Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số kinh nghiệm vận dụng trò chơi trong dạy học phân môn luyện từ và câu cho học sinh lớp 2 trường tiểu học thị trấn nga sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM VẬN DỤNG TRÒ CHƠI TRONG
DẠY HỌC PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU CHO HỌC
SINH LỚP 2 TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN NGA SƠN

Người thực hiện: Thịnh Thị Luyến
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2019


MỤC LỤC
Trang
1. Mở đầu

2

1.1. Lí do chọn đề tài.

2

1.2. Mục đích nghiên cứu.

3



1.3. Đối tượng nghiên cứu.

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu.

3

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1. Cơ sở lí luận của việc dạy và học phân môn LTVC

3

2.2. Thực trạng dạy học của phân môn LTVC lớp 2

4

2.3. Một số kinh nghiệm vận dụng trò chơi nhằm nâng cao giờ dạy
LTVC:
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.
Tài liệu tham khảo
Danh mục sáng kiến kinh nghiệm đã được Hội đồng SKKN
Ngành GD huyện, tỉnh và các cấp cao hơn đánh giá đạt từ loại C

trở lên.

5
18
19
19
20


1. Mở đầu:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển. Cuộc sống vật
chất và tinh thần của người dân ngày một nâng cao. Hiện tại hầu hết các gia đình
đều có các loại máy móc phục phụ cho các nhu cầu sinh hoạt cuộc sống hàng
ngày cũng như nhu cầu vui chơi giải trí như: máy giặt, tủ lạnh, ti vi, điện thoại,
máy tính,… Nhiều gia đình đã mua sắm và thưởng cho con mình các trò chơi
hiện đại, đắt tiền. Các em được tiếp xúc với các máy móc trong gia đình ngày
nay là rất sớm, có nhiều em chưa đi học đã biết sử dụng thành thạo ti vi, điện
thoại,… Điều này đã giúp cho các em tăng tính tò mò khám phá cái mới lạ, tạo
cho các em tăng tính tư duy. Nhưng cũng chính vì sự tập trung vào khám phá và
vui chơi với các đồ dùng sẵn có nên lớp trẻ ngày nay đang có biểu hiện lười đọc
và viết. Qua thời gian giảng dạy và chấm bài kiểm tra định kì của học sinh các
lớp. Nhiều em học sinh khối lớp 4, lớp 5 nhưng vốn từ của các em còn nghèo
nàn, cách dùng từ đặt câu chưa phù hợp.
Môn Tiếng Việt có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình học tập
cũng như giao tiếp của các em. Môn Tiếng Việt giúp các em có các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết; phục phụ cho việc học và giao tiếp; môn Tiếng Việt còn
cung cấp cho các em vốn từ ngữ phong phú để các em sử dụng. Phân môn
Luyện từ và câu (LTVC) là phân môn đóng vai trò quan trọng đối với việc phát
triển ngôn ngữ của học sinh nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng, là

chìa khóa mở ra kho tàng văn hóa trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội của con
người. Hơn nữa, phân môn LTVC giúp học sinh lĩnh hội Tiếng Việt văn hóa, là
công cụ giao tiếp tư duy và học tập. Muốn viết hay, nói giỏi đều phải dùng từ.
Từ là vật liệu để cấu thành ngôn ngữ. Hiểu được nghĩa của từ đã khó còn phải
biết dùng từ như thế nào cho hợp với văn cảnh, đúng ngữ pháp còn khó hơn. Vì
vậy dạy cho học sinh nắm vững kiến thức Tiếng Việt không thể không coi trọng
phân môn LTVC, đặt nền móng cho việc tiếp thu tôt các môn khác ở các lớp
trên.
Đối với học sinh lớp 2, ở lứa tuổi này tâm lí các em còn hồn nhiên, sự tập
trung chú ý chưa cao. “Các em chưa ý thức được rõ giới hạn giữa chơi và học
nên gặp nhiều khó khăn trong khi chuyển trạng thái từ hoạt động chơi sang học,
chưa biết phân bố thời gian giữa các môn học cho phù hợp” [1] Bên cạnh học là
hoạt động chủ đạo thì nhu cầu chơi, nhu cầu được giao tiếp với bạn bè… vẫn tồn
tại và cần thoả mãn. Hiểu được điều đó, trong quá trình dạy học người giáo viên
biết lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đặc điểm
tâm, sinh lí của các em sẽ đem lại hiệu quả cao. Dạy học bằng phương pháp trò
chơi là đưa học sinh đến với các hoạt động vui chơi giải trí có nội dung gắn liền
với bài học. Trò chơi trong học tập có tác dụng giúp học sinh thay đổi động
1


hình, chống mệt mỏi. Tăng cường khả năng thực hành kiến thức của bài học,
phát huy hứng thú tạo thói quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của học sinh…
Xuất phát từ lý do trên tôi đã tìm tòi nghiên cứu, đưa một số trò chơi vào
trong bài giảng của mình nhằm gây hứng thú cho học sinh lớp 2 khi học phân
môn LTVC và đúc kết thành kinh nghiệm giảng dạy của mình “ Kinh nghiệm
vận dụng Phương pháp trò chơi học tập trong dạy học Luyện từ và câu lớp 2”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu nội dung chương trình phân môn luyện từ và câu, hệ thống
thành các dạng bài, lựa chọn một số trò chơi phù hợp vào giảng dạy, nhằm tạo

hứng thú học tập cho học sinh, từ đó nâng cao chất lượng học tập phân môn
LTVC nói riêng, phân môn Tiếng Việt nói chung, giúp học sinh có khả năng sử
dụng Tiếng Việt như một công cụ giao tiếp, học tập.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu thực tế giảng dạy và học tập LTVC khối 2 trường tiểu học Thị
Trấn Nga Sơn.
- Nghiên cứu về các trò chơi, cách vận dụng các trò chơi trong dạy học
LTVC lớp 2
- Học sinh lớp 2D trường Tiểu học Thị Trấn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Đọc các tài liệu liên quan đến đề tài: Sách hướng dẫn giảng dạy TV2, Tạp
chí giáo dục Tiểu học.
- Nghiên cứu chương trình TV lớp 2, tài liệu hướng dẫn về đổi mới nội
dung - phương pháp dạy học ở Tiểu học, Chương trình bồi dưỡng thường xuyên.
- Tài liệu hướng dẫn trò chơi Tiếng Việt lớp 2.
- Nghiên cứu tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng, nghị quyết số 29 của TW về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Dự giờ đồng nghiệp .
- Sinh hoạt chuyên môn
- Khảo sát chất lượng học sinh.
1.4.3. Phương pháp thực nghiệm:
- Tiến hành dạy thực nghiệm, đối chứng, trao đổi rút kinh nghiệm, đánh giá việc
vận dụng đổi mới nội dung - phương pháp dạy học vào lớp 2D trường Tiểu học Thị
Trấn
- Quan sát việc học tập LTVC của học sinh.
- Thống kê chất lượng thông qua bài khảo sát.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của việc dạy và học phân môn LTVC.

