Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

ử dụng một số kỹ thuật dạy học tích cực trong môn mĩ thuật nhằm nâng cao chất lượng đối với phân môn vẽ theo mẫu ở lớp 8 trường THCS nga trường, nga sơn, thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG MỘT SỐ KỸ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG
MÔN MĨ THUẬT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỐI VỚI
PHÂN MÔN VẼ THEO MẪU Ở LỚP 8 TRƯỜNG THCS NGA
TRƯỜNG, NGA SƠN, THANH HÓA

Người thực hiện: Phan Thị Hồng Thái
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Nga Trường
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Mĩ thuật

THANH HOÁ NĂM 2019


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

I. Mở đầu

1

1. Lý do chọn đề tài

1



2. Mục đích nghiên cứu

2

3. Đối tượng nghiên cứu

2

4. Phương pháp nghiên cứu

3

II. Nội dung

3

1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.

3

2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

3

3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

5

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,

với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

13

III. Kết luận kiến nghị

16

1. Kết luận

16

2. Kiến nghị

17


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Mĩ thuật là môn học lấy thực hành của học sinh là hoạt động chủ yếu.
Do vậy, trong phương pháp tổ chức dạy học, học sinh là đối tượng của hoạt động
“ dạy”, đồng thời là chủ thể của hoạt động “ học” được cuốn vào các hoạt động
học tập do giáo viên tổ chức, hướng dẫn, thông qua đó học sinh tự lực khám
phá, thể hiện khả năng cảm thụ thẩm mĩ của bản thân, trên cơ sở hiểu biết kiến
thức đó. Học sinh được trao đổi, thảo luận và thể hiện, giải quyết vấn đề đặt ra
theo cách suy nghĩ của mình, từ đó tự trao đổi kiến thức, kĩ năng mới, không rập
theo những khuôn mẫu sẵn có, được tạo điều kiện bộc lộ và phát huy tiềm năng
sáng tạo của mình.
- Mục tiêu của giáo dục phổ thông là hình thành và phát triển toàn diện
nhân cách tốt đẹp của thế hệ trẻ, những công dân tương lai của đất nước.Chính

vì vậy, môn Mĩ thuật cũng là một trong những môn có vai trò quan trọng, đã góp
phần cùng những môn học khác giáo dục học sinh phát triển toàn diện về Đức Trí - Thể - Mĩ, hình thành những người lao động mới.
- Bên cạnh đó, thực hiện định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở
trường phổ thông, định hướng đổi mới phương pháp dạy và học được xác định
trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1-1993), Nghị quyết Trung ương khóa
VIII (12-1996), được thể chế hóa trong Luật giáo dục sửa đổi năm 2010, được
cụ thể hóa trong các văn bản chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo.
- Trong Luật giáo dục sửa đổi năm 2010 ( điều 28.2), đó nêu rõ “ Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
- Có thể nói cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương
pháp dạy học môn mĩ thuật nói riêng là hướng tới hoạt động học tập tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh; giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh
học tập, xóa bỏ lối truyền thụ một chiều, thói quen học tập thụ động.
- Tuy nhiên, đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ các
phương pháp truyền thống mà phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, hiệu
quả, kết hợp với các phương pháp kiểm tra dạy học hiện đại nhằm tăng cường sự
tham gia tích cực sáng tạo của học sinh.
- Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học chuyển từ dạy học thụ động sang
dạy học và học tập tích cực giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người
truyền đạt kiến thức, mà giáo viên đã trở thành người tổ chức, hướng dẫn các
hoạt động học tập của học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt
các mục tiêu kiến thức, kĩ năng theo yêu cầu của chương trình.
- Thực tế dạy học những năm gần đây, nhiều giáo viên thực hiện chương
trình một cách máy móc, thiếu sự linh hoạt, quá tham về kiến thức (lý thuyết)
dẫn đến tình trạng học môn Mĩ thuật kém hiệu quả. Nhiều giáo viên đòi hỏi quá
cao nên đã biến giáo dục mĩ thuật THCS thành đào tạo họa sĩ làm cho học sinh ít
hứng thú, thụ động, tự ti, không thích học hoặc học tập không tích cực.

1


- Chương trình giáo dục phổ thông đã được ban hành và triển khai đến tất
cả các trường và giáo viên phổ thông. Chuẩn kiến thức, kĩ năng được thể hiện cụ
thể hóa ở các chủ đề của chương trình môn học. Tuy nhiên, giáo viên vẫn chưa
nắm vững và chưa áp dụng một cách đầy đủ theo đúng yêu cầu của chuẩn kiến
thức, kĩ năng.
- Giáo viên Mĩ thuật còn lúng túng trong việc tổ chức dạy học như thế
nào? Rèn luyện những kĩ năng nào trong từng phân môn, từng bài cho phù hợp
với đối tượng học sinh? Mức độ yêu cầu đến đâu? Đánh giá như thế nào? Dựa
vào tiêu chí nào?... Hầu như chưa thực hiện theo chuẩn kiến thức, kĩ năng trong
từng bài, từng phân môn của lớp học, cấp học.
- Trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh, giáo viên thường
đánh giá mang tính chủ quan, áp đặt từ những hiểu biết, kiến thức, kĩ năng trong
từng phân môn ở từng lớp học.
- Trong một lớp học, trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không đồng
đều, có sự phân hóa về cường độ, mức độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập
nhất là bài học được thiết kế thành một chuỗi hoạt động độc lập dẫn đến sự mệt
mỏi, nản lòng, kém hứng thú học tập. Vì vậy khi nhiệm vụ bài học càng lên cao
thì sự phân hóa này càng lớn đòi hỏi giáo viên phải thay đổi phương pháp truyền
đạt phải là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, dẫn dắt, trọng tài trong các
hoạt động để học sinh chủ động tìm tòi lĩnh hội kiến thức, hào hứng, tranh luận
sôi nổi tạo hứng thú học tập.
Vì vậy, là người giáo viên dạy Mĩ thuật tôi luôn mong ước làm thế nào để
nâng cao chất lượng dạy học đối với phân môn vẽ theo mẫu ở lớp 8 bậc THCS,
làm thế nào để phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo tạo hứng thú
học tập cho các em học sinh, giúp học sinh có thói quen linh hoạt ứng dụng
những vấn đề đã học, thích ứng nhanh với cuộc sống, đem lại niềm vui, đạt hiệu
quả cao hơn trong học tập. Đây chính là đề tài mà tôi đã chọn.

2. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm đề xuất các phương pháp nhằm hướng tới việc tích cực hóa hoạt
động nhận thức của học sinh, nghĩa là hướng vào phát huy tính tích cực, chủ
động, của người học chứ không chỉ hướng vào việc phát huy tính tích cực của
người dạy. Nâng cao chất lượng dạy và học môn Mĩ thuật, tạo hứng thú, tích cực
học tập, sáng tạo cho học sinh trong quá trình học tập.
- Nhằm khắc phục tình trạng dạy học mĩ thuật chưa bám sát chuẩn kiến
thức, kĩ năng đã ban hành dẫn đến tình trạng dạy học quá tải về nội dung kiến
thức.
- Củng cố, nâng cao hiểu biết, kĩ năng vận dụng một số phương pháp, kĩ
thuật dạy học giúp giáo viên chủ động linh hoạt trong việc áp dụng các phương
pháp kĩ thuật dạy học tăng cường sự tham gia tích cực của học sinh, nâng cao
hiệu quả giáo dục của môn học.
- Giáo viên kết hợp sử dụng có hiệu quả giữa chương trình giáo dục Mĩ
thuật, sách giáo khoa, sách giáo viên và các loại tài liệu tham khảo.
3. Đối tượng nghiên cứu
Trong chương trình môn mĩ thuật 8, phân môn vẽ theo mẫu tương đối
quan trọng; thể hiện sự yêu thích, đam mê, hứng thú môn học. Xong làm thế nào
2


để người học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo tạo hứng thú, yêu thích
môn học? Vì vậy đối tượng mà tôi nghiên cứu ở đề tài này chính là sử dụng các
kỹ thuật tích cực vào giảng dạy phân môn vẽ theo mẫu nhằm phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo tạo hứng thú học tập cho học sinh trong quá
trình học tập.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát thực tiễn
- Phương pháp điều tra
- phương pháp thu thập thông tin

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thực nghiệm
- phương pháp vấn đáp
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Mục tiêu của giáo dục Mĩ thuật ở THCS không phải là đào tạo những con
người chuyên làm Mĩ thuật mà là tạo điều kiện cho học sinh bước đầu làm quen
với cái đẹp, cung cấp những kiến thức ban đầu vễ Mĩ thuật, hình thành những kĩ
năng cần thiết để học sinh hoàn thành bài tập theo yêu cầu của chương trình.
Đồng thời, thông qua môn học nhằm giáo dục cho học sinh biết cảm nhận, cảm
thụ được cái đẹp, yêu cái đẹp góp phần phát khả năng tư duy, phát huy tính sáng
tạo nhằm giáo dục học sinh phát triển toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mĩ.
Trong trường THCS Mĩ thuật là môn có đặc thù riêng, tính chất môn học
nhẹ nhàng không gây áp lực nhiều cho học sinh, gây tính tò mò ham học hỏi.
Bên cạnh đó, chương trình Mĩ thuật có nhiều phân môn khác nhau, mỗi phân
môn đều mang lại cho các em những nét riêng. Phân môn vẽ theo mẫu là phân
môn yêu cầu học sinh vẽ mẫu thực, quan sát mẫu thực. Từ đó, người học phải
được cung cấp những kĩ năng nghệ thuật về tạo hình, cảm thụ được vẽ đẹp của
đồ vật thông qua ngôn ngữ của hội họa là đường nét, hình khối, đậm nhạt, màu
sắc, ánh sáng giúp các em có khả năng miêu tả đồ vật theo cảm xúc riêng. Qua
đó, hình thành ở các em biết yêu cái đẹp và mong muốn thể hiện nó trong cuộc
sống, nó kích thích được tính độc lập sáng tạo của người học, dễ gây được cảm
hứng trong khi vẽ. Xong cũng không tránh khỏi gây ra những khó khăn làm nản
trí người học do yêu cầu môn học cần nhiều thời gian, sự kiên trì cho mỗi bài vẽ,
hình thức thực hành vẽ tranh lập lại. Do đó giáo viên phải truyền cho học sinh
trước hết là sự thích thú học, cần tác động đúng hướng và phương pháp dạy học
tích cực nhằm kích thích khả năng phát huy tính tích cực học tập, độc lập, sáng
tạo cho học sinh giúp học sinh thực hành được bài vẽ mà không bị áp lực.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

