Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

luận văn đại học sư phạm hà nội Biện pháp tổ chức TCDG nhằm phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485 KB, 103 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thế kỷ XXI loài người sống trong nền văn minh công nghiệp hiện đại,
trong đó con người là trung tâm của sự phát triển.Sự hùng mạnh của các quốc
gia trên thế giới là do tiềm năng trí tuệ quyết định, do đó phát triển năng lực
trí tuệ và năng lực hành động cho con người là một trong những xu hướng
xây dựng chiến lược giáo dục của nhiều quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ “Điều
quyết định là ở con người với trí tuệ và năng lực ngày càng cao” và Đảng ta
cũng khẳng định rõ ràng rằng “Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta
là tiềm lực con người, trong đó có tiềm lực trí tuệ” [11, tr118].
Do đó phát huy nguồn lực con người là nhân tố cơ bản của sự phát triển
nhanh chóng và bền vững của xã hội, con người vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, là nhân tố quyết định thắng lợi trong sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Để chuẩn bị nguồn năng
lực đáp ứng nhu cầu của xã hội Đảng đã chỉ rõ “Vai trò của trí tuệ, nguồn
nhân lực có trí tuệ và đi liền với nó là vai trò của giáo dục - đào tạo, đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cho sự nghiệp phát triển” [12, tr 6]
Đảng ta, nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục mầm non. Nước ta trở
thành quốc gia đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước
quốc tế về quyền trẻ em. Đồng thời xây dựng và triển khai chương trình hành
động quốc gia vì trẻ em 1991 - 2000 đã được Liên hiệp quốc đánh giá cao.
Trong Nghị quyết Trung ương II khoá VIII, đảng ta đã đề ra mục tiêu cụ
thể cho giáo dục mầm non là: “Phát triển bậc học mầm non phù hợp với điều
kiện và yêu cầu của từng nơi, đảm bảo hầu hết trẻ em năm tuổi được học
chương trình mẫu giáo lớn, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một”
Trong quá trình giáo dục trẻ em, việc phát triển trí tuệ cho trẻ có vai trò
quan trọng. Chăm sóc giáo dục trẻ thật tốt hôm nay chính là chuẩn bị cho
1
những chủ nhân tuơng lai có trí tuệ, năng động, sáng tạo, có khả năng thích
ứng với nhiều loại hình lao động mới.


Ở trường mẫu giáo, cô giáo dạy trẻ thông qua các hoạt động khác nhau,
bằng nhiều phương pháp và phương tiện khác nhau. Trong đó hoạt động vui
chơi là một nhu cầu không thể thiếu được đối với trẻ cũng giống như nhu cầu
cơm ăn nước uống hàng ngày của trẻ. Qua chơi trẻ được phát triển cả về sinh
lý, tâm lý, thể lực, trí tuệ và các mặt toàn diện khác của nhân cách. Tổ chức
tốt các trò chơi có tác dụng thoã mãn nhu cầu về nhận thức cho trẻ, giúp trẻ
phát triển tâm lý - sinh lý, thể lực, hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách của con người mới Việt nam đó là vấn đề đặc biệt quan trọng của các
trường mầm non.
Muốn trẻ hứng thú chơi, chơi có hiệu quả giáo dục cao phải có sự hướng
dẫn, tổ chức cho trẻ chơi một cách khoa học của cô giáo, đảm bảo được tính đặc
thù của loại trò chơi, phải biết sáng tạo, biết khai thác tất cả những gì đã có trong
thực tế và suy nghĩ, tìm tòi tạo thêm niềm vui mới cho trẻ bằng chính khả năng
sư phạm, lòng yêu trẻ, yêu nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên trong thực tế hiện
nay ở trường mầm non tổ chức TCDG chưa có hiệu quả do nhiều nguyên nhân:
giáo viên chưa quan tâm nhiều đến việc sử dụng các biện pháp hướng dẫn
TCDG cho trẻ và chưa duy trì hứng thú cho trẻ, ít chú ý đến việc rèn luyện kỹ
năng trong quá trình chơi, chưa kịp thời động viên khích lệ trẻ trong quá trình
chơi.Việc tổ chức cho trẻ chơi chỉ là hình thức. Chưa thực sự dựa trên sự hứng
thú của trẻ, chưa kích thích được tính tích cực hoạt động trí tuệ của trẻ chỉ chú
trọng vào phát triển thể chất là chính.Hơn nữa với yêu cầu đổi mới của giáo
dục mầm non hiện nay, các trường mầm non đang thực hiên tổ chức trò chơi
dân gian cho trẻ ở các góc chơi sao cho đạt hiệu quả giáo dục cao.
Xuất phát từ những lý do nêu trên nên tôi chọn đề tài nghiên cứu cho
luận văn cao học là: “Biện pháp tổ chức trò chơi dân gian nhằm phát triển
trí tuệ cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi”.
2
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu một số biện pháp tổ chức trò chơi dân gian nhằm phát triển
trí tuệ cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi.

