Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4 5 tuổi thông qua hoạt động truyện, thơ ở trường mầm non đông xuân, huyện đông sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.72 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÔNG SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO 4-5 TUỔI
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRUYỆN THƠ Ở TRƯỜNG MẦM
NON ĐÔNG XUÂN, HUYỆN ĐÔNG SƠN

Người thực hiện: Lê Thị Thúy
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Đông Xuân,
huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HOÁ NĂM 2019


MỤC LỤC
TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.2.


1
2.2.
2
2.2.
3
2.3
2.3.
1
2.3.
2
2.3.
3
2.3.
4
3.3.
5
2.4
3
3.1
3.2

NỘI DUNG
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lý luận
Thực trạng

Thuận lợi

TRANG
3
3
4
4
4
4
4
5
5

Khó khăn

5

Kết quả khảo sát đầu năm

5

Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1. Xây dựng môi trường giáo dục nhằm
phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Biện pháp 2: Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt
động thơ, chuyện.
Biện pháp 3. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua
các bài đồng dao, ca dao
Biện pháp 4. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua
lồng ghép tích hợp vào các hoạt động khác .

Biện pháp 5. Làm tốt công tác phối kết hợp với phụ
huynh để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Kết quả đạt được
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

6
6
9
14
16
18
19
20
20
21

2


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách con người, đặc biệt là trẻ mẫu giáo ngôn ngữ giữ một vai trò rất
quan trọng, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện để giao tiếp, là công cụ của tư
duy mà ngôn ngữ còn là phương tiện để giúp trẻ nhận thức được thế giới xung
quanh. Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo được thực hiện thông qua nhiều
hình thức khác nhau. Một trong những hình thức mang lại nhiều hiệu quả đó là
thông qua tiếp xúc với Văn học.

Văn học là một phương tiện hiệu quả mạnh mẽ không chỉ đối với việc
giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ mà còn có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự
phát triển ngôn ngữ của trẻ. Nhà văn M.Goócki định nghĩa “Văn học là nghệ
thuật ngôn từ”. Các hình tượng văn học làm phong phú những xúc cảm, tình
cảm, đưa đến cho trẻ những hình tượng tuyệt diệu của ngôn ngữ dân tộc. Từ
những hình tượng trong truyện kể, trẻ nhận thức được tính rõ ràng chính xác của
từ, sự hoàn hảo của các câu với những cấu trúc ngữ pháp phong phú. Những câu
chuyện cổ dân gian là những mẫu mực của lời nói giản dị, có nhịp điệu, mở ra
trước mắt trẻ sự biểu cảm của ngôn ngữ, chỉ ra những tiếng mẹ đẻ, sự giàu có
tính chất hài hước, lối so sánh diễn đạt sinh động và giàu hình tượng. {1}
Văn học là món ăn tinh thần không thể thiếu của trẻ nhỏ ở mỗi tác phấm
văn học, với nội dung giáo dục phong phú cùng những hình tượng nghệ thuật
trong sáng luôn có sức lôi cuốn sự chú ý, đem lại niềm vui thích cho trẻ nhỏ,
đồng thời cũng mang lại những tác dụng giáo dục lớn lao.Vì thế, từ lâu truyện,
thơ được xem như là một trong những phương tiện giáo dục trẻ phát triển toàn
diện về nhận thức, đạo đức và thẩm mĩ và ngôn ngữ {2}
Làm quen với truyện thơ là môn học rất quan trọng đối với trẻ mầm non.
truyện, thơ đem đến cho trẻ những hiểu biết đầu tiên về bản thân, về cuộc sống
xung quanh. truyện thơ dùng ngôn ngữ làm chất liệu để xây dựng các hình
tượng nghệ thuật phản ánh hiện thực của cuộc sống. Trẻ nhỏ do chưa biết chữ
nên việc tiếp nhận Truyện thơ phải thông qua người lớn. Khi nghe đọc, kể
truyện thơ, trẻ cần phải tưởng tượng tái tạo các hình ảnh được ngôn ngữ thể
hiện, phải sắp xếp, phân tích các hình ảnh đã tưởng tượng ra để hiểu và đánh giá
đúng về các hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Vì thế, có thể nói rằng, quá
trình tiếp nhận, lĩnh hội giá trị của tác phẩm truyện thơ sẽ tạo điều kiện cho trẻ
có cơ hội phát triển khả năng chú ý, xúc cảm tưởng tượng, tư duy, trí nhớ. Trong
quá trình này, trẻ cũng được phát triển khả năng nghe, nói và phát triển vốn từ cả
về số lượng và chất lượng. Đồng thời, trẻ cũng học được nhiều mẫu câu,
nhiều cách diễn đạt xúc tích, mạch lạc. Các nhà giáo dục từ lâu đã khẳng định
rằng, ngôn ngữ nghệ thuật có ảnh hướng lớn lao đến sự phát triển ngôn ngữ

(bao gồm cả phát âm, ngữ pháp và vốn từ) của trẻ.{2}
3


Như vậy truyện thơ là phương tiện quan trọng để phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mầm non. Song để phát huy được vai trò của thơ truyện trong việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ đòi hỏi người giáo viên phải nghiên cứu lựa chọn những tác
phẩm hay phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi, cần phải sử dụng
phương pháp, biện pháp một cách khoa học, biết tìm tòi khám phá sáng tạo ra
những phương pháp biện pháp hay, hấp dẫn và hiệu quả nhất, đưa trẻ đến với thế
giới thiên nhiên cỏ cây, hoa lá tươi đẹp, những con vật ngộ nghĩnh đáng yêu,
ông Bụt, bà Tiên…. đi vào lòng trẻ một cách nhẹ nhàng sinh động. Hiểu được
tầm quan trọng của truyện thơ đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ nên tôi cố
gắng lựa chọn những câu chuyện, bài thơ, các phương tiện đồ dùng, phương
pháp để dạy cho trẻ. Song vẫn chưa đạt được kết quả cao. Để khắc phục tồn tại
và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tốt tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao
chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi thông qua hoạt động truyện,
thơ ở trường mầm non Đông Xuân, huyện Đông Sơn” để làm đề tài sáng kiến
kinh nghiệm với mong muốn nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua đề tài giúp cho bản thân tìm ra phương pháp, biện pháp giáo
dục hiệu quả cao trong quá trình tổ chức cho trẻ làm quen với truyện, thơ nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4 – 5 tuổi ở
trường mầm non Đông Xuân, huyện Đông Sơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5
tuổi thông qua hoạt động truyện thơ ở trường mầm non Đông Xuân, huyện Đông
Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu đề tài này tôi kết hợp sử dụng các phương pháp sau:

*Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc các tài liệu có liên quan
đến đề tài để nghiên cứu các nội dung về giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mẫu giáo.
*Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương điều tra khảo sát: Điều tra khảo sát các nội dung liên quan đến
phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ.
+ Phương pháp quan sát: Qua sát các hoạt động của trẻ hàng ngày, ghi
chép những nội dung liên quan đến phát triển ngôn ngữ của trẻ, để tìm ra biện
pháp giáo dục phù hợp với phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại lớp phụ trách
+ Phương pháp đàm thoại; lựa chọn câu hỏi phù hợp với khă năng của
từng trẻ để giúp trẻ phát âm đúng chích xác, rõ ràng mạch lac.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thiết kế các hoạt động giáo dục
phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận.
Làm quen với truyện thơ có vai trò to lớn đối với sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ, không chỉ rèn luyện cho trẻ phát âm đúng mà quan trọng hơn là phát
triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng cấu trúc câu, nói đúng ngữ pháp và phát triển ngôn
4


ngữ mạch lạc. Ngôn ngữ mạch lạc là phương tiện vạn năng đặc sắc trọn vẹn và
có hiệu quả giao tiếp có văn hóa. {1}
Trẻ được tiếp xúc với truyện thơ làm nảy sinh thái độ sáng tạo ngôn ngữ,
sáng tạo trong biểu cảm lời nói, ý thức nói lời hay, ý đẹp, trẻ biết được những
điều hay, lẽ phải, biết yêu quý người hiền lành, biết ơn và kính yêu ông bà, bố
mẹ, anh chị, bạn bè, biết nhường nhịn em nhỏ biết làm theo những việc thiện,
việc tốt căm ghét phê phán cái ác. Đặc biệt hình thành ở trẻ phong cách sống. Có
thể nói qua truyện thơ trẻ học được tiếng mẹ đẻ, thấy được sự phong phú của
tiếng Việt.