2


2.1.1. Vị trí, vai trò của phân môn luyện từ và câu
Ở lớp 2, phân môn luyện từ và câu là một môn học giữ vị trí chủ đạo
trong chương trình Tiếng Việt mới của lớp 2. Ngay từ đầu của hoạt động học tập
ở trường, học sinh đã được làm quen với lí thuyết của từ và câu. Sau đó, kiến
thức được mở rộng thêm và nâng cao dần để phục vụ cho nhu cầu ngày một cao
trong cuộc sống của các em cũng như trong lao động, học tập và giao tiếp.
Luyện từ và câu là môn học nền tảng để học sinh học các môn học khác
trong tất cả các cấp học sau, cũng như trong lao động và giao tiếp trong cuộc
sống, bởi nó giúp học sinh có kĩ năng nói đúng. Từ đó, sử dụng Tiếng Việt một
cách thành thạo làm công cụ tư duy để học tập giao tiếp và lao động.
2.1.2. Trò chơi học tập:
Trò chơi học tập là hình thức học tập thông qua trò chơi. Trò chơi học tập
không chỉ nhằm chơi vui giải trí mà còn nhằm góp phần củng cố tri thức, kỹ
năng học tập của các em. Với các đặc điểm riêng, trò chơi mở ra cho học sinh
tiểu học một khả năng phát triển lớn. Các em được tiếp cận hoàn cảnh chơi,
nhiệm vụ chơi, hoạt động chơi … từ đó các em lĩnh hội các tri thức sống động
về thực tế cuộc sống xung quanh và tri thức khoa học. Bởi “chơi” là được sống
hết mình và khác với hoạt động học. Các thành tích học tập cơ bản phụ thuộc
vào bản thân các em còn sự thắng thua trong trò chơi mang tính ngẫu nhiên. Các
em tham gia chơi với hy vọng chiến thắng và để khẳng định chính mình. Bên
cạnh đó trò chơi tạo cho bản thân các em sự thư giãn thoải mái, vui vẻ. [2]
Áp dụng phương pháp trò chơi vào dạy phân môn LTVC là đưa học sinh
vào hoạt động vận dụng. Học sinh phải thể hiện chủ động, sáng tạo để phát hiện
điều cần học. Nó làm bớt đi sự căng thẳng khô khan không còn sự tẻ nhạt; đem
đến sự sôi nổi, ham mê, hấp dẫn, say sưa tìm hiểu khám phá và lĩnh hội tri thức
trong mỗi giờ học. Thành công của việc sử dụng trò chơi trong học tập là góp
phần đạt được mục tiêu giờ học. Bởi vậy để đảm bảo cho sự thành công việc sử

dụng trò chơi thì nội dung trò chơi phải gắn với mục tiêu bài học, luật chơi rõ
ràng đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, điều kiện - phương tiện tổ chức trò chơi
phong phú, chơi đúng lúc, đúng chỗ, đồng thời phải kích thích sự thi đua giành
phần thắng giữa các đội tham gia. [3]
2. 2. Thực trạng việc dạy và học của phân môn LTVC lớp 2:
2. 2.1. Việc dạy của giáo viên.
Trường Tiểu học Thị Trấn là trường luôn dẫn đầu về phong trào dạy tốt,
học tốt trong khối tiểu học của huyện Nga Sơn. Trường có đội ngũ giáo viên
vững về chuyên môn, nghiệp vụ, 100% giáo viên của nhà trường có trình độ trên
chuẩn. Đặc biệt, các đồng chí khối 2 rất tâm huyết với học sinh, luôn trăn trở tìm
ra phương pháp dạy học linh hoạt để lôi cuốn được học sinh vào học tập đạt kết
quả cao nhất.
3


Trong thực tế giảng dạy, qua thao giảng, kiến tập của giáo viên trong khối
2 (qua một số tiết LTVC) bản thân tôi và đồng nghiệp đã áp dụng một số phương
pháp dạy học tích cực vào dạy học như phương pháp trò chơi được coi trọng
nhưng vẫn còn một số tồn tại:
- Tài liệu nói về hình thức tổ chức trò chơi học tập còn hạn chế, một số tài
liệu có đưa ra các hình thức trò chơi phong phú song chưa sát thực, không mang
tính khả thi.
- Trò chơi chưa được chuẩn bị chu đáo, chưa phù hợp với đối tượng học
sinh (về thẩm mỹ và nội dung)
- Luật chơi chưa rõ ràng, rườm rà. Cách tổ chức trò chơi còn mang tính
hình thức
- Một số giáo viên lạm dụng sử dụng trò chơi nhiều, thời gian kéo dài
trong tiết học làm ảnh hưởng đến mạch kiến thức.
2. 2.2. Việc học của học sinh.
Trường tiểu học Thị Trấn là một trong những trường chuẩn quốc gia mức

độ 2 tốp đàu tiên của tỉnh Thanh Hóa. Học sinh Trường Tiểu học Thị Trấn vốn
có truyền thống hiếu học và có bề dày trong thành tích về học tập. Học sinh chủ
yếu là con gia đình cán bộ, được các bậc phụ huynh quan tâm, tạo điều kiện về
vật chất, tinh thần cho các em học tập tốt. Vì vậy đại đa số học sinh của nhà
trường tự tin, giao tiếp tốt, chất lượng học tập khả quan.
Bên cạnh những học sinh chăm học, vẫn còn một số em đang còn rất thờ ơ
với việc học. Học sinh lớp 2 học môn Tiếng Việt phải học nhiều phân môn. Các
em rất bỡ ngỡ khi học phân môn Luyện từ và câu và Tập làm văn. Đây là một
phân môn mới lạ với các em từ lớp một lên, có một số em bố mẹ cho đặt câu,
viết đoạn ở nhà là các em tỏ ra lo sợ và mệt nhọc (Phụ huynh em Phúc An,
Thành Lộc, Trương Đăng Tuấn phản ánh lại). Vì vậy, kĩ năng giao tiếp, vốn từ
ngữ, kiến thức về câu của các em rất hạn chế, điều này ảnh hưởng lớn đến chất
lượng học tập của các em nói chung.
- Một số phụ huynh chưa có phương pháp để hỗ trợ cho các em tiếp thu,
củng cố kiến thức môn Tiếng Việt. Vì vậy nói đến học Tiếng Việt là các em thấy
sợ, lo lắng, không muốn học, từ đó chất lượng học môn Tiếng Việt của học sinh
không cao.
2. 2.3. Khảo sát hứng thú của học sinh khi học phân môn luyện từ và câu.
Sau 2 tuần nhận lớp và giảng dạy trực tiếp tại lớp 2D hai tiết LTVC, tôi
nhận thấy rằng, số học sinh nắm được bài, tích cực xây dựng bài và hoàn thành
bài tập hạn chế. Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh và thu được kết quả sau:
Kết quả đạt được:

4


Kếtquả
Số bài
28


Thích học và
làm bài đầy đủ
SL
%
6
21,4

Bình thường
SL
16

%
57,2

Không thích
SL
6

%
21,4

Với thực trạng trên, cùng với những băn khoăn, trăn trở của mình tôi mạnh
dạn tìm hiểu nội dung chương trình, tài liệu hướng dẫn, thực tế kinh nghiệm
giảng dạy trên lớp, trao đổi cùng đồng nghiệp để lựa chọn một số trò chơi cho
học sinh phù hợp với từng kiểu bài, từng tiết dạy, từng đối tượng học sinh trong
lớp nhằm tạo hứng thú học tập cho các em khi học LTVC , từ đó nâng cao chất
lượng môn Tiếng Việt nói riêng và chất lượng giáo dục nói riêng.
2. 3. Một số kinh nghiệm vận dụng trò chơi nhằm nâng cao giờ dạy LTVC:
Để gây hứng thú vào giờ dạy LTVC chính là việc giáo viên khơi dậy hứng
thú, niềm say mê học tập, tạo không khí sôi nổi cho một giờ học bằng việc áp

dụng phương pháp trò chơi. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải xác định rõ yêu cầu
đạt. Trên cơ sở đó xác định cần lựa chọn trò chơi gì? đưa trò chơi vào lúc nào?
bài tập nào? Cách tổ chức ra sao? Nếu giáo viên không tổ chức tốt thì trò chơi
không gặt hái được kết quả như mong muốn mà còn bị phản tác dụng gây sự mất
trật tự trong giờ học. Chính vì vậy việc giảng dạy một tiết LTVC ở lớp 2 được
tiến hành ra sao để h/s chủ động, hào hứng lĩnh hội tri thức, đó là điều tôi đã
nghiên cứu, nhận biết và tìm hiểu được một số kinh nghiệm về vận dụng một số
trò chơi vào tiết dạy LTVC ở lớp 2:

Tập thể học sinh lớp 2D trường Tiểu học Thị Trấn

2.3.1. Giáo viên nghiên cứu kĩ chương trình, phân ra các dạng bài
trong phân môn Luyện từ và câu:
5


Nắm vững nội dung, chương trình giúp giáo viên có cái nhìn tổng quát và
xác định rõ được mục tiêu cần đạt của môn học. Khác với SGK chương trình cũ,
LTVC lớp 2 chương trình mới không có bài học lí thuyết riêng. Các kiến thức từ
ngữ và ngữ pháp được thể hiện qua thực hành. Thông quan hệ thống bài tập,
giáo viên giúp học sinh hệ thống, khái quát hóa kiến thức trong từng bài.
Vì vậy ngay từ đầu năm học, tôi đã nghiên cứu kĩ chương trình phân môn
LTVC lớp 2 và phân chia thành các dạng bài cụ thể như sau:

a. Dạng bài lí thuyết về từ.
Ở lớp 2, có những bài dạy về lí thuyết từ như :Từ và câu, Từ ngữ chỉ
sự vật (Danh từ), Từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái (Động từ), Từ ngữ chỉ
đặc điểm, tình chất (Tính từ) …. Những bài học này là tổng kết những kiến
thức được rút ra từ những bài tập học sinh được làm. Khác với chương
trình lớp 2 cũ, chương trình lớp 2 mới học sinh được làm bài tập sau đó

mới rút ra kiến thức trọng tâm của bài.
Chương trình LTVC lớp 2 gồm các tiết: Tuần 1,3,4,7,8,15,16.
b. Dạng bài mở rộng vốn từ :
Cơ sở của việc hệ thống hóa vốn từ là sự tồn tại của từ trong ý thức
con người, từ tồn tại trong đầu óc con người không phải là những yếu tố
rời rạc mà là một hệ thống. Chúng được sắp xếp theo một hệ thống liên
tưởng nhất định giữa các từ này với từ khác có một nét gì chung khiến ta
nhớ đến từ kia nên từ được tích lũy nhanh chóng hơn. Từ mới có thể được
sử dụng trong lời nói và khi sử dụng nhờ hệ thống liên tưởng, học sinh
nhanh chóng huy động lựa chọn từ phù hợp với yêu cầu giao tiếp.
Với mục đích tích lũy nhanh chóng vốn từ và tạo điều kiện để sử dụng
từ một cách dễ dàng, giáo viên đưa ra những từ theo một hệ thống và đồng
thời xây dựng một bài tập hệ thống hóa vốn từ trong dạy từ. Ở lớp 2, các
em được học từ theo chủ đề, cứ 2 tuần các em được học một chủ đề: từ ngữ
về các môn học, vè thời tiết,về cây cối, chim chóc...
Chương trình LTVC lớp 2 gồm các tiết: Tuần 2, 6, 7, 19, 20, 21, 22,
23, 24, 25, 26, 28, 29, 30, 31, 33, 34.
c. Dạng bài tích cực hóa vốn từ:
Dạng bài tập này không chỉ giúp học sinh nắm được nghĩa mà còn làm
rõ khả năng kết hợp từ. Những bài tập được sử dụng ở lớp 2 là bài tập điền
từ, bài tập đặt câu, bài tập tạo từ….
Chương trình LTVC lớp 2 gồm các tiết: Tuần 10,11,13,12,14,32,34.
d. Dạng bài khái niệm câu:
Quá trình hình thành khái niệm câu có thể chỉ ra theo các bước sau :
6


Đưa ngữ liệu và phân tích ngữ liệu với mục đích làm rõ những dấu
hiệu bản chất của khái niệm câu.
Khái quát hóa dấu hiệu thiết lập quan hệ giữa các dấu hiệu của khái

niệm đưa thuật ngữ (học sinh nắm thao tác so sánh và tổng hợp)
Để chuẩn bị dạy khái niệm câu giáo viên cần đặt trong hệ thống
chương trình để thấy rõ vị trí của nó đồng thời phải nắm chắc nội dung
khái niệm. Đây chính là nội dung mà giáo viên cần đưa đến cho học sinh.
Chương trình LTVC lớp 2 gồm các tiết: Tuần 3,6,13,14,15,16
2.3. 2. Xác định mục tiêu của trò chơi, xây dựng và thiết kế trò chơi:
Trong thực tế dạy học, giáo viên đã sử dụng trò chơi học tập chủ yếu ở
phần củng cố bài. Trong quá trình sử dụng trò chơi đôi khi giáo viên chưa xác
định rõ mục tiêu của trò chơi, chưa biết cách xây dựng và thiết kế trò chơi nên
hiệu quả của trò chơi học tập chưa cao.
Việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ
năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài
học mới.Và để trò chơi học tập thực sự mang ý nghĩa “ chơi mà học” khi sử
dụng trò chơi học tập người giáo viên cần xác định rõ mục tiêu của trò chơi:
- Sử dụng trò chơi học tập để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc củng
cố kiến thức, kỹ năng đã học.
- Phát triển tư duy, rèn các kĩ năng: giao tiếp, xử lí tình huống; ứng phó,
thao tác, phản xạ nhanh.
- Giáo dục tinh thần đoàn kết, hợp tác, chia sẻ; tính trung thực trong thi
đua, học tập. Tạo môi trường và không khí học tập vui tươi, thân thiện.
Bên cạnh đó , việc xây dựng và thiết kế trò chơi học tập phải đảm bảo cấu
trúc và được tiến hành theo đúng quy trình các bước:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi.
Bước 2: Hướng dẫn chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau:
- Tổ chức người tham gia trò chơi: Số người tham gia, số đội tham gia
(mấy đội chơi), quản trò, trọng tài.
- Các dụng cụ dùng để chơi (giấy khổ to, quân bài, thẻ từ, cờ…)
- Cách chơi: Từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội chơi, thời gian
chơi, những điều người chơi không được làm…
- Cách xác nhận kết quả và cách tính điểm chơi, cách giải của cuộc chơi.