3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Quá trình tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi thông
qua trò chơi dân gian.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp tổ chức trò chơi dân gian nhằm phát triển trí tuệ cho trẻ
mẫu giáo 4 - 5 tuổi.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:
Trò chơi nói chung và trò chơi dân gian nói riêng là một phương tiện
giáo dục và phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo. Hiệu quả giáo dục của trò chơi
phụ thuộc vào các biện pháp tổ chức của người lớn.
Nếu xây dựng được biện pháp tổ chức trò chơi dân gian phù hợp với trẻ
mẫu giáo 4 - 5 tuổi thì trò chơi dân gian sẽ thực sự trở thành phương tiện phát
triển trí tuệ có hiệu quả đối với trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận về trò chơi dân gian và việc phát triển
trí tuệ cho trẻ mẫu giáo thông qua trò chơi dân gian.
5.2. Tìm hiểu thực trạng sử dụng các biện pháp tổ chức trò chơi dân
gian cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi ở địa bàn nghiên cứu hiện nay (tỉnh
Đồng Tháp)
5.3. Xây dựng và thử nghiệm một số biện pháp tổ chức trò chơi dân gian
nhằm phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi ở trường mầm non.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá các tài
3
liệu trong nước và ngoài nước về các vấn đề mà đề tài nghiên cứu.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
6.2.1. Phương pháp quan sát:
Quan sát, ghi chép những hoạt động có sử dụng trò chơi dân gian ở

trường mầm non. Đặc biệt quan tâm đến các biện pháp tổ chức trò chơi dân
gian của giáo viên nhằm phát triển trí tuệ cho trẻ.
6.2.2. Phương pháp điều tra bằng Ankét:
Sử dụng Ankét để tìm hiểu về thực trạng nhận thức của giáo viên về trò
chơi dân gian và thực trạng biện pháp tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ.
6.2.3. Phương pháp đàm thoại:
Trao đổi với giáo viên mẫu giáo nhằm hiểu biết về nhận thức, thái độ của họ
đối với việc tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo ở trường, lớp mầm non.
Đàm thoại với trẻ 4 - 5 tuổi ở trường mầm non để tìm hiểu sự phát triển
trí tuệ của trẻ (về ngôn ngữ, tư duy )
6.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm:
Nghiên cứu sản phẩm của giáo viên, cụ thể là các kế hoạch tổ chức chơi
cho trẻ 4 - 5 tuổi trong các hoạt động của trẻ để tìm hiểu thực trạng sử dụng
các biện pháp tổ chức trò chơi dân gian của giáo viên hiện nay.
Nghiên cứu sản phẩm của trẻ thông qua việc trẻ chơi trong các TCDG.
6.2.5. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
Trưng cầu ý kiến của các chuyên gia, các nhà giáo dục hoạt động trong
ngành mầm non về những vấn đề có liên quan đến đề tài.
6.2.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Tác động vào nhóm thực nghiệm một số biện pháp tổ chức trò chơi dân
gian đã được đề xuất nhằm kiểm tra tính khả thi của các biện pháp này.
4
6.3. Sử dụng một số phép tính thống kê để sử lý thông tin thu thập được
trong quá trình nghiên cứu.
7. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Xây dựng cơ sở lý luận của biện pháp tổ chức trò chơi dân gian nhằm
phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi.
Đánh giá thực trạng biện pháp tổ chức trò chơi dân gian có ảnh hưởng
đến sự phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi ở trường mầm non tỉnh
Đồng Tháp.