Làm quen với truyện thơ khơi gợi cho trẻ sự rung động, hứng thú có ấn
tượng với hình tượng nghệ thuật cái hay, cái đẹp của tác phẩm, trẻ được thể hiện
sự sáng tạo khi kể chuyện theo trí tưởng tượng của mình, được đọc thơ với âm,
vần nhịp điệu trầm, bổng, vui tươi. Các hoạt động giúp trẻ làm quen với truyện
thơ, tạo tiền đề tốt để trẻ phát triển ngôn ngữ, giúp trẻ diễn đạt lưu loát ý của
mình, thường xuyên giáo dục trẻ biết yêu thương mọi người xung quanh. Biết
yêu cảnh đẹp, yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước... qua đó còn giúp trẻ tự
hào hơn, yêu quý hơn và hiểu biết nhiều hơn về kho tàng văn học Việt Nam.{1}
2.2. Thực trạng.
Năm học 2018 – 2019 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp mẫu
giáo Nhỡ A (4-5 tuổi ) với tổng số trẻ 34 cháu trong đó có 19 cháu nam và 15
cháu nữ bước đầu thực hiện gặp những thuận lợi khó khăn sau.
2.2.1. Thuận lợi.
Trường mầm non Đông Xuân là địa bàn gần trung tâm của huyện Đông
Sơn, lãnh đạo, các ban ngành đoàn thể địa phương cũng như các bậc phụ huynh
đặc biệt quan tâm ủng hộ.
Cơ sở vật chất nhà trường tương đối đảm bảo và ổn định, trường đạt
chuẩn Quốc gia mức độ 1, cấp độ 3 về Kiểm định chất lượng giáo dục.
Bản thân có trình độ chuyên môn Đại học sư phạm mầm non, có nhiều
năm kinh nghiệm trong giảng dạy, nhiệt tình trong công tác, yêu nghề mến trẻ,
luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công.
Lớp học được đầu tư tương đối đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi,
diện tích phòng học rộng rãi, thoáng mát đảm bảo tốt cho hoạt động chăm sóc và
giáo dục trẻ, được phân công 2 giáo viên nên thuận lợi cho việc chăm sóc và
giáo dục trẻ.
Trong lớp có một số trẻ đã học qua nhà trẻ, lớp mẫu giáo bé nên mạnh dạn
giao tiếp, biết thể hiện ngôn ngữ giọng điệu khi kể chuyện.
2.2.2 Khó khăn:
Phương tiện đồ dùng dạy học của cô, đồ dùng dạy thơ chuyện còn hạn
chế, thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin cũng như kinh phí để đầu tư cho

trang phục biễu diễn, đóng kịch cho trẻ chưa phong phú đa dạng nên ít nhiều
cũng ảnh hưởng đến chất lượng học của trẻ.
Trẻ trong lớp tuy cùng độ tuổi nhưng nhận thức của trẻ không đồng đều.
Có những cháu rất mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia vào hoạt động, nhưng
cũng có những cháu nhút nhát, ít giao tiếp, phát âm còn sai, nói ngọng, nói lắp
5


nhiều, cứ mỗi khi đến hoạt động học thì trẻ nhút nhát, không hứng thú, chóng
quên, sử dụng từ ngữ diễn đạt câu lúng túng.
Đa số trẻ trong lớp là con gia đình lao động tự do, nhiều trẻ có sức khoẻ
không tốt, hay nghỉ học nên không được học liên tục chương trình cô dạy, nên
cũng ảnh hưởng đến khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ.
2.2.3. Kết quả khảo sát đầu năm:
Thuận lợi khó khăn trên trước khi áp dụng các biện pháp tôi tiến hành
khảo sát với kết quả như sau:
Kết quả khảo sát đầu năm học
Tổng
Đạt
Chưa đạt
TT
Nội dung khảo sát
số
Số
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Số
trẻ
trẻ
%

%
trẻ
1

Trẻ phát âm đúng, rõ ràng, mạch
lạc

34

15

44,1

19

55,9

2

Trẻ sử dụng từ ngữ linh hoạt,
phong phú trong giao tiếp

34

13

38,2

21


61,8

3

Trẻ biết thể hiện ngôn ngữ, giọng
điệu trong kể chuyện sáng tạo và
kể chuyện theo trí nhớ
Trẻ mạnh dạn trả lời câu hỏi

34

13

38,2

21

61,8

34

16

47

18

53

4


Trẻ tự tin trong giao tiếp với mọi 34
15
44,1
19
55,9
người xung quanh
Với kết quả khảo sát trên tôi nhận thấy ở trẻ còn nhiều hạn chế.
- Trẻ phát âm đúng, rõ ràng, mạch lạc đạt 44.1%
- Trẻ tự tin giao tiếp với mọi người xung quanh đạt 44,1%
- Trẻ mạnh dạn trả lời câu hỏi đạt 47%
- Trẻ biết thể hiện ngôn ngữ, giọng điệu trong kể chuyện sáng tạo và kể
chuyện theo trí nhớ đạt 38,2%;
- Trẻ sử dụng từ ngữ linh hoạt, phong phú trong giao tiếp đạt 38,2%.
Từ kết quả trên tôi suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp sau nhằm nâng
chất lượng phát triển ngôn ngữ trẻ tại lớp mình phụ trách.
2.3. Các biện pháp thực hiện:
2.3.1. Biện pháp 1: Xây dựng môi trường giáo dục nhằm phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
Với mục tiêu thực hiện chuyên đề “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ
làm trung tâm” việc xây dựng môi trường giáo dục thân thiện, phong phú, hấp
dẫn an toàn phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, các dồ dùng đồ chơi
nguyên vật liệu đa dạng, phong phú là tạo cơ hội cho trẻ tìm tòi khám phá, trải
nghiệm. Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của trẻ mầm non chủ yếu thông qua
các hình ảnh trực quan minh họa, trẻ chủ yếu tiếp thu kiến thức thông qua hoạt
động vui chơi. Chính vì vậy việc tạo môi trường giáo dục cho trẻ vô cùng quan
trọng. Môi trường đẹp và phù hợp sẽ thu hút trẻ tham gia hoạt động tích cực và

5


6


hiệu quả. Bên cạnh đó tôi cũng cần xây dựng môi trường tạo điều kiện cho trẻ
thường xuyên được giao tiếp để phát triển ngôn ngữ.
Đối với môi trường trong lớp học tôi trang trí và xắp xếp đồ dùng, đồ chơi
gọn gàng, ngăn nắp, các góc chơi đảm bảo tính thẩm mĩ an toàn thân thiện phù
hợp với nội dung giáo dục trẻ. Các nguyện vật liệu, học liệu, đồ dùng, đồ chơi
đa dạng phong phú, hấp dẫn tạo môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Ví dụ: Ỏ trong lớp tôi sử dụng các kí hiệu ngôn ngữ làm tiêu đề tên các
góc chơi, tên các đồ dùng đồ chơi của trẻ, các sản phẩm, để cho trẻ làm quen
với hình học, nhận biết các kí hiệu hình học. Trang trí các góc là hình ảnh những
con vật, đồ vật, cỏ cây hoa lá trong câu chuyện, bài thơ...
Đối với góc thư viện – sách tôi làm thành nhiều cuốn Album, những cuốn
chuyện tranh, tranh chữ to, cuốn tạp chí, họa báo, các hình ảnh của các nhân vật
trong truyện mà trẻ yêu thích, cho trẻ xem tranh, kể chuyện theo tranh, nghe cô
giáo, bạn, người lớn kể chuyện, Với hình thức như vậy tôi hình thành góc thư
viện hấp dẫn với những cuốn sách, chuyện tranh, truyện cổ tích, những chuyện
trong chương trình giáo dục mà trẻ yêu thích, ngoài ra còn khuyến khích trẻ đem
những cuốn sách hay từ nhà đến lớp để trẻ chia sẻ với bạn bè.
Các cuốn sách giúp trẻ biết được quy luật đọc sách, lắng nghe cô hoặc bạn
kể chuyện; bắt chước những từ hoặc câu nói trong truyện; tự kể lại truyện; trả lời
những câu hỏi theo truyện; hiểu từ mới. Ở “Góc thư viện” tôi tạo môi trường
cho trẻ hoạt động đọc thơ, kể chuyện, tập đóng kịch vào giờ đón, trả trẻ, giờ
chơi để trẻ thoải mái nói những ngôn ngữ của các nhân vật theo cảm nhận của
trẻ trong truyện, từ đó làm giàu vốn từ cho trẻ.
Để gây được sự hứng thú cho trẻ khi tham gia vào các hoạt động đó thì
việc tạo không gian góc chơi là rất cần thiết. Chính vì vậy tôi sắp xếp các sách
tranh, chuyện tranh, tạp trí họa báo theo chủ đề cho phù hợp. Môi trường văn
học không chỉ kích thích ngôn ngữ nói cho trẻ mà qua môi trường này còn kích

thích kĩ năng nghe, kĩ năng viết cho trẻ như: Mở sách, lật từng trang, chỉ vào
tranh, quy luật đọc sách từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, từ đầu trang đến
cuối trang, sự liên tục của câu chuyện. Qua đó ngôn ngữ của trẻ phát triển
Góc thư viện của lớp tôi bố trí gần cửa sổ có nhiều ánh sáng, yên tĩnh và
ít người qua lại, ở góc thư viện sách có thảm, có bàn nhỏ cho trẻ ngồi xem đọc
sách làm cho góc thư viện – sách thêm ấm cúng và hấp dẫn hơn.

