
khi đưa đón trẻ.
Đối với các góc hoạt động trong lớp: Chỉ đạo giáo viên xây dựng các góc
hoạt động trong lớp tạo điều kiện cho trẻ hoạt động cá nhân hoặc nhóm nhỏ theo
hứng thú và nhu cầu riêng của trẻ với các hình thức hoạt động phong phú, đa
dạng, qua đó giúp trẻ tìm hiểu và khám phá cái mới, tích cực tìm hiểu các chức
năng sử dụng của đồ dùng đồ chơi và rèn luyện các kỹ năng giao tiếp, hợp tác
cùng bạn, hoặc tự giải quyết các nhiệm vụ, …Trên cơ sở các góc hoạt động giáo
viên đã xây dựng, tôi thường góp ý cách bày trí nhằm phát huy tối đa diện tích
cho trẻ hoạt động: cách sắp xếp các góc; cách đặt tên góc chơi; trưng bày đồ
dùng đồ chơi; …
Cách sắp xếp các góc hoạt động: Vị trí các góc chơi phải hợp lý, thuận
tiện và có đủ không gian cho trẻ hoạt động. Các góc yên tĩnh (góc học tập, góc
sách…) xa góc hoạt động ồn ào (góc phân vai, góc xây dựng…). Sử dụng các
giá tạo hình, các loại bảng thấp, để làm hàng rào phân góc vừa không che khuất
tầm nhìn, vừa đảm bảo các lối đi để trẻ hoạt động liên góc. Diện tích trong mỗi
góc hoạt động tùy thuộc vào số lượng trẻ chơi và số lượng đồ dùng đồ chơi
trong góc. Ví dụ: Góc phân vai (chủ đề Thực vật): Nếu giáo viên bố trí 2 hoạt
động: vừa có cửa hàng rau, vừa nấu ăn (chế biến các món ăn từ rau củ) thì diện
tích phải rộng hơn, số lượng trẻ chơi nhiều hơn so với 1 hoạt động trong cùng
góc.
Đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu trong từng góc được sắp xếp phải dễ
thấy, dễ lấy, dễ lựa chọn. Những thiết bị đồ chơi nặng đặt ở dưới, những đồ chơi
có nhiều bộ phận phải đặt theo bộ. Màu sắc, hình dáng đồ dùng đồ chơi đẹp, hấp
dẫn, đảm bảo an toàn cho trẻ. Ngoài ra, bàn ghế và đồ dùng cá nhân của trẻ phải
được xếp gọn vào một góc lớp, tránh che khuất các mảng trang trí và các góc
hoạt động.
Ngoài việc tạo các góc hoạt động ngay tại các nhóm/ lớp, tôi chỉ đạo giáo
viên tận dụng các khoảng không gian là chân cầu thang, hành lang để tạo các
góc hoạt động chung cho trẻ: Góc “chợ quê”, góc “Vận động”, “thư viện của
bé”... Nhờ vậy, môi trường hoạt động cho trẻ phong phú, đa dạng; trẻ tích cực
tham gia các hoạt động cùng cô.
- Xây dựng môi trường thiên nhiên ngoài lớp học:
Cảnh quan môi trường ngoài lớp học cũng vô cùng cần thiết đối với quá
trình giáo dục trẻ. Vì vậy, ngay từ đầu năm học song song với việc xây dựng môi
trường học tập trong lớp tôi đã quán triệt giáo viên phải quan tâm đến việc xây
dựng môi trường thiên nhiên ngoài lớp học cho trẻ khám phá khi hoạt động
15
ngoài trời. Yêu cầu giáo viên sưu tầm trồng các loại rau phù hợp theo mùa như
mùa đông trồng bắp cải, su hào, xà lách; mùa hè gieo rau rền, mồng tơi; Mùa thu
gieo rau cải,… Mỗi một loại rau phải có biển chữ đầy đủ để khi trẻ được quan
sát khám phá cây xanh có thể lồng ghép giúp trẻ làm quen với các chữ cái. Khi
tham quan vườn rau, trẻ không chỉ được quan sát, trò chuyện về các loại cây, rau
mà còn được cùng cô thực hành chăm sóc, thu hoạch rau. Vì vậy, trẻ luôn hào
hứng khi tham gia và thực hiện các nhiệm vụ cô yêu cầu.