(nếu có)
Bước 3: Làm mẫu
Bước 4: Thực hiện trò chơi
Bước 4: Đánh giá - Nhận xét sau cuộc chơi.
Bước này bao gồm những việc làm sau:

7


- Giáo viên hoặc trọng tài là HS nhận xét về thái độ tham gia trò chơi của
từng đội, những việc làm chưa tốt của các đội để rút kinh nghiệm.
+ Trọng tài công bố kết quả chơi của từng đội, cá nhân và trao phần thưởng
cho đội đoạt giải.
+ Một số học sinh nêu kiến thức, kỹ năng trong bài học mà trò chơi đã thể hiện.
Nhiều giáo viên đã quan niệm trò chơi học tập chỉ để giải trí, thay đổi không
khí nên thường tổ chức qua loa, ngẫu hứng mà không thực hiện tuân thủ các bước
dẫn đến trò chơi không đảm bảo mục tiêu, học sinh không nắm rõ luật chơi, khi thực
hiện thì lúng túng, mất trật tự, trọng tài đánh giá không đúng…
2.3.3. Vận dụng các trò chơi vào trong từng dạng bài cụ thể:
Mỗi một dạng bài LTVC có mục tiêu riêng và cách khai thác riêng. Mỗi trò
chơi học tập có mục đích, vai trò và hiệu quả nhất định.
Việc lựa chọn các trò chơi học tập trong môn Luyện từ và câu phải đáp ứng
được mục tiêu của bài học. Các trò chơi phải đặt ra cho học sinh các nhiệm vụ
học tập tương ứng với nội dung dạy học. Mỗi trò chơi cần có một vị trí đóng góp
cụ thể trong tiến trình thực hiện mục đích dạy học. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu
dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 2, hệ thống các trò chơi phải được lựa
chọn sao cho đa dạng về chủ đề, phong phú về cách chơi. Dựa vào hình thức,
cách chơi và luật chơi của trò chơi có thể thay thế các trò chơi một cách linh
hoạt dựa theo nội dung từng bài dạy mà giáo viên tổ chức trò chơi phù hợp với
đối tượng học sinh của mình. Để từ đó các em cảm thấy : “Mỗi ngày đến

trường là một ngày vui”.Vì vậy khi lựa chọn trò chơi, giáo viên cần lưu ý:
- Lựa chọn trò chơi phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, vừa sức với học
sinh.
- Lựa chọn thời điểm thích hợp khi tổ chức các trò chơi, học tập cho học
sinh lớp.
- Các thời điểm có thể tổ chức trò chơi khi dạy phân môn Luyện từ và câu là:
+ Hình thành kiến thức, kỹ năng mới .
+ Củng cố kiến thức, kỹ năng đã học và mở rộng vốn từ cho các em.
Vì vậy, giáo viên cần căn cứ vào dạng bài cụ thể để lựa chọn trò chơi chủ đạo.

a. Dạng bài lí thuyết về từ.
Đối với dạng bài lí thuyết về từ, thông thường giáo viên cho học sinh
quan sát tranh để nêu từ hoặc thảo luận nhóm (nhóm đôi, hoặc nhóm 4) tìm
từ và viết vào bảng nhóm. Sau đó cho đại diện các nhóm trưng kết quả và
đọc lên những từ đã tìm được, nhóm khác nhận xét và bổ sung thêm từ còn
thiếu. Với cách dạy này, tôi thấy hầu như tất cả học sinh đã tìm được đúng
từ theo yêu cầu của bài tập. Song vẫn còn một số học sinh trong nhóm
không chịu thảo luận cùng bạn mà chỉ chờ bạn nêu kết quả, cô giáo chữa

8


bài rồi viết vào vở. Vậy làm thế nào để tất cả học sinh đều cùng nhau tham
gia vào hoạt động học tập?
Tôi đã nghiên cứu kỹ nội dung bài, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của lớp, với dạng bài này tôi
đã áp dụng trò chơi: “Ghép nhanh tên cho sự vật” , “tìm nhanh các từ cùng
chủ đề” .....
a.1.Trò chơi: Ghép nhanh tên cho sự vật:
- Mục đích: + Ghép nhanh từ với đồ vật, hình vẽ tương ứng

+ Có biểu tượng về nghĩa của từ
- Chuẩn bị: + Tranh ảnh, đồ vật thật theo yêu cầu bài: 3 bộ
+ Thẻ ghi tên các tranh ảnh, đồ vật thật: 3 bộ.
- Cách chơi:
+ 2- 3 nhóm chơi/lần (mỗi nhóm 4 - 8 h/s tuỳ vào số lượng tranh ảnh có
trong bài).
+ Các tranh (ảnh, đồ vật) xếp thành 2- 3 nhóm
+ Luật chơi: Khi giáo viên nêu yêu cầu: Ghép nhanh tên cho các sự vật thì
h/s cùng tiếp sức thi đua gắn thẻ vào đồ vật (ảnh, tranh) tương ứng. Nếu nhóm
nào gắn đúng, nhanh nhất là nhóm thắng cuộc.
- Trò chơi được vận dụng ở các bài
Bài 1 (Tuần1 - trang 8). Chọn tên gọi cho mỗi người, mỗi vật, mỗi việc
được vẽ dưới đây:(học sinh, nhà, xe đạp, múa, trường, chạy, hoa hồng, cô giáo)
Mẫu 1: 1 trường học, 5 hoa hồng
Bài 1 (tuần 3 - trang 26). Tìm những từ chỉ sự vật (người, đồ vật, con vật,
cây cối …) được vẽ dưới đây.
Bài 1 (Tuần 17 trang 142). Chọn cho mỗi con vật dưới đây mỗi từ chỉ đúng
đặc điểm của nó: nhanh, chậm, khoẻ, trung thành.
Bài 1 (Tuần 22 - trang 35). Nói tên các loài chim trong những tranh sau:
(đại bàng, cú mèo, chim sẻ, sáo sậu, cò, chào mào, vẹt).
Bài 1 (Tuần 24 - trang 55). Chọn cho mỗi con vật trong tranh vẽ bên một từ
chỉ đúng đặc điểm của chúng: tò mò, nhút nhát, dữ tợn, tinh ranh, hiền lành,
nhanh nhẹn.
* Ví dụ: Khi dạy bài 1, tuần 3- Trang 26
- Chuẩn bị tranh ảnh ( đã tô màu) theo nội dung bài tập 1 ba bộ.
- Luật chơi: Giáo viên gắn 3 tranh đã chuẩn bị lên bảng và lớp đếm một,
hai, ba thì em thứ nhất của ba nhóm lên viết từ chỉ sự vật vào tranh ảnh phù hợp,
( Nếu em nào viết sai thì những bạn sau không được sửa lại), sau đó tiếp đến học
sinh thứ hai và đến khi hết thời gian quy định.