Vẽ theo mẫu không chỉ là hình thức rèn luyện cho học sinh tập quan sát,
nhận xét so sánh, phân tích tổng hợp đặc điểm của mẫu để từ đó cảm thụ được
vẽ đẹp của mẫu, tiếp cận với cái đẹp, tạo điều kiện cho năng khiếu Mĩ thuật của
học sinh phát triển mà còn là cơ sở hết sức cần thiết, là “kim chỉ nam” cho sự
phát triển khả năng sáng tạo ở các phân môn khác. Nhưng trên thực tế học sinh
chưa chịu khó quan sát, so sánh, phân tích đối tượng như khả năng miêu tả về
3


cấu trúc, chất liệu màu sắc của vật mẫu hay khả năng vận dụng vào các phân
môn khác còn kém. Những thực trạng này xuất phát cả từ nhiều yếu tố cả về
giáo viên lẫn học sinh.
2.1. Thuận lợi
Những năm gần đây trường THCS Nga Trường đã nổ lực quan tâm đổi
mới mọi diện mạo của nhà trường nhất là việc thực hiện nghị quyết trung ương
II về công tác xã hội hóa giáo dục, đổi mới phương pháp giảng dạy và việc đánh
giá thực chất việc dạy và học.
Bên cạnh đó nền kinh tế của xã Nga Trường đang trên đà phát triển, dân
trí nhận thức ngày càng cao tạo điều kiện rất tốt cho công tác dạy và học. Nền
kinh tế phát triển kéo theo nhận thức của người dân cũng được nâng cao. Đó là
tiền đề cho sự quan tâm của các bực phụ huynh học sinh trong việc học tập, đầu
tư về đồ dùng, sách giáo khoa và thời gian học tập cho con em mình.
Đa số các em có tinh thần học tập, yêu thích môn học, các em thích vẽ,
thích khám phá và có ý thức trong việc học tập.
Hơn thế nữa là sự quan tâm của xã nhà, của các cấp các nghành, đặc biệt là
sự quan tâm của phòng giáo dục Nga Sơn, của ban giám hiệu nhà trường, của
các thầy cô giáo.
2.2. Khó khăn
* Về phía giáo viên
Như chúng ta đã biết phân môn vẽ theo mẫu là một phân môn tương đối khó

dạy với các giáo viên Mĩ thuật bởi khi giảng dạy phân môn này các giáo viên
thường gặp những hạn chế sau:
- Trong quá trình dạy phân môn vẽ theo mẫu giáo viên dễ rơi vào cách
dạy khô cứng, nhàm chán, nhiều giáo viên dạy còn phụ thuộc vào nói “suông”
hay còn gọi là dạy “chay” mà dạy “chay” dễ dẫn đến tình trạng không đạt hiệu
quả ở môn học, ảnh hưởng ý thức ban đầu về môn học.
- Ngoài ra nhiều giáo viên vẫn còn sử dụng phương pháp cũ mà giờ đây
đã trở thành lạc hậu, đã tạo nên sự áp đặt kiến thức một cách cứng nhắc và
không còn phù hợp với đại trà đối tượng học, khiến cho học sinh tiếp thu một
cách qua loa chiếu lệ, thụ động, không chủ động trong quá trình học tập.
* Về phía học sinh:
- Học sinh luôn nghĩ rằng môn Mĩ thuật không quan trọng trong việc học,
học sinh xem môn Mĩ thuật như một môn phụ nên không chịu khó học hoặc
dành rất ít thời gian cho việc học môn này. Mà nhất là đối với phân môn vẽ theo
mẫu học sinh lại càng ngại việc quan sát, chưa có kỹ năng tạo hình. Nhiều học
sinh vẽ không cần quan sát mẫu vật mà giáo viên đã chuẩn bị trước, cũng không
cần quan sát góc nhìn của mình nhưng lại vẽ theo cảm nhận riêng là chính, hay
vẽ theo hình giáo viên thị mẫu trên bảng. Các em cũng chưa được giáo viên định
hướng cho phương pháp học tích cực, chủ động thành ra học sinh không chịu
khó học, tìm tòi kiến thức. Việc học ở nhà cũng là vấn đề nan giải đối với các
em, các em chưa có thời gian biểu khoa học cho việc học tập ở nhà, hầu như
việc học ở nhà đều dành cho những môn các em xem như là môn chính còn đối
với môn Mĩ thuật các em hầu như không dành thời gian nhiều, đây là khó khăn
chung ở phía học sinh.
4


- Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng nhằm đánh giá
chất lượng dạy học phân môn vẽ theo mẫu đầu năm học của học sinh lớp 8A và
lớp 8B trường THCS Nga Trường. Tôi đánh giá qua hình thức kiểm tra kiến thức

thông qua bài kiểm tra ngắn trong thời gian 15 phút:
Yêu cầu của bài kiểm tra như sau:
Câu 1:
Em hãy quan sát mẫu vật và điền tiếp nội dung còn thiếu vào ô trống để
hoàn thiện nội dung bài:
Nội dung câu hỏi

Nhận xét trả lời

Vị trí

………………………………………………

Đặc điểm,cấu tạo

………………………………………………

Khung hình chung, riêng

………………………………………………

Tỉ lệ

………………………………………………

Độ đậm nhạt giữa các vật mẫu

……………………………………………..

Qua quá trình khảo sát đã thu được kết quả như sau:


Lớp

Sĩ số

8A
8B

21
21

Đúng
Số lượng
%
14
66.7
15
71.4

Câu trả lời
Sai
Số lượng
%
7
33.3
6
28.6

Không trả lời
Số lượng

%
0
0
0
0

Theo tôi nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên thì có rất nhiều nguyên
nhân khác nhau, nhưng nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến việc học sinh khối lớp
8 Trường THCS Nga Trường không nhớ hoặc nhớ rất ít về kiến thức đã học là
do các em còn chưa chủ động trong quá trình học tập. Bên cạnh đó nhiều giáo
viên lại chưa chịu khó tìm tòi và đổi mới phương pháp để đem lại hiệu quả tốt
nhất cho học sinh.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Xuất phát từ thực tế giảng dạy của bản thân và từng bước đổi mới phương
pháp dạy học, tôi tự hỏi mình: “làm gì để nâng cao chất lượng dạy học ? Làm gì
để tạo hứng thú học tập cho học sinh để kích thích học sinh tìm tòi, tích cực học
tập , sáng tạo để từ đó năng cao khả năng cảm nhận, cảm thụ cái đẹp cho học
sinh bằng khả năng và cảm nhận của mình”.
Sau khi tìm hiểu được nguyên nhân của việc không hứng thú của học sinh
khi vào tiết Mĩ thuật. Nội dung tôi giải quyết đầu tiên là: giúp học sinh học tốt
phân môn vẽ theo mẫu. Vì theo tôi chỉ khi học sinh có đam mê, có hứng thú học
tập thì học sinh mới chủ động tìm tòi, mới phát huy tính tích cực, lĩnh hội kiễn
thức từ đó mới học tốt, kết qủa học tập đem lại cao hơn.
5