7


Đồ chơi tự làm các con vật

Đồ chơi tự làm cây hoa, rau, quả
Để có nhiều đồ chơi cho trẻ hoạt động thì việc làm đồ dùng, đồ chơi cho
trẻ là rất cần thiết. Tôi sử dụng những hộp sữa chua, kết hợp với xốp dạ, len vụn
để trang trí thành những con vật ngộ nghĩnh, cây hoa, cây xanh, cây rau...kích
thích trẻ tìm tòi khám phá, giúp ngôn ngữ trẻ phát triển. Làm bộ đồ dùng học tập
như sân khấu rối (xốp giấy tạo thành nhân vật, dùng vải làm sân khấu trẻ có thể
tham gia đóng các vai nhân vật trong các câu chuyện. Trẻ được đóng vai các
nhân vật trẻ thích thú hơn, tham gia hoạt động tích cực hơn, hoạt động trở nên
sôi nổi và hào hứng hơn, trẻ sẽ không thụ động và nhớ cốt truyện lâu hơn.
8


Môi trường ngoài lớp học là yếu tố quan trọng góp phần tích cực nâng
cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ. Vì vậy cần bố trí sắp xếp các khu vực
chơi, khu vực hoạt động khám phá, khu vực thực hành trải nghiệm một cách hợp
lý và phù hợp.
Ví dụ: Khu vực chơi với đồ chơi ngoài trời có các đồ chơi: Đu quay, cầu
trượt, bập bênh, nhà chòi...cần bố trí nơi rộng rãi cho trẻ chơi. Khu vực vườn

thiên nhiên có cây hoa, cây cảnh, trồng rau, trồng cây con cho trẻ thực hành
khám phá trải nghiệm có đường đi lối lại thuận tiện...
Trẻ hàng ngày được tiếp xúc với môi trường thiên nhiên: Cỏ cây hoa lá,
những con vật nuôi, đồ dùng, đồ chơi quen thuộc, trẻ tự do khám phá, trải
nghiệm,qua đó cô cung cấp cho trẻ kiến thức, ngôn ngữ. Ngoài ra cô tạo các
biểu tượng ngôn ngữ bằng những hình ảnh: Trẻ đang bỏ vào thùng, trẻ đang
trồng cây, trẻ đang tưới cây, nhổ cỏ, trẻ đứng vòng tay chào, hình ảnh một số
quy định tham gia giao thông. Như vậy thông qua biểu tượng giáo dục trẻ biết
quy định vệ sinh môi trường, chăm sóc cây, khi tham gia giao thông...
Qua việc tạo môi trường giáo dục trong và ngoài lớp cho trẻ, khi tiến hành
tổ chức hoạt động truyện thơ có nhiều chuyển biến tích cực, trẻ mạnh dạn tự tin
khi tham gia các hoạt động, diễn đạt câu rõ ràng mạch lạc hơn, nói phù hợp ngữ
cảnh và ngữ điệu hơn, vồn ngôn ngữ trẻ được tích lũy phát triển. Đây chính là
tiền đề vững chắc cho trẻ bướ vào cấp học tiếp thep.
2.3.2. Biện pháp 2: Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động thơ,
chuyện.
Để tổ chức hoạt động đạt kết quả thì việc rèn nề nếp thói quen trong học
tập là vô cùng quan trọng. Vì vậy trước khi bước vào đầu năm học tôi tập trung
đi sâu vào rèn nề nếp cho trẻ.
a/ Rèn nề nếp thói quen cho trẻ.
Việc rèn nề nếp cho trẻ là một yếu tố quyết định đến chất lượng hoạt
động, nếu trẻ không có nề nếp thì dù cô giáo có nói hay, dạy giỏi bao nhiêu đi
chăng nữa thì giờ dạy cũng không đem lại được kết quả cao. Khi trẻ có nề nếp
học tập tốt cùng với sự hướng dẫn của cô giáo thì ngay khi bước vào giờ học trẻ
chú ý lắng nghe say mê, hứng thú tham gia hoạt động giờ học sẽ mang lại hiệu
quả cao. Vì vậy tôi tập trung rèn luyện nề nếp cho trẻ bằng cách sau.
Ví dụ: Sếp xếp xen kẽ cháu mạnh dạn với cháu nhút nhát, cháu nam với
cháu nữ, cháu hiếu động với cháu có thói quen lễ giáo tốt, những cháu cá tích
riêng tôi cho cháu ngồi gần để tôi quán xuyến và theo dõi nhắc nhở, và đặt tên
cho tổ “Tổ Gà con, Tổ Chim non, Tổ Vịt xám” và bầu ra bạn làm tổ trưởng để

quán xuyến nhắc nhở các bạn trong tổ. Trong các hoạt động tôi luôn bao quát,
động viên, nhắc nhở, uốn nắn tác phong ngồi học. Yêu cầu trẻ ngồi học ngoan,
không nói chuyện, không nói leo, khi nào muốn nói phải giơ tay hoặc xin phép
cô, nói rõ ràng, đủ câu, khuyến khích trẻ mạnh dạn tham gia các hoạt động. Sắp
xếp chỗ ngồi cho trẻ như: Cháu mạnh dạn, cháu giỏi kèm cặp cháu yếu, cháu
nhút nhát, cháu cá tính, hiếu động tôi xếp ngồi gần cô giáo để tôi dễ quan sát và
quán xuyến dễ dàng hơn. Trong hoạt động một số trẻ chưa tích cực tham gia
hoạt động hoặc trả lời câu hỏi, còn thụ động, một số chưa thực hiện theo yêu cầu
của cô giáo, thích làm theo ý của mình... tôi thường xuyên gọi trẻ trả lời hoặc
9


nhắc lại câu trả lời của bạn, động viên khuyến khích kịp thời, khen ngợi dù có
tiến bộ nhỏ, làm như vậy trẻ sẽ hứng thú và tự tin hơn. Tôi cũng lưu ý không
chê trách với trẻ chưa có thói quen trong học tập, trẻ còn nhút nhát thì phải khéo
léo động viên và nhắc nhở bằng ngôn ngữ biểu cảm, tạo cơ hội cho trẻ được trả
lời, tôn trọng ý kiến của trẻ giúp trẻ tự tin và tham gia vào các hoạt động ở lớp.
Đối với trẻ hiếu động nghịch phá, tôi cần quan tâm đặc biệt hơn trong giờ
học, gọi trẻ trả lời thường xuyên để trẻ không nói chuyện hoặc làm việc riêng
ảnh hưởng đến bạn khác. Ngoài ra, cũng thường giao việc cho trẻ làm để trẻ cảm
thấy thích thú hơn và trẻ không có cảm giác bị bỏ rơi.
Thông qua đó tôi có thể cung cấp cho trẻ những kiến thức, những nội
dung yêu cầu mà mục tiêu bài học đã đặt ra. Đồng thời phát hiện những đặc
điểm thay đổi của trẻ để có biện pháp rèn luyện nề nếp học tập, hình thành cho
trẻ thói quen tốt. Đặc biệt tôi chú ý đến trẻ nhút nhát giúp trẻ phải mạnh dạn
giao tiếp, mạnh dạn tham gia ý kiến. Khuyến khích trẻ giỏi nói lên những suy
nghĩ, cảm nhận của mình, tạo tình huống có vấn đề cho trẻ giải quyết. Đây
không chỉ là rèn nề nếp trong học tập cho trẻ, mà còn khuyến khích trẻ được nói,
suy nghĩ để trả lời. Như vậy nói cũng là một cách cung cấp vốn từ, phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.