Sưu tầm trò chơi dân gian và đề xuất một số biện pháp tổ chức trò chơi
dân gian nhằm phát triển trí tuệ cho trẻ 4 - 5 tuổi.
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục.
Nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của biện pháp tổ chức trò chơi dân
gian nhằm phát triển trí tuệ cho trẻ 4 - 5 tuổi.
Chương 2: Xây dựng một số biện pháp tổ chức trò chơi dân gian nhằm
phát triển trí tuệ cho trẻ 4 - 5 tuổi.
Chương 3: Thực nghiệm biện pháp tổ chức trò chơi dân gian nhằm phát
triển trí tuệ cho trẻ 4 - 5 tuổi.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Việc nghiên cứu sự phát triển trí tuệ của con người nói chung và trẻ em
nói riêng là một trong những vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm.
Những công trình nghiên cứu của J.Piagiê, B.Inhelder đã chỉ ra sự
hình thành và phát triển các cấu trúc trí tuệ của trẻ em ở các lứa tuổi khác
nhau trong mối quan hệ tương tác với môi trường xung quanh.
Một số nhà tâm lý học Xô Viết như L.X.Vưgôtxki, A.N.Lêônchep,
P.Ia.Gianpêrin đã nghiên cứu quá trình hình thành hành động trí tuệ ở trẻ
em, nhờ đó đã phát hiện ra cơ chế chuyển từ hành động vật chất bên ngoài
thành hành động trí tuệ (ở bên trong) và đặc điểm của các giai đoạn đó.
X.L.Rubinstein, N.A.Menchinxkaia khi nghiên cứu tư duy, đặc biệt là
các thao tác cơ bản của tư duy như phân tích, tổng hợp, khái quát hoá của học
sinh đã chỉ ra các qui luật, mức độ, đặc điểm phát triển tư duy nói chung, các
thao tác của nó nói riêng trong những điều kiện lứa tuổi và học tập khác nhau.
Những công trình nghiên cứu của L.V.Dancôp, Đ.B.Encônhin, Jerome
S.Bruner đã đi sâu phân tích khả năng học tập của học sinh dưới ảnh hưởng

của các kiểu dạy học khác nhau. Từ đó, họ đã đi đến kết luận cho rằng, học
sinh ngay từ lứa tuổi nhỏ đã có khả năng lĩnh hội hệ thống khái niệm khoa
học đích thực, trong điều kiện tổ chức hoạt động học tập thích hợp cho các em
theo một qui trình thích hợp.
Các công trình nghiên cứu của H.Valông cũng có nhiều thú vị, ông đã
dành mối quan tâm của mình vào các vấn đề cảm xúc trong trí tuệ của trẻ và
quá trình xã hội hoá các năng lực trí tuệ. Người ta có thể căn cứ vào kết luận
của ông để phân tích các giai đoạn phát triển nhân cách nói chung và trí tuệ
nói riêng.
6
Riêng ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu của trung tâm thực
nghiệm dạy học Giảng Võ đã khẳng định và phát triển các kết luận rút ra từ
những công trình của Đ.B.Encônhin, V.V. Đavưđốp về khả năng lĩnh hội các
khái niệm khoa học của trẻ em. Tại đây đã áp dụng thành công lý thuyết hình
thành hoạt động trí tuệ của P.Ia.Ganpêrin vào việc hình thành hoạt động học
tập của trẻ học sinh cấp 1 và đang từng bước triển khai trên qui mô lớn của hệ
thống giáo dục phổ thông cơ sở của nước ta. Bên cạnh những thành tựu trên
đã có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về sự phát triển trí tuệ như các công
trình của Nguyễn Kế Hào nghiên cứu về sự phát triển trí tuệ của trẻ em trước
tuổi học, Phạm Hoàng Gia về trí thông minh
Như vậy, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và
ngoài nước đã chỉ ra tiềm năng phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo là vô cùng
to lớn. Sự phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo có ảnh hưởng lớn đến tốc độ phát
triển tâm lí của trẻ, đặc biệt đến sự hình thành các phẩm chất trí tuệ cần thiết
trong trường phổ thông. Tuy nhiên, muốn đạt hiệu quả, bản thân trẻ phải nổ
lực cố gắng về trí tuệ và người lớn phải khuyến khích, động viên tạo điều kiện
cho trẻ chủ động giải quyết nhiệm vụ nhận thức một cách đúng đắn.
Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học khẳng định việc
giáo dục và phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo được thực hiện thông qua các
hoạt động (vui chơi, học tập, lao động), trong đó vui chơi giữ vai trò quan