Để thực hiện tốt nội dung này tôi tiến hành lồng ghép, kết hợp một số
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo sự mới lạ, tạo hứng thú học tập,
tránh nhàm chán cho học sinh và đặt biệt ở đề tài này là áp dụng trong phân môn
vẽ theo mẫu. Cụ thể như sau:

3.1. Sử dụng kĩ thuật “ Động não”
3.1.1. Khái niệm
- Là kĩ thuật nhằm huy động những kiến thức, kinh nghiệm đó có liên
quan đến kiến thức nội dung bài học. Học sinh khám phá kiến thức mới trên cơ
sở những cái đã biết. Học sinh được khuyến khích đưa ra các ý tưởng một cách
tích cực, không hạn chế. Kĩ thuật này nhằm phát triển tư duy logic, tư duy sáng
tạo.
- Trong phân môn vẽ theo mẫu, học sinh đưa ra các ý kiến để trả lời các
câu hỏi sau đó giáo viên có thể chốt lại các ý trọng tâm của bài học.
3.1.2. Ứng dụng tiến hành
Ví dụ: Tiết 26 – Bài 26: Vẽ theo mẫu: giới thiệu tỉ lệ cơ thể người (Mĩ
thuật lớp 8)
- GVgiới thiệu ảnh toàn thân trẻ em, người thấp, người tầm thước, người
cao và đặt câu hỏi cho học sinh động não và trả lời câu hỏi:
? Căn cứ vào đâu để xác định tỉ lệ kích thước các bộ phận trên cơ thể
người (HS: lấy chiều dài của đầu (từ đỉnh đầu tới cằm) để đo chiều cao của toàn
thân)
? Như thế nào là người lùn, người tầm thước, người cao (HS: người cao
khoảng từ 7 đến 7,5 đầu ; người tầm thước khoảng 7 đầu ; người lùn khoảng 6
đầu)
? Tỉ lệ cơ thể người như thế nào là đẹp (HS: người cao khoảng từ 7 đến
7,5 đầu là người có tỉ lệ đẹp)
Sau khi học sinh đã động não, tư duy và trả lời câu hỏi thì cuối cùng giáo
viên chốt kiến thức.
Khi sử dụng kỉ thuật động não vào các bài vẽ theo mẫu giúp học sinh làm
việc một cách tích cực, chủ động vì vậy sẽ giúp học sinh khắc sâu kiến thức bài
học hơn.
3.2. Sử dụng kĩ thuật “Bản đồ tư duy”
3.2.1. Khái niệm
- Là kĩ thuật xây dựng kiến thức dưới dạng sơ đồ hóa nhằm phát triển xây

dựng kiến thức mới trên cơ sở kiến thức đã biết liên quan đến chủ đề bài học,
phát triển tư duy logic. Từ chủ đề lớn phát triển tìm các chủ đề nhỏ liên quan,
học sinh được tự do nêu các ý tưởng liên quan đến chủ đề chính, sau đó sắp xếp
lại theo trật tự logic liên quan giữa các chủ đề.
*Mục tiêu:
- Giúp người học bao quát chi tiết một cách cụ thể, về một vấn đề, nhiệm
vụ hay một nội dung .
- Giúp người học ghi nhớ tốt và học sâu, nắm chắt vấn đề học tập.
* Tác dụng đối với học sinh:
-Là kỹ thuật dạy học giúp người học phát triển tư duy, mở rộng, đào sâu
và kết nối các ý tưởng về một vấn đề hay một chủ đề học tập.
6


3.2.2. Ứng dụng tiến hành
Ví dụ: Tiết 19 – Bài 18 : Vẽ theo mẫu: vẽ chân dung( tiết 1) ( Mĩ thuật
lớp 8)
- Giáo viên treo một số tranh vẽ chân dung và hướng dẫn học sinh tìm
hiểu về tranh chân dung
- Giáo viên đặt câu hỏi gợi ý :
+ Tranh chân dung là tranh vẽ như thế nào ? (HS: dựa vào tranh chân
dung già, trẻ....)
+ Có thể vẽ tranh chân dung như thế nào? ( HS: dựa vào phần tranh vẽ
khuôn mặt, hay cả người, nhóm người...)
- Gv gợi ý và hướng dẫn học sinh tìm hiểu thêm về loại tranh chân dung
bán thân, tranh chân dung toàn thân và tranh chân dung nhiều người. Khi vẽ nên
chú ý đến nét mặt, biểu hiện tình cảm của chân dung.
- Từ các phương pháp vấn đáp, gợi mở, ...những câu trả lời khai thác từ
học sinh; để học sinh nhớ lâu hơn, hệ thống bài học tốt hơn và nắm chắc bài học
hơn giáo viên nên minh họa kĩ thuật sơ đồ tư duy trên bảng như sau:


Tranh chân dung là tranh vẽ về
một con người cụ thể nào đó

Vẽ cả người

Chân dung bán thân
Chân dung toàn thân
Trạng thái
Vẽ khuôn mặt

tình cảm

Vẽ khuôn mặt

Diễn tả nét mặt

Và một phần

và tư thế

thân người

Chân dung nhiều người

Vẽ những người

Vẽ nhóm bạn bè

trong gia đình

Bản đồ tư duy

7


3.3. Sử dụng kĩ thuật “ Khăn phủ bàn”
3.3.1. Khái niệm
- Kĩ thuật khăn phủ bàn là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang tính
hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm.
* Mục tiêu:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực của học sinh.
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh.
- Phát triển mô hình có sự tương tác giữa học sinh với học sinh.
*Tác dụng đối với học sinh:
- Học sinh được tiếp cận với nhiều giải pháp và chiến lược khác nhau
- Rèn kĩ năng suy nghĩ, quyết định và giải quyết vấn đề
- Học sinh đạt được mục tiêu học tập cá nhân cũng như hợp tác
- Nâng cao mối quan hệ giữa học sinh. Tăng cường sự hợp tác, giao tiếp,
học cách chia sẽ kinh nghiệm và tôn trọng lẫn nhau.
- Nâng cao hiệu quả học tập
3.3.2 Ứng dụng tiến hành

Vẽ sáng tạo của cá nhân

4

Bài vẽ chung
của cả nhóm về
đề tài của bức tranh


2

Vẽ sáng tạo của cá nhân

Vẽ sáng tạo của cá nhân

1

3
Vẽ sáng tạo của cá nhân

Khăn phủ bàn
- Chia học sinh thành các nhóm và phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A3

8


- Trên giấy A3 chia thành các phần, gồm phần chính giữa và các phần
xung quanh. Phân xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm (ví dụ
nhóm 4 người). Mỗi người ngồi vào vị trí tương ứng với từng phần xung
quanh.
- Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ
trả lời câu hỏi, nhiệm vụ theo cách nghĩ cách hiểu riêng của mỗi cá nhân và vẽ
vào phần giấy của mình trên tờ A3.
- Trên cơ sở những ý kiến của mỗi cá nhân, học sinh thảo luận nhóm,
thống nhất ý kiến và vẽ vào phần chính giữa của tờ giấy A3 “khăn phủ bàn”.
Ví dụ: Tiết 27- Bài 27: Vẽ theo mẫu: tập vẽ dáng người ( Mĩ thuật
lớp 8)
*Cho học sinh vẽ về các dáng người sau đấy ghép các dáng thành một
bức tranh

- Mỗi cá nhân quan sát dáng người (các bạn trong hóm thay phiên nhau
làm mẫu: dáng đứng, đi...) sau đấy tự vẽ sắp xếp hình ảnh vào phần giấy của
mình trên “khăn phủ bàn”.
- Thảo luận nhóm, thống nhất lựa chọn, cùng nhau vẽ kết quả vào giữa
“khăn phủ bàn” và tô màu.
- Đại diện các nhóm trưng bày kết quả (sản phẩm) lên bảng lớp. Các
nhóm khác tham gia nhận xét, phản hồi góp ý, giáo viên nhận xét kết luận

Mô hình khăn phủ bàn
9


Học sinh lớp 8A đang sắp xếp hình ảnh vào phần giấy
của mình trên “khăn phủ bàn”
Có rất nhiều kĩ thuật dạy học tích cực đều giúp cho học sinh lĩnh hội kiến
thức tốt. Tuy nhiên mỗi biện pháp đều có tác dụng bổ sung và hổ trợ cho nhau,
nhưng điều quan trọng nhất là đều cùng chung mục đích là giúp học sinh nắm
vững kiến thức, hứng thú với vẽ theo mẫu sau mỗi tiết học.
3.4. Kĩ thuật chia nhóm
3.4.1. Khái niệm
- Là phương pháp dạy học hợp tác giúp các thành viên trong nhóm chia
sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng, tìm kiếm
kiến thức hoặc tự rút ra kết luận. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau
chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ động kiến thức từ giáo viên.
* Mục tiêu:
- Tăng cường sự tương tác giữa học sinh với học sinh.
- Tạo không khí sôi nổi, vui vẻ, hứng thú trong tiết học
*Tác dụng đối với học sinh:
- Học sinh tự giác, chủ động, tích cực hơn trong lĩnh hội kiến thức và phát
huy khả năng thể hiện của mình

3.4.2. Phương pháp chia nhóm
- Khi tổ chức cho học sinh hoạt đông theo nhóm, giáo viên nên sử dụng
nhiều cách khác nhau để gây hứng thú cho học sinh, đồng thời tạo cơ hội cho
các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Dưới đây là
một số cách chia nhóm:
10


* Chia nhóm theo số điểm danh, theo màu sắc, theo các loài hoa, các
mùa trong năm….
+ Giáo viên yêu cầu học sinh điểm danh từ 1 đến 4/5/6…( tùy theo số
nhóm giáo viên muốn có là 4, 5 hay 6 nhóm…); hoặc điểm danh theo các màu (
xanh, đỏ, tím, vàng..); hoặc điểm danh theo các loài hoa ( hồng, lan, huệ,
cúc…); hay điểm danh theo các mùa ( xuân, hạ, thu, đông…)
+ Yêu cầu các học sinh có cùng một số điểm danh hoặc cùng một màu/
cùng một loài hoa/ cùng một mùa sẽ vào cùng một nhóm.
* Chia nhóm theo hình ghép:
- Giáo viên cắt một số bức hình ra thành 3/4/5… mảnh khác nhau, tùy
theo số học sinh muốn có là 3/4/5…học sinh trong mỗi nhóm. Lưu ý là số bức
hình cần tương ứng với số nhóm mà giáo viên muốn có.
+ Học sinh bốc ngẫu nhiên mỗi em một mảnh cắt.
+ Học sinh phải tìm các bạn có các mảnh cắt phù hợp để ghép lại thành
một tấm hình hoàn chỉnh.
+ Những học sinh có mảnh cắt của cùng một bức hình sẽ tạo thành một
nhóm.
* Chia nhóm theo sở thích:
- Giáo viên có thể chia học sinh thành các nhóm có cùng sở thích để các
em có thể cùng thực hiện một công việc yêu thích hoặc biểu đạt kết quả công
việc của nhóm dưới các hình thức phù hợp với sở trường của các em. Ví dụ:
nhóm họa sĩ, nhóm nhà thơ, nhóm hùng biện…