2.3.7. Biện pháp 7: Tăng cường công tác tuyên truyền cho các bậc cha
mẹ và cộng đồng
Việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường là một nhiệm vụ thiết thực, tạo
sự liên kết và thống nhất giữa trường và cha mẹ trẻ về nội dung, phương pháp,
cách thức tổ chức giáo dục trẻ ở lớp cũng như ở gia đình. Đây là điều kiện thuận
lợi để nhà trường thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức giáo dục
trẻ cho các bậc cha mẹ và cộng đồng nhằm giúp trẻ có sự phát triển toàn diện cả
về thể chất, tinh thần, nhận thức, tình cảm, thẩm mĩ, ngôn ngữ, giao tiếp ứng
xử... góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục mà nhiệm vụ năm học đã đề ra.
Nhận thức rõ về điều này, tôi cùng các đồng chí trong Ban giám hiệu luôn
chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức, thực hiện có hiệu
quả mối quan hệ giữa nhà trường và phụ huynh. Mối quan hệ này được xây
dựng mật thiết theo những kế hoạch, biện pháp cụ thể, gắn chặt với các hoạt
động chuyên môn của nhà trường.
Xây dựng kế hoạch tuyên truyền với các nội dung cần tuyên truyền được
thể hiện trong chương trình từng học kỳ, từng năm học, từng tháng. Kế hoạch
được xây dựng một cách linh hoạt, phù hợp với nhu cầu và tình hình thực tế của
nhà trường.
Tuyên truyền đến các bậc phụ huynh những văn bản chỉ đạo đề án ( Quyết
định 1615 QĐ/UBND, kế hoạch thực hiện đề án của nhà trường, nhóm/ lớp, ...)
Tuyên truyền về các phong trào thi đua, các cuộc vận động do Bộ
GD&ĐT, Sở GD&ĐT và Phòng Giáo dục, địa phương tổ chức triển khai thực
hiện. Những phong trào, các cuộc vận động này được nhà trường - giáo viên
tuyên truyền trao đổi tới phụ huynh thông qua các buổi họp phụ huynh đầu năm,
giữa năm và cuối năm. Các bậc phụ huynh cùng tham gia bổ sung đóng góp ý
kiến cho nhà trường, cho lớp và có những biện pháp phối hợp giáo dục trẻ trong
quá trình trẻ được học ở trường.
Nhà trường tổ chức các hoạt động để phụ huynh học sinh cùng tham gia
với các con về các hoạt động tại lớp và trường để phụ huynh thấy được tầm quan
trọng trong việc dạy các con các kỹ năng sống ... Phụ huynh được tham gia các
hoạt động ngoại khóa, các buổi lễ của nhà trường. Việc nhà trường yêu cầu phụ
huynh tham gia vào kế hoạch hoạt động của mình không chỉ mang tính chất
thông báo mà quan trọng hơn là coi cha mẹ học sinh như một “kênh” thông tin
hữu hiệu để giúp nhà trường có thêm thông tin góp phần vào các hoạt động của
nhà trường.
16
Trao đổi thường xuyên, hằng ngày giữa nhà trường, giáo viên chủ nhiệm
với phụ huynh qua điện thoại hoặc trao đổi trực tiếp thông qua giờ đón trẻ, trả
trẻ. Nhà trường tuyên truyền phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các bậc cha
mẹ, tuyên truyền về phòng một số bệnh nguy hiểm, thường gặp ở trẻ cho các bậc
cha mẹ và cộng đồng.
Xây dựng góc tuyên truyền các bậc cha mẹ tại các nhóm lớp, các nội dung
giáo dục lễ giáo phải được thay đổi theo từng chủ đề, từng tháng, hình thức hấp
dẫn để tạo được sự chú ý của phụ huynh khi đưa con đến lớp.