9


- Cách chơi: Cho ba nhóm, mỗi nhóm có 4 học sinh tham gia chơi tiếp
sức, thi đua viết từ chỉ sự vật vào các tranh ảnh, (với thời gian 2 phút), ban giám
khảo là số học sinh còn lại và cô giáo.
- Đánh giá trò chơi: Nhóm trưởng của một nhóm đọc kết quả từng hình
theo số thứ tự và từ chỉ sự vật của hình đó như: Hình 1 – bộ đội; hình 2- công
nhân; hình 3 – ô tô; hình 4 – máy bay; hình 5 – voi; hình 6 – trâu; hình 7 – cây
dừa; hình 8 – cây mía, ban giám khảo nhận xét ghi đúng hoặc sai và thời gian
của từng nhóm để bình chọn nhóm nhất, nhì, ba.
Kết quả của nhóm 1 và nhóm 2 các em đều viết đúng được 8 từ vào 8 tranh
ảnh phù hợp của bài tập 1. Riêng nhóm thứ ba, các tìm từ chỉ sự vật ở hình 2 là
nông dân, ban giám khảo đánh giá là sai, tôi đã hướng dẫn học nhận xét: Người
nông dân ngày nay cũng đã sử dụng máy móc trong sản xuất rất nhiều để tăng
năng xuất và tiết kiệm được thời gian nên vẫn chấp nhận kết quả đúng cho tổ ba
và khẳng định người công nhân chủ yếu trong các công trường nhà máy thì sử
các loại máy móc để sản xuất.
* Hiệu quả: Với cách tổ chức trò chơi: Ghép nhanh tên cho sự vật, tôi
thấy tất cả học sinh trong lớp đều tích cực học tập tìm đúng các từ phù hợp với
hình ảnh đã cho. Tôi cho một học sinh đọc to lại cả 8 từ các em vừa viết ở bài
tập 1 và chốt: các từ bạn vừa đọc đó là từ chỉ sự vật. Tôi hỏi:
Hỏi:Từ chỉ sự vật thường là những từ chỉ gì ?
Hầu hết học sinh đều trả lời: Từ chỉ sự vật là những từ chỉ người, đồ vật, cây
cối, con vật... và các em đã tìm thêm được nhiều từ chỉ sự vật khác. Như vậy, các
em đã nắm vững về từ chỉ sự vật và các em sẽ vận dụng để làm tốt bài tập 2 .

Các nhóm học sinh đang tham gia trò chơi: Ghép nhanh tên cho sự vật:
a.2. Trò chơi: Tìm nhanh các từ cùng chủ đề:
- Mục đích: Mở rộng vốn từ phát huy óc liên tưởng, so sánh và rèn tác

phong nhanh nhẹn, luyện trí thông minh.
10


- Cách chơi:
+ Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm (A - B) (h/s bằng nhau).
+ Sau khi giải thích nghĩa từ dùng để gọi tên chủ đề (giáo viên hoặc h/s giải
thích), giáo viên nên yêu cầu: Tìm nhanh các từ cùng chủ đề.
+ Luật chơi: Giáo viên chỉ định một học sinh ở nhóm A nói được từ theo
yêu cầu. Rồi h/s A1 chỉ 1 bạn bất kỳ B1, h/s B1 nói nhanh từ tìm được rồi chỉ
bất kỳ A2 nêu tiếp … Cứ như vậy cho tới hết lớp.
Trường hợp bạn bị chỉ định không nêu được từ theo yêu cầu hoặc nói từ
trùng lặp sẽ nói “chuyển” để bạn khác cùng nhóm (đứng cạnh, tiếp sức, mỗi lần
như vậy nhóm nào có h/s nói “chuyển” thì nhóm đó bị (trừ) 1 điểm phạt, nhóm
nào nhiều điểm phạt là nhóm bị thua.

b. Dạng bài mở rộng vốn từ :
Khi dạy kiểu bài mở rộng vốn từ, thông thường giáo viên hướng dẫn cho
học sinh làm từng bài tập rồi chữa bài, chốt kết quả và cuối cùng là học sinh
chữa bài vào vở bài tập. Với cách dạy này thì học sinh tìm được ít các câu thành
ngữ nói về các
con vật, tôi đã áp dụng trò chơi:
b.1.Thi tìm nhanh tục ngữ, thành ngữ về loài vật”.
Mục đích:
- Làm giàu vốn thành ngữ, tục ngữ có tên loài vật quen thuộc
cho học sinh.
- Giúp học sinh nắm vững đặc điểm của các con vật.
- Rèn trí nhớ, năng lực liên tưởng nhanh (nhìn tranh về loài vật nghĩ ngay
đến thành ngữ, tục ngữ có tên loài vật đó)
Chuẩn bị: Tranh ảnh các con vật (Cắt rời từng tranh nhỏ, mỗi tranh một

con vật) gấp lại làm phiếu bắt thăm, hoa màu xanh và màu đỏ.
Cách tiến hành.
- Chơi theo đội hoặc chơi cá nhân
Bắt thăm 1 phiếu bất kỳ, mở phiếu ra xem tranh con vật và đọc ngay
thành ngữ, có tên von vật ấy.
* Ví dụ: Bắt được thăm có tranh con thỏ, có thể đọc: Nhanh như thỏ, nhát
như thỏ đế,…
- Trọng tài và lớp chứng kiến, đánh giá theo cách sau:
Đọc nhanh, đúng thành ngữ, tục ngữ có tên con vật trong tranh được tặng
một bông hoa màu đỏ. Nếu đọc sai hoặc đếm từ 1 đến 10 vẫn không đọc được
thì không được tặng hoa. Nếu đếm từ 1 đến 5 mới đọc được thì tặng hoa màu
xanh.
Mỗi lượt người chơi có thể bắt thăm từ 2, 3 lần. Khi kết thúc cộng số hoa
của từng người trong nhóm để xếp giải nhất, nhì, ba.
11