* Chia nhóm theo tháng sinh: các học sinh có cùng tháng sinh sẽ làm
thành một nhóm.
Ngoài ra còn có nhiều cách chia nhóm khác như: nhóm cùng trình độ,
nhóm hỗn hợp, nhóm theo giới tính, nhóm theo các đồ vật, nhóm theo tên các
loại bánh kẹo…
3.4.3. Ứng dụng tiến hành:
Ví dụ: Tiết 30 – Bài 31: Vẽ theo mẫu: xé dán tĩnh vật lọ hoa và quả
( Mĩ thuật lớp 8)
- Sau khi hướng quan sát nhận xét và cách thực hiện xé dán tranh tĩnh vật
giáo viên chia nhóm ( Mỗi nhóm 6 em ) theo tên các nhân vật trong truyện cổ
tích như:
+ Nhóm 1 là nhóm Bạch Tuyết
+ Nhóm 2 là nhóm Lọ Lem
+ Nhóm 3 là nhóm Nàng tiên cá
+ Nhóm 4 là nhóm Thạch Sanh…
- Giáo viên nêu yêu cầu thực hành : mỗi nhóm xé dán một bức tranh tĩnh
vật mà nhóm yêu thích hoặc nhóm mang tên.
- Học sinh thảo luận và thực hiện xé dán tranh tĩnh vật lọ hoa và quả theo
nhóm
- Sau thực hành giáo viên hướng dẫn học sinh đánh giá kết quả và củng
cố lại kiến thức
11


Khi sử dụng phương pháp chia nhóm vào các vẽ theo mẫu sẽ giúp học
sinh khắc sâu kiến thức bài học hơn.
3.5. Sử dụng phương pháp trò chơi:
3.5.1. Khái niệm:
- Là phương pháp dạy học thông qua việc tổ chúc hoạt đông cho học
sinh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Học sinh được hoạt động bằng cách tự

chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tải mục tiêu của bài học.
Luật chơi ( cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc biệt là
phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá.
Sử dụng trò chơi học tập để hình thành kiến thức, kĩ năng mới hoặc củng
cố kiến thức, kĩ năng đã học. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường tổ chúc
trò chơi học tập đểhình thành kiến thức, kĩ năng mới là rất cần để tạo hứng thú
học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới.
* Quy trình thực hiện:
+ Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi.
+ Bước 2: Hướng dẫn chơi.
+ Bước 3: Thực hiện trò chơi.
+ Bước 4: Nhận xét sau cuộc chơi.
* Mục tiêu và tác dụng đối với học sinh:
- Học sinh nhận ra nội dung kiến thức bài học và lĩnh hội được kiến thức
chủ động, tích cực hơn thông qua việc giải quyết trò chơi và duy trì tốt hơn sự
chú ý của các em đối với bài học.
- Tạo tâm lý thoải mái, phấn khởi, học sinh hào hứng học tập hơn, giải
tỏa tâm lý mệt mỏi, căng thẳng tinh thần do giờ học trước hoặc mệt mỏi do
hoàn cảnh xung quanh gây ra.
- Giáo viên vận dụng, kiểm tra, đánh giá được kiến thức của học sinh.
3.5.2. Ứng dụng tiến hành:
Ví dụ: Tiết 31 bài 31: vẽ theo mẫu Xé dán giấy lọ hoa và quả (Mĩ
thuật lớp 8)
- Sau khi hướng dẫn học sinh quan mẫu vật và nhận xét . Giáo viên chia
lớp thành 3 nhóm và tổ chức trò chơi “ tiếp sức” nhằm mục đích củng cố lại nội
dung đã tìm hiểu, phát huy khả năng quan sát, nhận xét, so sánh, đối chiếu và
chủ động của học sinh. Bên cạnh đó tạo không khí học tập sôi nổi, hứng thú
cho tiết học.
*Luật chơi:
+ Giáo viên chia 4 khung tranh trên bảng để học sinh thực hiện cách sắp

xếp hình đã chuẩn bị sẵn ( hoặc giấy A3).
+ Mỗi đội chơi cử lần lượt các bạn lên dán hình vào trong tranh trong
thời gian quy định ( Mỗi bạn chỉ được dán 1 hình).
+ Hết thời gian đội nào đội nào hoàn thành nhanh nhất, đẹp nhất là đội
thắng cuộc.
12


- Sau trò chơi giáo viên hướng dẫn học sinh đánh giá sản phẩm của các
đội chơi qua đó củng cố kiến thức, chỉnh sửa lỗi sai cho học sinh.

Học sinh lớp 8B tham gia trò chơi tiếp sức
Với trò chơi này sẽ tạo không khí sôi nổi cho lớp học, giúp học sinh tư duy trong
học tập, mặt khác học sinh lại khắc sâu kiến thức đã được học trước đó.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau khi vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào các tiết dạy vẽ theo
mẫu nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo cho các em học
sinh, tôi đã tiến hành khảo sát nhằm đánh giá chất lượng học tập của phân môn
này nói riêng của bộ môn Mĩ thuật nói chung.
Hình thức khảo sát như sau: Cho các em làm bài kiểm tra trong vòng 15
phút. Với nội dung sau:
Câu 1: Em hãy điền tiếp nội dung vào bảng trống để hoàn thiện cách đo tỉ
lệ người và số liệu về các tỉ lệ các bộ phận tương ứng với đầu:
Câu hỏi
Nội dung trả lời
Căn cứ vào đâu để xác định tỉ lệ ……………………………………………
kích thước các bộ phận trên cơ ……………………………………………
thể người
Như thế nào là người lùn, người ……………………………………………

tầm thước, người cao
……………………………………………
Tỉ lệ cơ thể người như thế nào là ……………………………………………
đẹp
……………………………………………