Tuyên truyền để cha mẹ trẻ có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và
năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải
quyết các vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoa
học khi chơi với nhau.
Đề nghị cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp
lý bằng việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trừơng. Cha
mẹ nên tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của
nhà trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khoá; chỉ bằng cách đó
thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là phải học cả đời.
Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của
cuộc sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh
thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình
một cách tích cực và đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất
cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách
chính xác và thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên
luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho
trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính
cha mẹ và những người xung quanh trẻ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Sau quá trình áp dụng những biện pháp trên, việc thực hiện đề án đã thu
được những kết quả bước đầu.
* Đối với trẻ
- 100% trẻ mẫu giáo, 50% trẻ nhà trẻ có kỹ năng giao tiếp tốt, mạnh dạn,
tự tin trước đám đông; kỹ năng nói rõ ràng, mạch lạc; kỹ năng giao tiếp thông
thường; kỹ năng sử dụng lời nói để bày cảm xúc, nhu cầu của bản thân…
- Đa số trẻ biết phân biệt được nơi chơi, đồ chơi an toàn và không an toàn;
biết phân biệt được người lạ, người quen, không nhận quà hoặc đi theo người lạ
khi chưa có ý kiến của người lớn; trẻ mẫu giáo từ 5 đến 6 tuổi hiểu được một số
hành động xâm phạm trẻ em, biết gọi sự trợ giúp của người thân khi gặp nguy
hiểm, nhớ tên bố mẹ, cô giáo, địa chỉ gia đình, tên trường; không ăn, uống các
loại thức ăn chưa được nấu chín, nấu sôi...
- Trẻ hiểu và biết thực hiện thành thạo một số kỹ năng tự phục vụ trong ăn
uống, sinh hoạt, học tập… hàng ngày. Biết giúp người lớn làm một số công việc
17
đơn giản phù hợp với lứa tuổi. Biết nói lên nhu cầu, nguyện vọng, sở thích riêng
của bản thân...
- Trẻ biết trao đổi trò chuyện giữa các thành viên trong nhóm tổ chức các
hoạt động hàng ngày, kết hợp hài hòa làm việc theo nhóm: Biết quan tâm chia sẻ
và giúp đỡ bạn bè, người thân; biết hợp tác với người khác để hoàn thành những
công việc chung đơn giản phù hợp với lứa tuổi; biết nhận xét một số hành vi
đúng sai của con người đối với môi trường...
Kết quả khảo sát cuối năm về 4 nội dung giáo dục kỹ năng sống của trẻ
được thể hiện trên bảng sau:
Bảng 3. Kết quả khảo sát học sinh sau khi áp dụng sáng kiến
(Tổng số: 376 trẻ)
Kết quả
STT
Nội dung khảo sát
Đạt
Tỷ lệ
Chưa đạt
Tỷ lệ
1
Kĩ năng giao tiếp
363/376
96,5%
13
3,5%
2
Kĩ năng tự lập
346/376
92%
30
8%
3
Kỹ năng tự bảo vệ bản thân 280/376
74,5%
96
25,5%
4
Kỹ năng làm việc nhóm
78%
83
22%
293/376
* Đối với giáo viên:
- 100 % giáo viên đã nắm vững các nội dung của đề án, biết vận dụng các
nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ thông
qua các hoạt động hàng ngày theo từng chủ đề, chủ điểm một cách phù hợp.
- 100% giáo viên đã mạnh dạn, tự tin hơn khi tổ chức họp phụ huynh,
mạnh dạn trao đổi những ý tưởng của cá nhân khi sinh hoạt chuyên môn hoặc
khi góp ý về chuyên môn, thao giảng ...
- 88,5% các đồng chí giáo viên biết tổ chức các hoạt động lồng ghép giáo
dục kỹ năng sống có hiệu quả .
- Chất lượng và nội dung tuyên truyền tới các bậc cha mẹ trẻ được nâng
lên rõ rệt, hình thức tuyên truyền được thay đổi theo chủ đề một cách phù hợp.