b/ Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động thơ, truyện.
Thông qua hoạt động dạy truyện thơ cho trẻ sẽ giúp trẻ giúp trẻ phát triển
tư duy, óc tưởng tượng, phát triển khả năng mạnh dạn, tự tin, phát triển ngôn
ngữ mạch lạc, rõ ràng hơn. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua truyện thơ
giúp trẻ có được vốn ngôn ngữ tốt nhất, tạo cho trẻ có cơ hội tự do sáng tạo, tích
lũy được những kiến thức về thế giới xung quanh một cách tự nhiên, giúp cho
trẻ mở rộng vốn từ một cách chủ động, luyện phát âm, phát triển khả năng biểu
đạt, trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ của mình, trẻ tự tin khi kể về một sự vật,
sự việc nào đó bằng chính ngôn ngữ của mình.
Khi dạy trẻ một hoạt động truyện thơ tôi cần xác định rõ mục đích, nội
dung của tác phẩm đó cung cấp cho trẻ kiến thức gì? Chuẩn bị đồ dùng ra sao?
Tổ chức hoạt động như thế nào. Đây là hoạt động cơ bản giúp trẻ rèn luyện phát
triển ngôn ngữ. Vì vậy để gây hứng thú cho trẻ tham gia hoạt động thì tôi cần
chuẩn bị tốt nội dung, tạo hứng thú giới thiệu bài để trẻ không nhàm chán, vào
bài bằng trò chơi, câu đố, bài hát hoặc tạo tình hưống có vấn đề để trẻ cùng trò
chuyện vấn đề đó.
Ví dụ: Khi dạy câu chuyện “Gà trống kiêu căng” tôi cho 2 trẻ đóng vai Gà
tồ, Mèo vàng, Chim Chích chòe và tôi đóng vai Gà trống chạy ra “Chào bạn Gà
tồ, bạn Mèo vàng, Chim Chích Chòe, chào tất cả mọi người! Các bạn ơi, bình
minh lên rồi. Gà trống phải cất vang tiếng gáy đánh thức mọi người dậy mới
được “Gà trống dậm chân, vỗ cánh cất tiếng gáy nhưng không thể gáy to được.
Ôi! Tớ không thể gáy to được. Cái mỏ của tớ tại sao lại đau thế này?” Các bạn
có biết chuyện gì đã xảy ra với Gà trống ngày hôm qua không? Vậy để biết lý do
tại sao các bạn nghe câu chuyện của tôi nhé.
Sau đó kể chuyện cho trẻ nghe 1-2 lần kết hợp tranh, trích dẫn nội dung và
đàm thoại giúp trẻ nhớ lại truyện.
+ Các bạn thấy bộ lông của tớ thế nào? Còn tiếng gáy của tớ thì sao?
10



(Giải thích từ: “Dõng dạc”là tiếng gáy to, dứt khoát, “âm vang” vang rất xa) rồi
cho trẻ làm động tác Gà trống: Dậm chân, vỗ cánh và gáy vang “Ò ó o”.
+ Gà trống là con vật như thế nào?
+ “Kiêu căng” là làm sao? (“Kiêu căng” là lúc nào cũng cho mình giỏi hơn
tất cả mọi người và không thèm chơi với ai).
+ Gà trống đã khoe gì với Gà tồ và Mèo vàng? Khi ấy tớ nói với giọng như
thế nào? (Giọng nhanh nhảu, nét mặt thể hiện sự kiêu căng, hống hách).
+ Sau khi Gà trống khoe như vậy, hai bạn đã phản ứng ra sao? Các bạn ấy
nói những gì? (Giải thích từ khó “Nói khoác” là nói sai sự thật)
+ Chuyện gì đã xảy ra vào sáng hôm sau?
+ Nếu không có tiếng gáy của tớ thì mọi chuyện diễn ra như thế nào?
+ Ai đã giúp Gà trống nhận ra sai lầm của mình?
Ví dụ: Bài thơ “Đàn kiến nó đi” của nhà thơ (Định Hải) tôi vào bài bằng câu
đố về con kiến, sau khi trẻ trả lời câu đố Con kiến tôi cho trẻ quan sát hình ảnh
con kiến trên màn hình và hỏi trẻ. Ai biết gì về con kiến? (Trẻ trả lời theo sự
hiểu biết của trẻ). Tôi khái quát và nhấn mạnh về con kiến là con côn trùng sống
theo đàn ở dưới đất, có nhiều chân. Nhà thơ Định Hải đã sáng tác bài thơ “ Đàn
kiến nó đi”
Sau khi đọc diễn cảm 1-2 lần kết hợp hình ảnh minh họa tôi trích dẫn nội
dung và đàm thoại với trẻ;
- Khổ thơ 1. “Một đàn kiến nhỏ .... Kìa trông xấu quá!” Đoạn thơ nói về đàn
kiến đi không đi theo hàng, theo lối mà chạy lung tung, chạy ngược, chạy xuôi
đang chạy bên này rồi sang bên nọ, cắm cổ, cắm đầu trông rất là xấu.
+ Trong bài thơ nói về đàn kiến đi như thế nào?
+ Khi đi như vậy trông đàn kiến làm sao?
- Khổ thơ 2. “ Chúng em vào lớp ............Rối tinh cả đàn ” Đoạn thơ nói về các
bạn nhỏ rất ngoan, biết xếp hai hàng vào lớp không giống như loài kiến làm rối
tinh cả đàn.
Giảng từ “ Rối tinh ” có nghĩa không theo hàng, theo lối, cho trẻ phát âm
từ “Rối tinh”

+ Đàn kiến thì đi như vậy, thế còn các bạn nhỏ thì sao?
+ Trong bài thơ này ai được khen?
Khi đặt câu hỏi đàm thoại cho trẻ câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng dễ hiểu
diễn đạt được ý tưởng của mình, trẻ trả lời không gò bó, mà cô luôn gợi ý với
nhiều ý kiến khác nhau cho trẻ trả lời.
Quá trình đàm thoại thì đối với trẻ nhút nhát tôi thường xuyên gọi cho trẻ
trả lời, hoặc nhắc lại câu trả lời của bạn để giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn. Nếu trẻ
trả lời đúng tôi khuyến khích tuyên dương, nếu trẻ trả lời chưa đúng tôi gợi ý trẻ
trả lời. Đối với trẻ khá tôi dùng câu hỏi để trẻ phải tư duy trả lời. Câu hỏi tôi đưa
ra phải sát với đề tài, câu hỏi không khó quá đối với trẻ. Câu hỏi phải giúp trẻ tư
duy để trả lời, có câu hỏi cho cả lớp trả lời, nhưng cũng có câu hỏi cho từng
nhóm, từng trẻ trả lời để có nhiều ý kiến khác nhau. Đối với trẻ nói ngọng, phát
âm không chính xác tôi cho trẻ được nói nhiều, hoặc cô nói cho trẻ nói theo.
* Hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo:
Việc tổ chức cho trẻ kể chuyện sáng tạo là hoạt động kích thích ngôn ngữ
11


sáng tạo của trẻ, trẻ tự kể lại câu chuyện hoặc kể chuyện theo tranh theo khả
năng cách diễn đạt của trẻ. Song để cho trẻ kể chuyện sáng tạo và mạch lạc thì
việc hướng dẫn cho trẻ kể chuyện sáng tạo rất cần thiết. Tôi tập cho trẻ nhớ tên
truyện, tên nhân vật trong chuyện sau đó tập cho trẻ kể chuyện, chú ý hướng dẫn
trẻ diễn đạt đúng giọng điệu nhân vật, kể chuyện theo nội dung có sẵn, cuối
cùng tôi gợi ý cho trẻ kể chuyện có thêm, bớt nội dung phù hợp theo tranh kể.
Ví dụ: Cô kể một đoạn đầu câu chuyện Cừu lạc đường: "Trong một khu
rừng...cừu sợ quá cứ run lên bần bật"
Lần 1: Kể diễn cảm, lần 2 kể kết hợp với trực quan, sau đó đàm thoại với
trẻ về nội dung của câu truyện
+ Trong câu truyện cô vừa kể có những con vật nào?
+ Chuyện gì đã xảy ra với cừu khi cừu bị đi lạc?

(Cô nêu tình huống: Nếu để cho chó Sói ăn thịt cừu thì các con cảm thấy như thế
nào? Làm cách nào để cứu cừu thoát khỏi tay chó Sói? Các con hãy cùng nhau
bàn bạc, sau đó kể cho các bạn nghe nhé).
Trẻ chọn bạn và về nhóm, cùng nhau thảo luận cách để cứu cừu, sau đó
cô gọi một số trẻ lên nêu cách cứu cừu mà nhóm mình vừa thảo luận.
(Trong quá trình trẻ kể, cô gợi ý một số câu hỏi để trẻ diễn đạt lời nói, cử chỉ,
điệu bộ của nhân vật như: Khi thoát nạn, thái độ của cừu như thế nào? hoặc: khi
sói bắt được cừu nó rất khoái chí, con có thể diễn tả lại điệu bộ của sói lúc đó
được không?...)