13


Câu 2: Sắp xếp lại các bước tiến hành một bài vẽ theo mẫu sao cho hợp lý
nhất:
a. Vẽ đậm nhạt( Vẽ màu)
b. Phác hình
c. Dựng khung hình chung,khung hình riêng, chia tỷ lệ
d. Chỉnh hình sao cho gần giống mẫu
Qua quá trình khảo sát tôi thấy rằng các em ghi nhớ hơn những kiến thức
cơ bản, nắm vững hơn nội dung bài học, biết vận dụng kiến thức đã học để hoàn
thành tốt bài tập.
Kết quả khảo sát như sau:
Sau khi áp dụng phương pháp này tôi nhận thấy học sinh có sự tiến bộ
lớn, học sinh trở nên yêu thích môn học hơn, tích cực học tập, chủ động và hứng
thú, đam mê với môn học hơn. Và kết quả cụ thể như sau:
Câu trả lời
Lớp
Sĩ số
Đúng
Sai
Không trả lời
Số lượng
%

Số lượng
%
Số lượng
%
8A
21
18
85.7
3
14.3
0
0
8B
21
19
90.5
2
9.5
0
0
Như vậy, tôi đã mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học và áp dụng các
kỹ thuật dạy học tích cực đã nêu trên vào trong chương trình dạy học Mĩ thuật
lớp 8, đặc biệt là trong phân môn vẽ theo mẫu, tôi khảo nghiệm ở cả hai lớp 8A
và 8B trong trường, sau những năm gần đây đã đạt được kết quả đáng phấn
khởi. Điều đó đã giúp các em phát huy tính tích cực được bộc lộ rõ qua các bài
vẽ theo mẫu với hình chắc khỏe, gần đúng với mẫu, bố cục hợp lý cũng như
cách vẽ đậm nhạt và màu sắc nhuần nhuyễn đầy cảm xúc của học sinh.
-Trong tiết Mĩ thuật, không khí lớp học trở nên sôi nổi hơn, học sinh cảm
thấy hứng thú hơn, đỡ áp lực hơn từ đó giúp học sinh tăng cường phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo, thông qua cảm xúc thực hành trong bài học Mĩ

thuật. Tôi luôn khen ngợi trước lớp bài của các em có bố cục đẹp, mô phỏng lại
mẫu vật một cách tương đối giống thực và khuyến khích các em có nhiều cố
gắng. Chất lượng các bài vẽ theo mẫu được nâng cao, những bài vẽ có hình gần
giống mẫu, bố cục hợp lý, màu sắc và đậm nhạt thể hiện được chất liệu của vật
mẫu ngày càng nhiều .
- Và điều quan trọng là đã đem lại niềm vui và tạo hứng thú trong học
tập gây được không khí hào hứng, say mê vẽ ở các em. Khi tôi vào dạy Mĩ
Thuật các em nộp tranh vẽ ở nhà rất tự giác và số lượng cũng như chất lượng
cao.
- Các em “thi đua” nhau vẽ các vật mẫu đã tự chuẩn bị ở nhà, tự hào
khi mình hoàn thành được bài vẽ, bài vẽ giống với mẫu thật nhiều hơn.

14


Việc đổi mới phương pháp dạy vẽ theo mẫu nói riêng, Mĩ thuật nói chung
nếu phương pháp có đổi mới như thế nào đi nữa thì cuối cùng vẫn là kết quả mà
học sinh tiếp thu được. Qua thời gian giảng dạy, tôi thấy kết quả cũng tạo đựơc
hứng thú tích cực học tập, sáng tạo của học sinh, từ đó học sinh hoàn thành yêu
cầu bài tập tốt hơn.
Mỗi ngày như thế trôi qua, giống như những chú kiến nhỏ cần mẫn làm
việc, tha mồi về tổ, sức học của các em ngày càng chuyển biến tích cực.
Các bài sau, điểm được nâng dần lên. Sau mỗi lần kiểm tra tôi đều so
sánh với các lần kiểm tra trước để thấy được sự tiến bộ của các em. Nếu điểm
bài sau thấp hơn tôi sẽ chỉ rõ cho các em chỗ sai để sửa.
Một số học sinh giỏi phát huy được năng khiếu của mình có sự tìm tòi,
chịu khó quan sát, học hỏi trong các bài vẽ theo mẫu. Các bài vẽ theo mẫu ngày
càng có bố cục đẹp, hình giống mẫu, và thể hiện rõ được đậm nhạt, chất liệu của
mẫu từ đó vận dụng vào các phân môn khác như vẽ tranh và vẽ tranh trí một
cách tốt nhất và đã đạt kết quả cao trong các cuộc thi vẽ tranh do phòng giáo dục

và hội đồng đội huyện, tỉnh tổ chức như:
+ Đạt giải 3 trong cuộc thi vẽ tranh mùa hoa phượng đỏ do hội đồng đội
huyện tổ chức năm học 2017-2018.
+ Đạt giải ba Tỉnh trong cuộc thi vẽ tranh về “Ma túy học đường” năm
học 2018– 2019.