Bảng 4. Kết quả khảo sát đội ngũ giáo viên sau khi áp dụng sáng kiến
(Tổng số: 26 GV)
Kết quả
STT Nội dung khảo sát
1
2
Nắm vững các nội
dung giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ
Biết tổ chức các
hoạt động lồng
Đạt
Tỷ lệ
Chưa đạt
Tỷ lệ
26/26
100%
0
0%
23/26
88,5%
3/26
11,5%
18
ghép giáo dục kỹ
năng sống có hiệu
quả
3
Mạnh dạn, tự tin
trong giao tiếp trước
đám đông
26/26
100%
0
0%
* Đối với các bậc phụ huynh
- Phụ huynh nhận thức rõ tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ. Thường xuyên phối hợp cùng giáo viên trong công tác chăm sóc- giáo
dục trẻ.
- Tích cực ủng hộ kinh phí để nhà trường tổ chức các hoạt động ngoại
khóa, tham quan cho trẻ.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Trong xu thế hiện nay, vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ không phải
là một vấn đề mới và to tát, tuy nhiên việc lựa chọn nội dung để vận dụng vào
công tác giáo dục trẻ là một vấn đề cần được quan tâm. Đề án “Xây dựng trường
học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ” được triển khai thực
hiện đã giúp tôi nhận thức rõ ý nghĩa, vai trò và mục đích của việc giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ ngay từ độ tuổi mầm non. Từ đó, nâng cao ý thức, trách nhiệm
của người quản lý trong việc thực hiện đề án đạt hiệu quả cao nhất. Trong quá
trình nghiên cứu, tìm ra các biện pháp chỉ đạo thực hiện đề án tại đơn vị, tôi đã
rút ra được những bài học kinh nghiệm cho bản thân và đồng nghiệp.
- Để thực hiện đề án có hiệu quả, trước hết Ban giám hiệu nhà trường phải
có kế hoạch cụ thể; lựa chọn nội dung trọng tâm phù hợp để thực hiện, đưa ra
các chỉ tiêu cụ thể và các giải pháp để đạt được chỉ tiêu đề ra. Sau khi xây dựng
kế hoạch cần đưa ra bàn bạc, lấy ý kiến tổng hợp từ tập thể đế cán bộ giáo viên
nắm được kế hoạch của nhà trường và thực hiện đúng kế hoạch đề ra.
- Chú trọng công tác bồi dưỡng đội ngũ, nâng cao năng lực đội ngũ giáo
viên về việc thực hiện “giáo dục gắn với thực tiễn và rèn kỹ năng sống cho trẻ”.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa của công tác xây
dựng mô hình "trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống" trong
cán bộ, đảng viên, các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội và các tầng
lớp nhân dân. Đặc biệt trong đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và các bậc cha
mẹ học sinh.
- Làm tốt công tác xã hội hóa để có nguồn kinh phí mua sắm, bổ sung
trang thiết bị, đồ dùng dạy học và các vật dụng khác phục vụ cho hoạt động
trong nhà trường: Tổ chức các kịch bản ngày hội, ngày lễ, hội thi; các hoạt động
trải nghiệm,...phục vụ cho việc giáo dục, rèn các kỹ năng theo yêu cầu của đề án
3.2. Kiến nghị
19
Để thực hiện tốt đề án ”Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ” tôi xin có một số kiến nghị sau:
*Đối với Phòng Giáo dục- Đào tạo:
- Tăng cường mở các lớp tập huấn chuyên đề (Giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ), tổ chức các hoạt động thực hành chuyên đề để cán bộ quản lý và giáo viên
được tham gia học tập, đúc rút kinh nghiệm cho bản thân.
- Tham mưu với ủy ban nhân dân huyện hỗ trợ kinh phí cho các trường
thực hiện đề án.