*Ví dụ: Khi dạy bài tập 2 (Tuần 24,tr.55), tôi đã sưu tầm tranh ảnh một số
con vật gần gũi với các em, tổ chức cho ba nhóm, mỗi nhóm 4 em tham gia chơi,
lần lượt từng cá nhân trong nhóm bắt thăm và nêu các câu tục ngữ hoặc thành
ngữ nói về con vật trong tranh. Với cách làm này, tôi thấy hầu hết các em nêu
được đúng các câu thành ngữ, tục ngữ nói về các con vật như:
- Chó treo, mèo đậy; Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng; Chó ngáp phải
ruồi; Chó chê mèo lắm lông; …
- Trâu chậm uống nước đục; Trâu buộc ghét trâu ăn; Ruộng sâu trâu nái
không bằng con gái đầu lòng,
- Nhanh như sóc, …
- Chậm như rùa.
- Ngựa non háu đá; Ngựa quen đường cũ, …
- Đen như quạ; quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; …

- Hót như khướu
- Học như cuốc kêu
- Nói như vẹt
- Hôi như cú …
- Không ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau;
- Gà què ăn quẩn cối xay; Chữ như gà bới…

Nhóm HS tham gia trò chơi: Thi tìm nhanh câu tục ngữ, thành ngữ về loài vật
*Trò chơi này có thể áp dụng dạy cho các tiết học LTVC tuần 22, 24.
Như vậy, cùng một dạng bài: mở rộng vốn từ, chúng ta có thể dụng bằng
nhiều phương pháp và hình thức tổ chức khác dạy học khác nhau. Người giáo
viên cần đọc kĩ nội dung bài dạy để lựa chọn các hình thức và các trò chơi cho
phù hợp với nội dung bài .
12


b.2. Trò chơi: “ Xếp từ theo nhóm”
* Mục đích:
- Nhận biết nghĩa của từ bằng cách tìm ra những điểm giống nhau của sự
vật mà từ gọi tên.
- Rèn trí thông minh, khả năng phân tích, khái quát nhanh của đối tượng.
*Chuẩn bị :
- Làm các thẻ quân bài trên mỗi thẻ ghi một từ cần phân nhóm.
VD: Chia các từ sau thành 2 nhóm:
+ Ngô, khoai, bắp cải, bí.
+ Ngô, lúa, su su, sắn, mướp
- Số lượng người chơi là 2 nhóm chơi; mỗi người chơi đều có bút để đánh
dấu.
*Cách tiến hành :
1. Giáo viên phát cho mỗi người (nhóm) chơi một bộ bài hoặc một bảng từ,

nêu luật chơi. VD: Dựa vào những đặc điểm của các loại cây được gọi tên trong
bộ bài (bảng từ) hãy sắp xếp các từ trong bộ bài thành 2; 4 nhóm.
2. Mỗi người (nhóm) chơi cầm bảng từ hoặc bày các quân bài ra, đọc một
lượt các từ rồi dựa đặc điểm giống nhau của sự vật, hành động….(cũng là nghĩa
của từ ghi trong bảng hoặc trong các quân bài); Xếp các quân bài theo các nhóm
hoặc dùng bút đánh dấu các từ trong bảng theo nhóm (1; 2)
3. Hết thời gian quy định (khoảng 3 phút) cá nhân (nhóm) nào phân loại
được đúng và nhanh sẽ được được khen trước lớp.
b.3. Trò chơi: “ Tìm nhanh từ đồng nghĩa”
*.Mục đích:
- Nhận biết nhanh các từ ngữ đồng nghĩa, làm giàu vốn từ của học sinh
- Luyện trí thông minh, nhanh mắt, nhanh, tay.
*. Chuẩn bị:
- Từ 2 đến 4 bộ quân bài có nội dung như nhau nhưng khác màu để khỏi bị
lẫn (xanh, đỏ, vàng…) tương tự quân bài trong cỗ tam cúc. Mỗi bộ có 10 hoặc
12 quân bài đã ghi sẵn các từ.
- Một bộ quân bài dành cho người cầm cái (trọng tài) khác màu với các bộ
quân bài ủa người chơi. Trên mỗi quân bài này có ghi từng từ đồng nghĩa với từ
được ghi trên quân bài của nguời chơi.
- Mỗi quân bài này đều được ghi từ ở cả hai đầu để người chơi dễ nhìn khi
cầm bài trên tay
* Cách tiến hành.
Từ hai đến 4 người chơi. Mỗi người có 1 bộ quân bài như nhau (10, 12
quân)

13


- Trọng tài lật 1 quân trong bộ bài của mình (có từ đồng nghĩa với từ trong
bộ bài của nguời chơi).

- Những nguời chơi phải chọn thật nhanh quân bài của mình có từ đồng
nghĩa với quân bài của trọng tài để đánh ra.
- Trọng tài công nhận quân bài đánh ra là từ đồng nghĩa thì người đánh
quân bài đó sẽ được ''ăn''; nếu sai thì người đánh quân bài đúng tiếp theo sẽ
được ''ăn''.
Trường hợp 2, 3 người cùng ra quân bài đúng thì cùng được ''ăn''.
- Đánh hết bộ quân bài, ai có số lượng quân bài được ''ăn'' nhiều nhất sẽ
thắng cuộc. Như vậy, người thắng là người nhận ra nhanh, đúng từ đồng nghĩa.

c. Dạng bài tích cực hóa vốn từ:
Dạng bài tập này không chỉ giúp học sinh nắm được nghĩa mà còn làm
rõ khả năng kết hợp từ. Những bài tập được sử dụng ở lớp 2 là bài tập điền
từ, bài tập đặt câu, bài tập tạo từ….
Ví dụ : Bài “ Từ ngữ về tình cảm” (tuần 12)
Thông thường, khi dạy bài tập 1 của tuần 12, giáo viên hướng dẫn
các em làm:
Dùng mũi tên () nối các tiếng sau thành những từ có hai tiếng rồi
ghi các từ tìm được vào dòng dưới.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh bằng cách: Hướng dẫn các em tạo các
từ theo từng tiếng dưới dạng sơ đồ cây. Như tiếng“ yêu” ta có các từ: yêu
thương, yêu quý, yêu mến..tương tự như vậy học sinh sẽ tạo các từ tiếp
theo. Nhưng nhiều em không biết nối, nên khi đọc kết quả các em chỉ nêu
được khoảng 5, 6 từ.
Tôi đã nghiên cứu nội dung của bài và đã lựa chọn trò chơi:
c.1.Thi ghép tiếng thành từ.
Tôi đã áp dụng trò chơi như sau:
* Chuẩn bị :
- Dựa theo bài tập 1, tiết luyện từ và câu tuần 12 (sách giáo khoa TV 2 tập
1- Tr.99) Giáo viên làm các bộ quân bài ghi tiếng (đủ cho số nhóm học sinh
tham gia thi); mỗi bộ quân bài có kích thước khoảng 5cm x 15cm . Mỗi bộ gồm

24 quân ghi các tiếng sau: yêu (8 quân); thương (4 quân); quý (3 quân); mến (6
quân); kính (3 quân).
- Băng dính để ghép 2 quân bài ghi tiếng thành một từ (2 tiếng).
* Cách tiến hành:
- Căn cứ vào số bộ quân bài đã chuẩn bị, giáo viên lập các nhóm thi ghép
tiếng thành từ (mỗi nhóm khoảng 4; 5 học sinh ); Cử nhóm trưởng điều hành và
vào ban giám khảo.
14