Hình ảnh cô đang dạy trẻ kể chuyện sáng tạo
* Hướng dẫn trẻ kể chuyện theo tranh.
Trước khi cho trẻ kể lại chuyện theo tranh tôi cho trẻ làm quen với câu
chuyện qua các hoạt động, mọi lúc, mọi nơi tôi kể cho trẻ nghe chuyện bằng
những quyển truyện tranh to với những hình ảnh các nhân vật rõ ràng, sống
động, đẹp mắt, nội dung câu chuyện rõ ràng, ngắn gọn. Ngoài ra, tôi còn cho trẻ
xem băng kể truyện trước giờ đón, trả trẻ với mục đích giúp trẻ ghi nhớ nội dung
12


truyện, nhớ nhân vật truyện và lời thoại của các nhân vật trong truyện. Sưu tầm
các tranh có hình ảnh đẹp, con vật ngộ nghĩnh cho trẻ quan sát và trả lời câu hỏi
gợi mở của cô, sau đó gợi ý để kể lại câu chuyện theo bức tranh cô đã chuẩn bị
Ví dụ: Cô chuẩn bị 3 bức tranh
Tranh 1: Một chú mèo đeo cặp đi học, không đội mũ có ông mặt trời tỏa nắng
Tranh 2: Chú mèo đến lớp học, nằm gục xuống bàn cô giáo mèo đang đứng bên
cạnh
Tranh 3: Chú mèo đang nằm, bác sĩ khám bệnh
Cho trẻ quan sát từng bức tranh và đặt câu hỏi trẻ “Mèo con đi đâu?”
“Bầu trời như thế nào ?” “Vì sao mèo đến bác sĩ?”... Sau đó cô gợi ý để trẻ kể

một câu chuyện theo nội dung 3 bức tranh (Quá trình trẻ kể cô gợi ý để trẻ diễn
đạt câu rõ ràng, mạch lạc theo nội dung tranh)
Ví dụ: Dạy trẻ kể lại chuyện: kể theo cả lớp, chia lớp thành nhiều nhóm
nhỏ, cá nhân kể và cho trẻ được tự do lựa chọn kể về nhân vật hoặc đoạn truyện
mà trẻ yêu thích. Trong khi trẻ cùng nhau kể lại chuyện theo nhóm, cô quan sát
và giúp đỡ khi trẻ lúng túng, mời đại diện các nhóm lên kể chuyện. Sau khi mời
đại diện của nhóm kể lại, cô đặt câu hỏi hoặc gợi ý cho trẻ nêu nhận xét ưu,
nhược điểm về khả năng nhớ truyện, về khả năng biểu cảm của các bạn. Để kích
thích hứng thú và tính tích cực tham gia kể lại chuyện, cô khuyến khích trẻ kể
từng đoạn truyện theo lối diễn kịch với đồ chơi.
Như vậy dạy trẻ kể lại truyện có nhiệm vụ tạo điều kiện để trẻ được trải
nghiệm và khắc sâu kiến thức hơn, cảm nhận về các hình tượng nghệ thuật, đồng
thời tạo cơ hội để trẻ rèn luyện các kĩ năng ghi nhớ, kể lại truyện một cách sáng
tạo và diễn cảm.
*Hướng dẫn trẻ đọc thơ: Để giúp trẻ hứng thú hơn trong hoạt động học
thơ, tôi luôn thay đổi các hình thức, xen kẽ trò chơi nhẹ nhàng để gây hứng thú
cho trẻ tích cực hoạt động. Câu hỏi cô đưa ra phải hấp dẫn tạo cho trẻ tích cực
suy nghĩ trả lời.
Ví dụ: Bài thơ “ Ông mặt trời” của nhà thơ (Ngô Thị Bích Hiền) cô hỏi trẻ
“Các con đã nhìn thấy ông mặt trời bao giờ chưa?” “Con nhìn thấy Ông mặt trời
ở đâu?” “Ông mặt trời như thế nào?” cô cho trẻ trả lời theo cách hiểu của trẻ.
Hay bài thơ “ Em yêu nhà em” của nhà thơ (Đoàn Thị Lam Luyến) cô đọc
lại câu thơ “có nàng gà mái hoa mơ” và hỏi trẻ “Gà mái hoa mơ là gà như thế
nào”, sau đó giải thích cho trẻ hiểu những con gà mái có bộ lông màu vàng điểm
trắng gọi là gà mái hoa mơ.
Khi tổ chức cho trẻ đọc thơ cô hướng dẫn trẻ đọc chậm dãi, ngắt nghỉ
đúng âm, vần nhịp điệu bài thơ, những từ khó, từ láy khi đọc đến từ đó cô nhấn
mạnh để trẻ đọc đúng. Chính cách cung cấp kiến thức mà tôi sử dụng để thu hút
trẻ đọc thơ, qua đó vốn từ của trẻ được cũng cố và nâng cao.
Có rất nhiều hình thức dạy trẻ đàm thoại, đọc thơ, kể lại chuyện, kể

chuyện theo tranh, kể chuyện bằng rối tay, kể chuyện sáng tạo... với hình thức
nào tôi cũng chú ý rèn luyện phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động truyện, thơ

13


Để giúp trẻ nhớ nội dung truyện và kể lại chuyện một cách tốt nhất, ngoài
việc đọc kể cho trẻ nghe theo phương pháp thông thường, tôi ứng dụng công
nghệ thông tin vào trong giảng dạy để mang lại hiệu quả cao.
Ví dụ: Câu truyện “Cây khế” ngoài kể chuyện theo hình ảnh minh họa, tôi
làm đoạn phim hoạt hình về nội dung câu truyện kết hợp cho trẻ xem và nghe kể
chuyện. Trẻ rất hứng thú lắng nghe giúp trẻ nhanh nhớ lời thoại của các nhân vật
trong truyện hơn. Với hình ảnh nhân vật kích cỡ lớn đã cho trẻ cảm giác như
được nghe, nói giao tiếp thực tế ngoài đời trẻ mạnh dạn tự tin kể chuyện và đàm
thoại. Như vậy ngôn ngữ nói của trẻ được cải thiện và phát triển.
Mục đích khi sử dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy là để trẻ
được trực tiếp xem các hành động, cử chỉ của các nhân vật và qua đấy trẻ được
tiếp xúc với giọng kể hay với ngôn từ phong phú và đúng với tính cách nhân vật.
Qua cách làm quen như vậy, trẻ biết nhận xét, đánh giá về đặc điểm tính cách
của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình. Bên cạnh việc kể chuyện
cho trẻ nghe và cho trẻ xem băng hình truyện, tôi còn chú ý đến việc giúp trẻ ghi
nhớ cốt truyện với nội dung và các tình tiết chính, các nhân vật chính của câu
truyện thông qua hệ thống câu hỏi, nhắc trẻ logic của câu truyện, mối quan hệ và
tác động của các nhân vật.
Ngoài việc sử dụng các hình ảnh sống động trên máy vi tính tôi còn tận
dụng chức năng ghi âm của chiếc máy điện thoại để ghi lại giọng kể của trẻ khi
trẻ kể chuyện. Sau đó tôi dùng dây kết nối giữa điện thoại với loa để bật lại cho
trẻ nghe. Ngoài việc ghi âm giọng kể của trẻ bằng điện thoại tôi còn tận dụng
chức năng quay phim để quay lại những vở kịch mà các cháu đã đóng. Qua việc

sử dụng chiếc điện thoại để quay phim và ghi âm giọng kể của trẻ tôi thấy được
hiệu quả rõ ràng trẻ hào hứng tham gia được tập kể chuyện và đóng kịch hơn, trẻ
biết chau chuốt lời nói của nhân vật và nhập vai tốt hơn. Sau khi trẻ xem các vở
kịch mà trẻ đóng tôi cho trẻ nhận xét đánh giá giọng kể của các bạn trong lớp
khá chuẩn xác. Như vậy khả năng phát triển ngôn ngữ mạch lạc của trẻ phát
triển rất tốt.