* Đối với đội ngũ giáo viên
- Xây dựng tinh thần ham học hỏi, tích cực nghiên cứu, đề xuất các biện
pháp để thực hiện đề án đạt hiệu quả cao hơn
- Xây dựng kế hoạch học tập, tự nghiên cứu, bồi dưỡng về chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực sư phạm..., và các lĩnh vực khác để đáp ứng với yêu cầu
phát triển của giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Trên đây là ”Một số biện pháp thực hiện tốt đề án ”Xây dựng trường
học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ” mà tôi đã áp dụng
thực hiện tại đơn vị công tác và đã gặt hái được một số kết quả bước đầu. Rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học cấp trên để bản
sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU
TRƯỞNG
Quảng Xương, ngày 10 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến
Phạm Thị Giang
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-------1. Nghị Quyết số 29- NQ/ TW “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” ( “Tạp chí xây dựng Đảng”,
2013)
2. Giáo trình chuyên đề Giáo dục kỹ năng sống , tác giả: PGS.TS Nguyễn
Thanh Bình- NXB Đại học sư phạm.
3. Bài viết “Giáo dục kỹ năng sống ở trường mầm non” của Thạc sĩ Lưu
Thị Thu Hằng ( Website Trường Đại học Hà Tĩnh)
4. Quyết định 1615 QĐ/UBND về việc thực hiện đề án “Xây dựng trường
học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ của Chủ tịch UBND
huyện Quảng Xương.
5. Công văn số 542/HD-GDĐT ngày14/9/2018 của phòng giáo dục và đào
tạo huyện V/v “Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2018- 2019 bậc học
mầm non”
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Phạm Thị Giang
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó hiệu trưởng- Trường mầm non Quảng Lợi
TT
Tên đề tài SKKN
1.
“Một số biện pháp nâng cao
chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi
làm quen với tác phẩm văn
học”
“Một số biện pháp chuẩn bị
cho trẻ 5 tuổi vào lớp 1”
2.
3.
4.
5.
“Một số trò chơi thực nghiệm
giúp trẻ mẫu giáo khám phá
khoa học”
“Một số biện pháp tổ chức tốt
ngày hội, ngày lễ cho trẻ ở
trường mầm non”
“Một số biện pháp chỉ đạo
giáo viên xây dựng môi
trường học tập cho trẻ trong
trường Mầm non”
Cấp đánh giá
xếp loại
Kết quả
đánh giá
xếp loại
Cấp tỉnh
C
Cấp huyện
B
Cấp tỉnh
B
Cấp tỉnh
C
2016
Cấp huyện
B
2018
-------------------------------------------------
Năm học
đánh giá
xếp loại
2008
2011
2012
MỤC LỤC
MỤC
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.2.1
2.2.2
2.2.3
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4
2.3.5
2.3.6
2.3.7
2.4
3
3.1
3.2
NỘI DUNG
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Thực trạng của vấn đề
Thuận lợi
Khó khăn
Khảo sát thực trạng trước khi thực hiện đề tài
Các biện pháp chỉ đạo thực hiện đề án
Biện pháp 1: Chỉ đạo giáo viên thực hiện nhiệm vụ trọng
tâm của năm học
Biện pháp 2: Lập kế hoạch thực hiện đề án
Biện pháp 3: Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
Biện pháp 4: Chỉ đạo giáo viên lồng ghép giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động ở trường mầm
non
Biện pháp 5: Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá
Biện pháp :. Chỉ đạo xây dựng môi trường giáo dục gắn
với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
Biện pháp 7: Tăng cường công tác tuyên truyền cho các
bậc cha mẹ và cộng đồng
Hiệu quả của sáng kiến
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
TRANG
1
1
2
2
2
2
2
4
4
4
5
6
6
7
9
11
14
15
16
17
19
19
20
MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
“XÂY DỰNG TRƯỜNG HỌC GẮN VỚI THỰC TIỄN VÀ GDKNS CHO TRẺ
Ở TRƯỜNG MẦM NON QUẢNG LỢI
--------------
Các bé lớp 5 tuổi tham quan và giao lưu tại công ty Fruit of the loom
Hình ảnh cô và các cháu học sinh lớp 5 tuổi trong buổi tham quan
tượng đài liệt sĩ xã