Ví dụ : Có 2 bộ quân bài - lập 2 nhóm thi - cử 2 nhóm trưởng tham gia vào
ban giám khảo cùng với giáo viên .
- Giáo viên nêu yêu cầu:
+ Mỗi nhóm có 1 bộ quân bài ghi các tiếng dùng để ghép thành các từ có 2
tiếng, các nhóm dùng bộ quân bài để ghép từ (xếp lên mặt bàn, hoặc dùng băng
dính để ghép 2 quân bài ghi tiếng lại để thành 1 từ).
+ Sau khoảng 5 phút, các nhóm dừng lại; ban giám khảo (Giáo viên cùng
các nhóm trưởng) lần lượt đi đến từng nhóm để ghi kết quả và cho điểm (cứ xếp
được 1 từ đúng, được 1 bông hoa màu vàng).
- Giáo viên trao các bộ bài cho các nhóm thi ghép từ; phát lệnh ''bắt đầu''
cho các nhóm làm bài. Ban giám khảo đánh giá kết quả ghép từ theo nội dung
bộ bài đã chuẩn bị (mục B) như sau:
+ Ghép đúng, đủ 12 từ (mỗi từ có 2 tiếng) VD: Yêu thương, thương yêu,
yêu mến, mến yêu, kính yêu, yêu kính, yêu quý, quý yêu, thương mến, mến
thương, quý mến, kính mến.
- Ghép đúng mỗi từ được 1 bông hoa màu vàng; đúng cả 12 từ được một
bông hoa màu đỏ.
- Dựa vào số bông hoa, ban giám khảo xếp giải nhất, nhì, ba, (hoặc đồng
giải nhất, nhì, ba)
+Kết quả: Đại diện hai nhóm ghép từ, nhóm một xếp được 12 từ, nhóm hai

xếp được 11 từ. ( So với kết quả để các em tự ghép từ với các tiếng đã cho thì
các em ghép được nhiều hơn khoảng 4, 5 từ)
+ Tác dụng của trò chơi: Mở rộng vốn từ bằng cách ghép tiếng; Rèn khả
năng nhận ra từ, rèn tác phong nhanh nhẹn.
Trò chơi này có thể áp dụng cho: Bài tập 1( Tuần 25- tr 64)

Nhóm học sinh đang tham gia trò chơi: Thảo luận nhóm, ghép từ.
15


c.2. Trò chơi: Phân nhanh các nhóm từ
*Mục đích: + Nhận biết nghĩa của từ bằng cách tìm ra các đặc điểm giống
nhau của sự vật mà từ đó gọi tên.
+ Rèn trí thông minh, khả năng phân tích.
* Chuẩn bị:
+ Viết sẵn các từ trong bài tập lên bảng
+ Hoa có dán sẵn băng dính (Số lượng tuỳ theo số từ có trong bài và số hoa
phải có 2 màu khác nhau, gấp 2 lần số từ).
+ Cách chơi: Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm và nêu yêu cầu: Phân nhanh
các nhóm từ.
+ Luật chơi: Trong khoảng thời gian quy định (có thể là 2 phút), học sinh
của các nhóm tiếp sức nhau dán hoa dưới các từ giáo viên đã viết sẵn lên bảng,
dán hoa màu xanh vào nhóm 1, dán hoa màu đỏ vào nhóm 2. Nhóm nào đúng và
nhanh hơn là thắng cuộc.
d. Dạng bài khái niệm câu:
Dạy bài dạng khái niệm câu, giáo viên thường đưa ra mẫu câu như: Ai là
gì? Hoặc Ai làm gì? Rồi hướng dẫn học sinh tìm bộ phận câu trả lời câu hỏi Ai?
hoặc câu hỏi là gì? Làm gì? Cho học sinh làm mẫu, cuối cùng là học sinh làm
bài vào vở, rồi đọc bài làm, lớp chữa bài, hầu hết các em đều đặt được câu
nhưng các câu gần giông nhau như: Mẹ em đang giặt quần áo. Hoặc: Em đang

quét nhà. Câu nào cũng chỉ nói về người, câu nào các em cũng có từ (đang) đối
với mẫu câu Ai làm gì?
Tôi đã tổ chức cho học sinh chơi trò chơi học tập sau:
d.1. Trò chơi: Thi đặt câu theo tranh.
Ví dụ: Dạy bài 3( tuần 1 – Tr9)
- Mục đích:
+ Luyện tập kỹ năng tìm từ đặt câu ( theo mẫu) theo nội dung bức tranh
vẽ cảnh sinh hoạt gần gũi với lứa tuổi học sinh Tiểu học.
+ Tập cho học sinh thói quen quan sát, nhận xét về sự vật hoạt động, đặc
điểm của đối tượng được diễn tả qua tranh vẽ; Biết đặt câu đúng ngữ pháp Tiếng
Việt.
- Chuẩn bị: Hai tranh như SGK phóng to và tô màu.
Hai bảng nhóm và bút dạ, giấy khổ to cho 9 nhóm.
- Cách tiến hành:
Chia lớp thành các nhóm 3 học sinh.
Hướng dẫn học sinh quan sát tranh và đặt câu theo nội dung tranh( Có thể
đặt tên cho các nhân vật trong tranh), phát bảng nhóm, giấy và bút dạ cho các
nhóm.

16


Gắn tranh lên bảng, hô hiệu lệnh “Bắt đầu” thì các nhóm bắt đầu làm bài
trong thời gian 5 phút thì dừng lại. Các nhóm trưng kết quả lên bảng..
- Tổ chức cho cả lớp nhận xét kết quả của từng nhóm:
Nhóm 1: Lan và các bạn dạo chơi trong công viên. Nhóm 2: Buổi sáng thứ
bảy, Huệ cùng các bạn đi thăm vườn hoa của nhà trường….
* Hiệu quả: Qua nhận xét kết quả, các nhóm đều đặt đúng câu theo nội
dung của tranh và các em đều đặt tên cho nhân vật trong tranh, nội dung câu văn
phong phú.