Hình ảnh tổ chức hoạt động kể chuyện theo băng hình
14


2.3.3. Biện pháp 3: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các bài đồng
dao, ca dao
Đồng dao, ca dao là những câu hát, câu vè mộc mạc gần gũi, dễ nhớ, dễ
thuộc, bởi âm vần vui tươi, rộn ràng, sự mô tả một cách sinh động, đơn giản
nhất những sự vật, sự việc của cuộc sống, từ đời sống sinh hoạt vật chất và tinh
thần, tình cảm của con người, nó có giá trị về mặt trí tuệ, tình cảm và ngôn ngữ.
Thông qua các bài ca dao, đồng dao giáo dục chuẩn mực ngữ âm; Hình thành và
phát triển vốn từ; Phát triển lời nói mạch lạc; Phát triển ngôn ngữ nghệ thuật;
Chính vì vậy nên trong quá trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ, cô giáo cần nắm
được nội dung các bài ca dao, đồng dao, biết cách lựa chọn những bài ca dao,
đồng dao phù hợp với mục tiêu giáo dục, như vậy ca dao, đồng dao sẽ là một
phương tiện hữu hiệu để giáo dục ngôn ngữ cho trẻ {6}
Những bài đồng dao, ca dao mặc dù có ngôn từ đơn giản, phù hợp với lứa
tuổi của trẻ, nhưng nó cũng bao hàm vốn sống cần thiết để trẻ chập chững khám
phá về cuộc sống. Các bài đồng dao thường có 2, 3, 4, 6 chữ... có vần, có nhịp
với lối ngắt nhịp 1-1, 2-2, 1-3... thường có lối kết cấu vòng tròn, trùng điệp.
Ngôn ngữ trong đồng dao, ca dao là ngôn ngữ hát, kể, giàu tính nhạc, giàu hình
ảnh, có sức tạo hình. Nó rất phù hợp với việc rèn cho trẻ phát âm, tích lũy vốn
từ, hiểu nghĩa từ, nắm ngữ pháp, lối nói trôi chảy, uyển chuyển.

Ví dụ: Bài đồng dao Nu na/ Nu nống/ Cái trống/ nằm trong/ Cái nong/
nằm ngoài/… Bài đồng dao này trước hết là tập cho trẻ phát âm chính xác, luyện
cho trẻ nói âm n phân biệt với l. Bài đồng dao “Con rùa” “ Rềnh rềnh ràng ràng”
dạy trẻ luyện phát âm r. Hoặc câu ca dao “Lúa nếp là lúa nếp làng, Lúa lên lớp
lớp lòng nàng lâng lâng” Khi đọc câu ca dao này trẻ rất dễ nhầm lẫn giữa l với n,
“lúa nếp” sẽ thành “núa nếp” hoặc “lúa lếp” trẻ thường phát âm sai, nói ngọng,
nói lắp... nên tôi chú ý giúp trẻ phát âm đúng âm vị.
Đồng dao, ca dao nó còn rèn sức truyền cảm trong lời nói hàng ngày, tình
cảm thái độ của mình đối với cha mẹ qua bài ca dao “Công cha như núi Thái
sơn”. Các bài ca dao, đồng dao góp phần làm giàu vốn từ cho trẻ, tích cực hóa
vốn từ, giúp trẻ hiểu được nghĩa của từ, mà còn giúp trẻ hiểu nghĩa của từ và
biết cách sử dụng chúng trong giao tiếp hàng ngày như “Con cua mà có hai
càng, đầu tai không có bò ngang cả đời”; “Con rùa mà có cái mai, cái cổ thụt
ngắn, thụt dài vào ra”; “Con voi mà có hai ngà, cái vòi nó cuốn đổ nhà, đổ cây”;
“Con kiến mà leo cành đa”.
Ca dao, đồng dao giúp trẻ phát triển lời nói mạch lạc đó là khả năng phát
âm và khả năng diễn đạt. Chính vì vậy cô giáo cần dạy trẻ nói một cách trôi
chảy, rõ ràng, lưu loát, không ngọng, không lắp. Thông qua bài ca dao, đồng dao
trẻ đọc thì trẻ đàm thoại về nội dung dưới sự hướng dẫn của cô giáo trẻ sẽ đọc
trôi chảy, sửa được các lỗi ngọng, lỗi đọc lắp. Các bài đồng dao còn đến với trẻ
trong trò chơi dân gian, các trò chơi kết hợp với lời ca thường có luật chơi. Khi
trẻ tham gia vào trò chơi, trẻ thảo luận với các bạn về cách chơi, luật chơi, giải
quyết tình huống xảy ra khi chơi. Đây là biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ
mạch lạc và cũng là hoạt động để phát triển thể lực cho trẻ.
Ví dụ: Trò chơi “Tập tầm vông”, “Nu na nu nống”, “Lộn cầu vồng”; “Thả
đỉa ba ba”; “Mèo đuổi chuột”...
15


Thông qua các bài đồng dao, ca dao còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ

nghệ thuật. Dạy trẻ cảm nhận được các hình thức nghệ thuật trong ca dao, đồng
dao. Những lời ca dao mượt mà, những câu đồng dao ngắn gọn, dễ thuộc đã rất
hấp dẫn trẻ với cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên của trẻ, kích thích tính tò mò, ham
hiểu biết ở trẻ.
Ví dụ: Bài ca dao “Con có mà đi ăn đêm ..... Đừng xào nước đục đau
làng cò con” hay bài “Con kiến mà leo cành đa......... leo phải cành cụt leo vào
leo ra” những bài ca dao này thường được các bà, các mẹ hát rcác mẹ thường
hay hát ru
Để phát huy tính tích cực của ngôn ngữ qua các bài đồng dao, thì việc tổ
chức các hoạt động cho trẻ là rất quan trọng. Hoạt động dạy trẻ đọc đồng dao, ca
dao chưa có ở các hoạt động học, chính vì vậy tôi lồng ghép đọc đồng dao, ca
dao vào các trò chơi dân gian được tổ chức ở hoạt động ngoài trời, đón và trả
trẻ, sau khi ngủ dậy.... phù hợp với chủ đề. Bên cạnh việc dạy trẻ đọc thuộc
những bài đồng dao, ca dao thì tôi luôn tìm tòi những bài đồng dao, ca dao có
nội dung của các chủ đề mà trẻ đang học để bổ xung cung cấp cho trẻ làm phong
phú nội dung học.
Ví dụ: Chủ đề Gia đình bài ca dao “Công cha như núi Thái Sơn”; “Nu na
nu nống” Chủ đề “Thế giới động vật” bài đồng dao “Con vỏi con voi” “Con kiến
mà leo cành đa” Chủ đề Thế giới thực vật bài “Lúa ngô là cô đậu nành” chủ đề
gia đình ”Nu na nu nống” “Xẻ cá mè”, chủ đề ngành nghề bài “Rềnh rềnh ràng
ràng”....
Khi dạy đồng dao, ca dao cho trẻ tôi thường dạy vừa đọc vừa chơi. Trẻ
được chơi, được đọc các câu ca dao với âm vần, nhịp điệu khác nhau sẽ giúp cho
trẻ hiểu được nội dung bài thơ hơn, từ đó trẻ có sự liên tưởng với thực tế cuộc
sống, sự liên tưởng đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thầm, truyền tải ngôn ngữ
thầm sang ngôn ngữ nói một cách dễ dàng hơn.
Khi dạy trẻ đọc thuộc đồng dao, ca dao tôi thường đọc đi, đọc lại nhiều
lần để trẻ đọc theo và ghi nhớ và học thuộc, sau đó tôi yêu cầu trẻ đọc nhanh
dần lên, tổ chức thi đua đọc giữa các nhóm, các tổ với nhau. Đó là cách làm cho
trẻ rèn âm thanh ngôn ngữ khác nhau, giúp trẻ trau dồi ngôn ngữ, nhạy bén, linh

hoạt của tư duy.

16


Trẻ chơi trò chơi “ nu na nu nống”
Ngoài những bài đồng dao, ca dao lựa chọn để giúp trẻ học đọc theo chủ
đề, tôi còn khích lệ trẻ thi đua đọc ra những câu đồng dao, ca dao trẻ đã thuộc từ
cha mẹ, anh chị, người lớn để kích thích vốn từ của trẻ thường xuyên.
Thông qua các bài ca dao, đồng dao tôi thấy được hiệu quả phát triển
ngôn ngữ rất tốt, trẻ hào hứng tham gia đọc đồng dao, ca dao và đọc đúng âm,
vần, nhịp điệu bài ca dao. Lời ca bài đồng giao, ca dao rất phong phú, nó miêu tả
không gian rộng lớn bằng những ngôn ngữ trữ tình, thiết tha qua đó mà trẻ học
thêm những ngôn ngữ phong phú trong cuộc sống. Cho trẻ đọc đồng dao, ca
dao, kết hợp cử chỉ điệu bộ giúp trẻ hứng thú và nhanh thuộc lời ca, như vậy vốn
từ của trẻ được cung cấp và cũng cố. Bên cạnh việc dạy trẻ đọc đồng dao, ca
dao tôi lồng ghép vào các trò chơi dân gian để tạo hứng thú cho trẻ khi đọc
nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất.
2.3.4. Biện pháp 4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua lồng ghép
tích hợp vào các hoạt động khác .
Phát triển ngôn ngữ thông qua các hoạt động khác cho trẻ là phương pháp
đòi hỏi ở giáo viên có sự sáng tạo linh hoạt và khéo léo khi vận dụng, quá trình
vận dụng tích hợp, lồng ghép cần lựa chọn nội dung tích hợp sao cho phù hợp,
logic, tránh quá lạm dụng làm mất đi trọng tâm hoạt động hoặc làm hoạt động bị
dán đoạn.
Đối với hoạt động âm nhạc là hoạt động bổ trợ cho trẻ làm quen với
chuyện thơ, giúp trẻ phát triển nhận thức, ngôn ngữ, hòa nhập được với thế giới
bên ngoài từ gia đình, cộng đồng, nhà trường và xã hội. Trong khi tập hát, trẻ
không chỉ tiếp thu những đường nét, giai điệu, tiết tấu âm nhạc, lời ca giản dị dễ
hiểu gần gũi với trẻ mà còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.