Bài đạt giải Ba cấp huyện của em Mai Phương Linh học sinh lớp 8B
15


Bài đạt giải Ba cấp Tỉnh của em Mai Phương Linh học sinh lớp 8B
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Phương pháp dạy học là một phạm trù trong việc nghiên cứu giáo dục.
Mỗi giáo viên có những ưu thế riêng của mình trong cách dạy và thực hiện
phương pháp đổi mới. Với bản thân trải qua 9 năm công tác giảng dạy phân
môn Mĩ thuật tại trường. Tôi đã rút ra kinh nghiệm cho bản thân. Song tôi luôn
nghĩ đảm bảo chất lượng dạy - học cho học sinh ngoài kinh nghiệm của mình,
tôi không ngừng học hỏi ở đồng nghiệp và bạn bè cùng phân môn, để nâng cao
tay nghề đáp ứng với sự nghiệp giáo dục hiện đại. Vì thế muốn nâng cao chất
lượng dạy - học phân môn Mĩ thuật người giáo viên phải có quyết tâm cao
trong quá trình giảng dạy, thực hiện nhiều phương pháp đổi mới, khi lên lớp
khâu chuẩn bị tiết dạy sao cho phù hợp, có hiệu quả. Đây chỉ là ý kiến của bản
thân, góp phần vào để nâng cao chất lượng dạy - học phân môn vẽ theo mẫu
trong môn Mĩ thuật 8 THCS Nga Trường.
- Ngoài việc thực hiện mục tiêu của giáo dục ( nhằm giúp học sinh có
kiến thức cơ bản về các môn học, giáo dục thẩm mĩ, rèn luyện kĩ năng kỉ xảo
trong học tập).
- Qua nhiều tiết Mĩ Thuật, học sinh hoạt bát, tự tin, cởi mở với giáo viên
với bè bạn.., do đó việc giáo dục tốt hơn.

- Tôi nghĩ trong quá trình giảng dạy người giáo viên tạo hứng thú, niềm
đam mê, cho các em trong giờ dạy bằng nhiều cách.
- Người thầy phải yêu nghề và truyền tình yêu cho học trò.
- Thường xuyên trao đổi để tìm ra phương pháp dạy học thích hợp.
16


- Sử dụng linh hoạt trong phối hợp các phương pháp dạy học thích hợp,
và áp dụng các kỹ thuật hợp tác.
- Chú trọng phương pháp đặc trưng của từng bài dạy.
- Ứng dụng thông tin, phần mềm của công nghệ thông tin vào phân môn
Mĩ thuật có như vậy chất lượng học tập mới đạt hiệu quả cao.
- Ngoài sự chú ý lồng ghép các kỹ thuật trong thực hành để tập cho học
sinh“Ham muốn học tập” bên cạch đó luôn thường xuyên đổi mới phương
pháp dạy phù hợp, giúp các em phát huy tính tích cực trong học tập Mĩ thuật,
luôn có trí tưởng tượng, sáng tạo qua việc tái tạo nội dung bài học.
- Để hoàn thành bài viết này, ngoài sự nỗ lực nghiên cứu của bản thân,
phải kể đến sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường và các bạn
đồng nghiệp.
- Kinh nghiệm còn ít, bài viết này mang tính chủ quan, khó tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp giúp đỡ chân thành của thầy (cô) giáo.
Xin tiếp thu mọi ý kiến nhận xét của các cấp lãnh đạo, hội đồng khoa học. Việc
giáo dục thẩm mĩ cho học sinh của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
2. Kiến nghị :
- Để cho việc dạy và học môn Mĩ Thuật được tốt hơn, tôi mong các cấp
lãnh đạo quan tâm hơn nữa đến việc giảng dạy bộ môn này, và tôi có một số
kiến nghị sau :
- Nhà trường cần có phòng học chức năng đầy đủ về cơ sở vật chất.
- Phụ huynh cần quan tâm đến con em mình nhiều hơn, sát thực hơn đối
với việc học Mĩ thuật của các em, cụ thể là đồ dùng học tập.

- Giáo viên phải có lòng nhiệt tình, tâm huyết với chuyên môn. Phải
thường xuyên ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy, luôn học hỏi
kinh nghiệm cũng như mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học, và áp dụng kỹ
thuật dạy học hợp tác vào trong các phân môn trong chương trình tiểu học.
- Giáo viên phải thường xuyên sưu tầm, học hỏi kinh nghiệm cũng như
mạnh dạn áp dụng những phương pháp mới.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi về việc áp dụng đổi mới
phương pháp dạy học để gây hứng thú học tập cho học sinh mà tôi đã áp dụng
thành công, tôi rất mong được sự quan tâm đóng góp ý kiến của các bạn đồng
nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Nga Trường, ngày 05 tháng 04 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
NGƯỜI VIẾT

Phan Thị Hồng Thái
17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT

Tên tài liệu

1


SGK Mĩ thuật 8

2

Sách GV Mĩ thuật 8

3

Phương pháp giảng dạy Mĩ thuật

4

Một số vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học môn Mĩ thuật THCS

5

Mô đun 18 bậc THCS phương pháp
dạy học tích cực

6

Một số hình ảnh minh họa trong
chương trình và bài vẽ của học sinh

Tác giả
Đàm Luyện
(Tổng chủ biên)
Đàm luyện
(Tổng chủ biên)

Nguyễn Quốc Toản
(Chủ biên)
Đàm Luyện
Nguyễn Quốc Toản
Bạch Ngọc Diệp
Trần Đình Châu
Đặng Thị Thu Thủy
Phan Thị Luyến

Nhà xuất
bản
NXB
Giáo dục
NXB
Giáo dục
NXB
Giáo dục
1999
NXB
Giáo dục
NXB
Giáo dục

18


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Phan Thị Hồng Thái
Chức vụ - đơn vị công tác: giáo viên Mĩ thuật Trường THCS Nga Trường Nga
Sơn.
Cấp đánh giá
Kết quả
Năm học
xếp loại
đánh giá,
TT
Tên đề tài SKKN
được xếp
(Phòng, Sở, xếp loại. (A,
loại
Tỉnh)
B hoặc C)
Phương pháp sử dụng sơ đồ - Phòng GD &
2015A
trống vào việc củng cố bài học ĐT Nga Sơn.
2016
phân môn thường thức mĩ
1
thuật cho học sinh khối lớp 7 - Sở GD & ĐT
2015trường THCS Nga Trường.
Thanh Hóa.
C
2016

19




×