2. 4. Hiệu quả của sáng kiến:
Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn áp dụng các trò chơi phù hợp trong mỗi
bài tập, mỗi tiết dạy. Kết quả thu được là các em tiếp thu bài tốt, phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, giúp các em học tập một cách tự nhiên,
nhẹ nhàng và hiệu quả. Chất lượng học sinh học môn Tiếng Việt nâng lên rõ rệt.
Câu văn của các em ít có từ dùng sai hơn. Đặc biệt rèn kĩ năng nói, diễn đạt của
các em rất mạch lạc, phong phú, tự nhiên. Nhiều câu văn hay, từ ngữ gây sự bất
ngờ thú vị, có sức gợi cảm lớn. Điều đó chứng tỏ vốn từ của các em được nâng
lên, các em biết sử dụng vốn từ một cách hợp lý hơn, sinh động hơn. Sau mỗi
giờ học gây được sự sảng khoái ham thích học tập.
Để có kết quả, tôi tiến hành khảo sát chất lượng lớp 2, kết quả đạt được
(Tại thời điểm giữa tháng 3 năm học 2018 - 2019) như sau:
Kếtquả
Thích học
Bình thường
Không thích
SL
%
SL
%
SL
%
Số bài
28
20
71,4
8
28,6
0
Với một thời gian ngắn ngủi để áp dụng phương pháp trò chơi vào dạy học phân môn luyện từ và câu tôi thấy 100% học sinh hứng thú học, các giờ học

mất đi sự trầm lắng thay vào đó là không khí sôi nổi, hào hứng . Việc áp dụng
những trò chơi vào dạy Luyện từ và câu là một hướng đi đúng góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh mở ra một triển vọng tốt đẹp trong
mông Tiếng Việt nói chung, phân môn luyện từ và câu nói riêng,
Học sinh Tiểu học luôn hiếu động, ham chơi thích cái mới lạ nhưng chóng
chán. Đối với trẻ, trò chơi là phát hiện mới, kích thích tính tò mò, muốn tìm
hiểu, khám phá. Do vậy quan điểm thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành
hoạt động học tập là phù hợp với nhà trường Tiểu học. Trong dạy học Tiếng Việt
ở Tiểu học, đặc biệt là ở các lớp 1, 2, 3, trò chơi còn có nhiều tác dụng như:
- Giúp học sinh thay đổi không khí học tập, làm cho giờ học bớt căng
thẳng, học sinh tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng, hứng thú vì vậy các em sẽ nhớ bài
rất lâu.
- Kích thích sự tìm tòi, tạo cơ hội cho học sinh tự thể hiện mình.

17


- Thông qua trò chơi học sinh vận dụng kiến thức một cách linh hoạt, sáng
tạo, nhanh nhẹn, kích thích trí nhớ. Từ đó học sinh phát triển tư duy mềm dẻo,
học tập cách ứng xử linh hoạt, thông minh trong những tình huống phức tạp.
- Học sinh rèn luyện được các kỹ năng: Nghe, đọc, nói, viết và vận dụng
vào đời sống thực tế.
- Thông qua trò chơi các em còn đó được nhiều phẩm chất đạo đức đáng
quý như: tinh thần đoàn kết, cộng đồng trách nhiệm , lòng trung thực …
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Để phương pháp trò chơi thực sự có hiệu quả trong giờ học luyện từ và câu
ở lớp 2 thì mỗi giáo viên phải lựa chọn trò chơi hay và hiệu quả nhất cho mỗi
bài dạy. Trong một tiết giáo viên không nên tổ chức quá 2 trò chơi song cũng có
bài chỉ cần tổ chức một trò chơi. Đổi mới trò chơi vận dụng để giải bài tập giáo

viên chỉ được tổ chức một lần trong tiết dạy. Cần phối hợp liên hoàn, linh hoạt
và sáng tạo giữa các phương pháp truyền thống, hiện đại và trò chơi để tiết học
sôi nổi, hứng thú và hiệu quả.
Trong quá trình nghiên cứu và vận dụng phương pháp trò chơi để gây hứng
thú tạo hiệu quả cho giờ học luyện từ và câu ở lớp 2, tôi nhận thấy:
Trước hết người giáo viên phải có tâm huyết với nghề, luôn tìm tòi, học
hỏi, trao đổi kiến thức, cập nhật những vấn đề mới của xã hội.
Cần khơi dậy hứng thú học tập, lòng say mê thích học hỏi của học sinh.
Làm cho học sinh cảm thấy mỗi giờ học là một buổi tham quan kỳ thú. Không
nên gò ép các em theo một khuôn thước nhất định. Biết trân trọng và phát huy
tính sáng tạo của học sinh.
Cần phối kết hợp các phương pháp trong quá trình dạy học. Cần coi trọng
phương pháp trò chơi và phát huy tối đa tiềm lực của phương pháp này trong
dạy học phân môn luyện từ và câu. Tuy nhiên khi vận dụng phương pháp trò
chơi vào dạy học giáo viên cần chú ý:
- Trò chơi phải góp phần thực hiện được mục tiêu bài học.
- Trò chơi phải được chuẩn bị kỹ, chu đáo phù hợp với đối tượng học sinh
(về thẩm mỹ và nội dung)
- Luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện.
- Trò chơi không nên tổ chức kéo dài vì nó sẽ ảnh hưởng tới mạch kiến thức.
- Không nên lạm dụng trò chơi. Chỉ nên chọn 1 trò chơi hay áp dụng cho 1
bài. Trong 1 tiết chỉ nên tổ chức từ 1 đến 2 trò chơi. Tuyệt đối tránh hiện tượng
tổ chức 2 trò chơi trong 1 bài tập. Sử dụng trò chơi đúng lúc, đúng chỗ.
- Giáo viên cần “khéo” tổ chức trò chơi để trò chơi học tập mang đúng
nghĩa của nó: Học mà chơi, chơi mà học. Giáo viên cần kích thích sự thi đua
giành phần thắng giữa các bên tham gia.
18


3.2. Kiến nghị.

Ban giám hiệu nhà trường cần khuyến khích hơn nữa cho các giáo viên có
những sáng tạo linh hoạt trong phương pháp giảng dạy.
Nhà trường và ngành giáo dục nên tổ chức triển khai, nhân rộng những
SKKN có tác dụng thực tiễn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thị Trấn, ngày 20 tháng 03 năm 2019.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.

Thịnh Thị Luyến

19


1.
2.
3.
4.
5.
6.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Công cụ tìm kiếm google.
Sách giáo viên , sách giáo khoa – Lớp 2.
Hướng dẫn tổ chức các trò chơi Tiếng Việt 2
Một số tài liệu khác: đổi mới PPDH, Nghị quyết 29 TW về giáo dục….
Tài liệu BDTX Tiểu học.

Vở Bài tập Tiếng Việt lớp 2.

Trích dẫn TLTK
[1] Module TH1: Một số vấn đề tâm lý học dạy học ở Tiểu học.(Trang 11)
[2]Chương trình học mà chơi – chơi mà học trên truyền hình.
[3]. Phương pháp trò chơi trong đổi mới PPDH ở Tiểu học (Theo Tiểu
học. vn)

20


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên: Thịnh Thị Luyến
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, Trường Tiểu học Thị Trấn
Nga Sơn
Kết quả
đánh
giá xếp
loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

TT

Tên đề tài SKKN


Cấp đánh giá
xếp loại

1

Hướng dẫn học sinh giải toán về
“Tìm hai số khi biết tổng (hiệu)
và tỉ số của 2 số đó.”

Ngành GD cấp
huyện

C

2008
-2009

2

Các biện pháp nâng cao kỹ năng
đọc cho học sinh lớp 4

Ngành GD cấp
tỉnh

C

2009
-2010


3

Một số biện pháp rèn kỹ năng
sống cho học sinh lớp 2

Ngành GD cấp
tỉnh

B

2015
-2016

21



×