Ví dụ: Khi dạy chủ đề “Thế giới động vật” tôi cho trẻ hát các bài hát về
các con vật như: “Một con vịt”, “Đố biết con gì”, “ Cá vàng bơi”…Đến khi dạy
trẻ kể chuyện, đọc thơ về con vật trẻ có thể hiểu biết sâu hơn về đặc điểm các
17


con vật và kể chuyện, đọc thơ đến con vật nào thì trẻ có thể hát về các con vật
đó phù hợp với nội dung câu chuyện, bài thơ.
Đối với hoạt động tạo hình thì quá trình tìm hiểu, nhận xét tranh, đánh giá
đối tượng, miêu tả sản phẩm tạo hình sẽ tạo điều kiện phát triển ở trẻ vốn từ, lời
nói hình tượng truyền cảm và phát triển ở trẻ ngôn ngữ mạch lạc. Đặc biệt trong
hoạt động tạo hình đã hàm chứa chuỗi ngôn ngữ ở trong cảm xúc của trẻ và
được trẻ bộc lộ ra bằng ngôn ngữ của hoạt động tạo hình. Quá trình ấy, trẻ luôn
phải tư duy ngôn ngữ của mình trước khi chuyển hóa sang ngôn ngữ tạo hình. Vì
vậy ngôn ngữ ngày càng được phát triển.
Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động vẽ “Ngôi nhà của bé” tôi cho trẻ quan sát 23 tranh, khi hướng dẫn trẻ quan sát tranh trẻ chú ý quan sát tranh để miêu tả trả
lời về nội dung hình ảnh của bức tranh về ngôi nhà. Đến tranh 2 tôi yêu cầu trẻ
nhận xét và trả lời tranh 2 khác tranh 1 chỗ nào thì bắt buộc yêu cầu trẻ phải
quan sát, suy nghĩ tìm ra điểm khác tranh 1 bằng ngôn ngữ tạo hình.
Đối với hoạt động khám phá khoa học trẻ được tìm hiểu khám phá, được
trò chuyện, được nhận biết về đặc điểm của các đối tượng, các sự vật hiện tượng
xung quanh, giúp trẻ nhận biết sâu hơn, từ đó trẻ tích cực trả lời các câu hỏi, trả
lời một cách đầy đủ, rõ ràng và chích xác hơn từ đó ngôn ngữ của trẻ được phát
triển.
Ví dụ: Dạy trẻ nhận biết hoa hồng sau khi cô giới thiệu về hoa hồng cô
đàm thoại với trẻ. Các con có nhận xét gì về hoa hồng, hoặc hoa hồng có đặc
điểm gì? Ai có ý kiến khác? Cánh hoa như thế nào? Lá làm sao? Hoa hồng dùng
để làm gì?
Hoạt động chơi ở các góc: Góc Phân vai trẻ trò chuyện trao đổi với nhau
về nội dung chơi của các nhóm chơi: Nhóm chơi “Bác sĩ” trẻ trò chuyện, trao

đổi khi bác sĩ khám bệnh, kê đơn cho bệnh nhân, bệnh nhân kể về triệu trứng
bệnh của mình; Nhóm chơi “Gia đình” trẻ trao đổi trò chuyện về công việc của
các thành viên trong gia đình, cách xưng hô; Nhóm chơi “Bán hàng” trẻ trao đổi
với nhau giữa người bán hàng và người mua hàng…. Hay ở góc nghệ thuật trẻ
đóng kịch các câu chuyện. Góc thư viện sách trẻ xem tranh, kể chuyện theo
tranh...
Hoạt động ngoài trời: Khi cho trẻ ra sân cô cho trẻ kể chuyện sáng tạo về
các con vật trên mảng tường, cho trẻ vẽ con vật, đồ vật mà trẻ yêu thích qua câu
chuyện, cô trò chuyện với trẻ về nội dung quan sát, hỏi để trẻ trả lời, cho trẻ kể
những gì trẻ quan sát, trẻ nhìn thấy qua hoạt động ngoài trời đó.
Hoạt động ăn, ngủ: Cho trẻ kể về các món ăn trong ngày của trẻ như đọc
bài thơ “Đến giờ ăn”, trước khi vào giờ ngủ cho trẻ đọc bài thơ “ Giờ ngủ”, hoặc
cô trò chuyện với trẻ về các món ăn của ngày hôm đó...
Hoạt động chiều: Ngoài việc cho trẻ làm quen các bài thơ, câu chuyện
mới sẽ học tôi còn tổ chức hoạt động cho trẻ đóng kịch, kể chuyện sáng tạo, kể
chuyện theo tranh. Đây là hoạt động giới thiệu bài mới, ôn luyện nội dung đã
học. Qua đó ngôn ngữ của trẻ được luyện tập và phát triển.
Như vậy việc tích hợp các hoạt khác trong ngày là một trong những hoạt hoạt
động giúp ngôn ngữ của trẻ phát triển. Với việc dạy trẻ mọi lúc, mọi nơi có sử
dụng tác tác phẩm văn học đã giúp cho trẻ tiếp nhận vốn từ, phát triển ngôn ngữ
18


phù hợp lứa tuổi có hiệu quả. Qua biện pháp này tôi nhận thấy trẻ được cung cấp
vốn từ một cách tự nhiên không gò bó, rất hiệu quả.
2.3.5. Biện pháp 5: Làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh để phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
Công tác phối hợp với phụ huynh là việc làm rất quan trọng và có tác
dụng rất lớn, nếu làm tốt được điều này sẽ tạo được sự thống nhất giữa gia đình
và nhà trường về nội dung, phương pháp và cách thức tổ chức CSGD trẻ ở lớp

học cũng như ở gia đình. Tránh được những mâu thuẫn về cách CSGD trẻ giữa
gia đình và nhà trường tạo điều kiện cho việc hình thành thói quen và các phẩm
chất, nhân cách tốt ở trẻ sau này và có hiệu quả cao trong việc giáo dục trẻ.
Trẻ trong lớp có cùng độ tuổi nhưng nhận thức của trẻ lại rất khác nhau,
nếu giáo dục trẻ chỉ có nhà trường mà không có sự giáo dục của gia đình thì
không có hiệu quả. Chính vì vậy tôi đã phối hợp với phụ huynh để trao đổi về
tình hình học tập, cũng như khả năng về ngôn ngữ của trẻ để thống nhất biện
pháp giáo dục. Qua đó tôi cũng nắm bắt thêm được tình hình đặc điểm riêng của
từng trẻ qua phụ huynh. Để công tác tuyên truyền đạt hiệu quả thì cô giáo cần
phải tuyên truyền những gì? Tuyên truyền như thế nào? để trẻ tiến bộ về nhận
thức, tình cảm, ngôn ngữ, giao tiếp.
Ví dụ: Để thực hiện tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh, ngay từ đầu
năm học thông qua giờ đón, trả trẻ, họp phụ huynh, góc tuyên truyền của lớp tôi
tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh về nội dung chương trình học của trẻ,
thống nhất một số biện pháp chăm sóc và giáo dục, đặc biệt là tầm quan trọng
của phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua chuyện thơ. Nhắc nhở phụ huynh
hàng ngày nên dành thời gian đọc thơ, kể chuyện cho trẻ nghe, cho trẻ đọc thơ,
kể lại câu chuyện mà trẻ biết giúp trẻ khắc sâu và nhớ lâu câu chuyện, bài thơ
giúp phát triển ngôn ngữ. Đối với trẻ phát âm chưa chuẩn, chưa đúng, nói
ngọng, nói lắp nói câu còn thiếu thành phần tôi trao đổi với phụ huynh để có
biện pháp rèn luyện giáo dục trẻ thêm ở nhà.
Ví dụ: Phát động cho phụ huynh quyên góp các loại sách chuyện tranh
thiếu nhi, họa báo, tập san, lịch, báo củ để làm phong phú thêm góc thư viện và
một số nguyên vật liệu bìa cát tông, hộp sữa, lõi giấy vệ sinh, vải vụn... để làm
đồ dùng phục vụ môn học. Tôi cung cấp cho phụ huynh một số bài thơ, câu
chuyện các bài đồng dao, ca dao ở góc tuyên truyền để các bậc phụ huynh có
thêm tài liệu dạy trẻ ở nhà.
Bên cạnh đó nhắc nhở phụ huynh nên sưu tầm các bài thơ, câu chuyện,
bài hát…có nội dung hay phù hợp với trẻ. Qua đó giúp trẻ phát âm, làm giàu
vốn từ và ngôn ngữ cho trẻ phát triển.

Như vậy việc phối hợp với phụ huynh giúp trẻ được học, ôn luyện, bồi
dưỡng thêm ở nhà giúp kiến thức trẻ được khắc sâu và nhớ lâu hơn, trẻ diễn đạt
câu rõ ràng, mạch lạc hơn, câu nói đủ thành phần hơn, từ đó làm giàu vốn từ và
ngôn ngữ trẻ phát triển. Thông qua biện pháp này khi tổ chức hoạt động cho trẻ
tại nhóm lớp tôi nhận thấy được sự tiến bộ ở trẻ tăng lên rõ rệt, trẻ phát âm
chuẩn, rõ ràng mạch lạc hơn, đặc biệt là trẻ nhút nhát mạnh dạn, tự tin hơn, còn
trẻ nói ngọng, nói lắp được cải thiện rất tốt, vốn ngôn ngữ trẻ triển tốt hơn.
19


Hình ảnh phụ huynh ủng hộ các loại sách báo chuyện tranh
2.4. Kết quả đạt được.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên bản thân tôi thu được kết qủa như sau:
* Đối với phụ huynh:
Phụ huynh quan tâm và phối hợp tốt với cô giáo trong công tác chăm sóc
và giáo dục trẻ. Đặc biệt hình thức phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua dạy
chuyện thơ.
Phụ huynh tin tưởng vào chất lượng giáo dục của cô giáo, sẵn sàng ủng
hộ các nguyên vật liệu đóng góp cho lớp.
* Đối với giáo viên:
Nắm vững kiến thức, nội dung, phương pháp của hoạt động thơ chuyện để
phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Bản thân giáo viên có nhiều biện pháp, hình thức tổ
chức hoạt động chuyện thơ để phát triển ngôn ngữ cho trẻ đạt hiệu quả.
* Đối với trẻ:
Trẻ hứng thú, mạnh dạn tự tin tham gia vào các hoạt động, chuyện thơ.
Trẻ phát âm chuẩn, rõ ràng, đọc thơ diễn cảm hơn, kể chuyện rõ ràng
ngôn ngữ mạch lạc hơn, trẻ nói đủ câu, đủ từ, đúng thành phần, kết quả đạt được
cụ thể như sau;
Kết quả khảo sát cuối năm
Đạt

Chưa đạt
TT
Nội dung khảo sát
Tổng
Số
Số
Tỷ
Tỷ
số trẻ
trẻ lệ %
trẻ lệ %
1

Trẻ phát âm đúng, rõ ràng, mạch
lạc

34

32

94,1

2

5,9

20


2


Trẻ sử dụng từ ngữ linh hoạt,
phong phú trong giao tiếp

34

30

88.2

4

11.8

3

Trẻ biết thể hiện ngôn ngữ, giọng
điệu trong kể chuyện sáng tạo và
kể chuyện theo trí nhớ
Trẻ mạnh dạn trả lời câu hỏi

34

29

85

5

15


34

31

91,1

3

8,9

4

Trẻ tự tin trong giao tiếp với mọi
34
31
91,1 3
8,9
người xung quanh
Qua kết quả khảo sát tôi thấy tỷ lệ trẻ đạt tăng lên rõ rệt so với đầu năm cụ
thể như sau.
- Trẻ phát âm đúng, rõ ràng mạch lạc đạt 94,1% tăng 50 % so với đầu
- Trẻ sử dụng từ ngữ linh hoạt, phong phú trong giao tiếp đạt 88.2% tăng
50 % so với đầu
- Trẻ biết thể hiện ngôn ngữ, giọng điệu trong kể chuyện sáng tạo và kể
chuyện theo trí nhớ đạt 85% tăng 38.2% so với đầu
- Trẻ mạnh dạn trả lời câu hỏi của giáo viên đạt 91,1% tăng 44.1% so với
đầu
- Trẻ tự tin trong giao tiếp với mọi người xung quanh đạt 91,1% tăng 47
% so với đầu.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận: Qua áp dụng biện pháp và thu được kết quả trên tôi rút ra
kết luận như sau:
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua truyện thơ là một vấn đề hết sức
quan trọng và cần thiết ở trường mầm non. Cô giáo phải biết xây dựng tổ chức
hoạt động chuyện thơ một cách nhẹ nhàng hấp dẫn, nhằm phát huy tính tích cực
của trẻ qua đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Bản thân cô giáo không ngừng học tập: tự học, qua các lớp bồi dưỡng,
học hỏi đồng nghiệp, qua tài liệu, sách báo, tập san các bài viết trên mạng
Intenet có liên quan đến phát triển ngôn ngữ, coi ngôn ngữ là một phương pháp
giáo dục chủ đạo.
Cô giáo biết sáng tạo, linh hoạt sử dụng các phương pháp có hiệu quả tổ
chức dạy chuyện thơ, cũng như tích hợp các hoạt động khác phù hợp nhằm phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
Sử dụng câu hỏi phù hợp đúng lúc, đúng chỗ, kích thích sự tò mò, tạo tình
huống có vấn đề cho trẻ suy nghĩ trả lời từ đó phát triển tư duy, ngôn ngữ.
Cô giáo nắm rõ đặc điểm phát triển ngôn ngữ của từng trẻ trong từng giai
đoạn để lựa chọn phương pháp giáo dục cho phù hợp với đối tượng trẻ.
Tăng cường sưu tầm tranh ảnh, truyện tranh, các đồ dùng, đồ chơi đẹp,
đảm bảo tính thẩm mỹ và khoa học, thu hút được trẻ vào hoạt động.
Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh để có phương pháp giáo dục
phát triển ngôn ngữ cho trẻ hiệu quả.
3.2. Kiến nghị:
* Đối với nhà trường:
5

21


Hàng năm cung cấp nhiều tài liệu về truyện, thơ cho giáo viên để giáo

viên có thêm nguồn tài liệu tham khảo, nghiên cứu nhằm nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ cho
bản thân.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp nâng cao chất
lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi thông qua hoạt động
truyện thơ ở trường mầm non Đông Xuân huyện Đông Sơn” được tích lũy từ
bản thân tôi nên không sao tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vậy rất mong
Hội đồng khoa học các cấp, bạn đồng nghiệp góp ý để sáng kiến này hoàn thiện
hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Đông Sơn, ngày 12 tháng 03 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết không sao chép
nội dung của người khác.
XÁC NHẬN HĐKH CẤP TRƯỜNG
Người viết
SKKN Xếp loại:
CHỦ TỊCH HĐKH

Lê Thị Thúy

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
{1} Tham khảo trên mạng Intenet bài viết về phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm
non
{2} Giáo trình “Phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen với tác phẩm văn học”
trường Cao đảng sư pham Mẫu giáo Trung ương 3 ( Nhà xuất bản sư phạm)
{3} Modun MN 3 Đặc điểm phát triển ngôn ngữ, những mục tiêu và kết quả
mong đợi ở trẻ mầm non về ngôn ngữ.
{4} Bộ Giáo dục & Đào tạo Thông tư 28/2016/TT-BGDĐT ngày 30/12/2016
Thông tư sửa đổi bổ sung một số nội dung của chương trình giáo dục mầm non

ban hành kèm theo Thông tư 17/2009/ TT-BGDĐTngày 25/7/2009 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
{5} Tập san Giáo dục Mầm non số 4/2016 , số 1/2017
22


{6} Tài liệu “Sử dụng ca dao, đồng dao trong phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu
giáo” Tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền - Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái
Nguyên.

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Lê Thị Thúy
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường mầm non Đông Xuân, huyện
Đông Sơn
T
T

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
Kết
giá xếp loại
quả
(Ngành GD đánh
cấp
giá xếp


Năm học
đánh giá
xếp loại
23


huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

1

2

Một số biện pháp nâng cao chất
lượng hoạt động tạo hình cho trẻ 4-5
tuổi ở trường mầm non Đông Xuân, Cấp huyện
huyện Đông Sơn.
Một số biện pháp nâng cao chất
lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 45 tuổi thông qua hoạt động truyện
Cấp huyện
thơ ở trường mầm non Đông Xuân
huyện Đông Sơn

loại
(A, B,
hoặc
C)
C


A

2017-2018

2018-2019

24



×