trọng trong việc phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo. Theo N.K.Krupxkaia trò
chơi đối với trẻ không chỉ là giải trí: “Đối với trẻ mẫu giáo, trò chơi có ý
nghĩa vô cùng to lớn: trò chơi đối với trẻ là sự học tập, là lao động và nó là
một hình thức giáo dục nghiêm túc” [22 – 37]
Thực tế cho thấy hoạt động vui chơi nói chung, TCDG nói riêng từ lâu
đã cuốn hút sự quan tâm của các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau như sinh học, tâm lý học, xã hội học, giáo dục học Nhưng đến cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX các nhà khoa học mới nghiên cứu hoạt động này một
7
cách sâu sắc. Vấn đề lý luận và phương pháp tổ chức trò chơi nói chung và
TCDG nói riêng được các nhà sư phạm thế giới và Việt Nam quan tâm, bởi lẽ
họ thấy được ý nghĩa đích thực của trò chơi trong việc giáo dục và dạy học
cho trẻ.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, một số nhà giáo dục Nga như:
P.A.Bexônôva, O.P.Seia, V.I. Đalia, E.A.Pokrôvxki đã đánh giá cao vai trò
giáo dục đặc biệt là tính hấp dẫn của trò chơi dân gian Nga đối với trẻ mẫu
giáo. E.A.Pokrôvxki đã chỉ ra nguồn gốc và tính hấp dẫn đặc biệt của TCDG
Nga, đó là những trò chơi thuộc nhóm trò chơi có luật do nhân dân sáng tác,
chúng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trò chơi này đa dạng về
thể loại và phong phú về nội dung. TCDG có sức hấp dẫn lạ thường với trẻ
em bởi lẽ, chúng làm thoả mãn nhu cầu chơi, nhu cầu nhận thức và nhu cầu
xã hội của trẻ em.
Ở một số nước phương đông như Trung Quốc, Ấn Độ, người lớn cũng
đã sưu tầm các TCDG, đặc biệt là TCDG mang tính trí tuệ như “trò chơi tang”,
“trò chơi uẩn”, chơi với vật liệu thiên nhiên nhằm mục đích giáo dục trẻ.
Việc nghiên cứu trò chơi nói chung và TCDG Việt Nam nói riêng đã
được một số nhà văn hoá, nhà giáo dục Việt Nam sưu tầm, nghiên cứu như:
“Trò chơi xưa và nay” của tác giả Mai Văn Muôn (1985); “Trò chơi dân gian
của trẻ em Việt Nam” (1992) do nhóm tác giả Huy Hà, Hoàng Lân, Ngô Bích
Luận, Phan Ngọc Minh, Lê Bích Ngọc sưu tầm tuyển chọn và giới thiệu; “100

trò chơi dân gian” do Nguyễn Hạnh tuyển chọn; Trần Hoà Bình và Bùi Lương
Việt “Trò chơi dân gian trẻ em” (2007). Các tác giả đã giới thiệu về nguồn
gốc, đặc điểm và vai trò của TCDG với việc giáo dục và phát triển toàn diện
cho thế hệ trẻ. Trên cơ sở nghiên cứu TCDG, tác giả Trần Hoà Bình và Bùi
Lương Việt đã sưu tầm và phân loại TCDG trẻ em theo chức năng giáo dục
như: trò chơi trí tuệ, trò chơi thẩm mĩ, trò chơi thể lực. Từ cách phân loại này
các nhà giáo dục đã vận dụng vào quá trình tổ chức TCDG cho trẻ ở trường
8
mầm non nhằm phục hồi những trò chơi truyền thống cho trẻ em. Điều đáng
lưu ý là TCDG luôn gắn liền với các bài đồng dao, vì vậy nó luôn thu hút
được sự quan tâm của các nhà thơ, nhà văn. Họ đã sưu tầm và biên soạn rất
nhiều bài đồng dao phục vụ cho các TCDG của trẻ như: nhóm tác giả Nguyễn
Thuý Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy, Trần Hoàn sưu tập và biên soạn
“Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt”, “Bé với khúc đồng dao” của Nhà
xuất bản Giáo dục. Chính nội dung của những bài đồng dao đã góp phần phát
triển ngôn ngữ, mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ về môi trường xung quanh và
phát triển óc sáng tạo đặc biệt nó làm tăng tính hấp dẫn của TCDG với trẻ.
TCDG thật phong phú, đa dạng và có ý nghĩa sâu sắc trong việc giáo
dục trẻ. Vì vậy, nó được các nhà tâm lý, giáo dục quan tâm nghiên cứu tiêu
biểu như: PGS.TS.Nguyễn Ánh Tuyết, Trương Kim Oanh, Đào Thu Trang,
Huy Hà họ đã đề cập đến lý luận và phương pháp tổ chức TCDG cho trẻ
mẫu giáo. Các tác giả đã sưu tầm và giới thiệu được một số tài liệu tham khảo
về trò chơi như: “Hướng dẫn trẻ chơi như thế nào”, “Trò chơi của trẻ em”,
“TCDG cho trẻ em dưới 6 tuổi”, đặc biệt là đã sưu tầm và lựa chọn được
những TCDG mang tính trí tuệ như trò chơi “ô ăn quan”, “chơi chuyền”,
“chơi cờ”, “chơi tang” Đây là những tài liệu giúp giáo viên mầm non thực
hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ trong trường mầm non, nhất là
những nơi không đủ điều kiện tổ chức các loại trò chơi cho trẻ mẫu giáo.
Để TCDG trở thành một trong những phương tiện giáo dục và phát
triển toàn diện cho trẻ mầm non, trong những năm gần đây có một số tác

giả đi sâu nghiên cứu biện pháp tổ chức TCDG cho trẻ mẫu giáo như Thạc
sĩ Huỳnh Kim Vui với “Một số biện pháp tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ
mẫu giáo bé nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục thể chất cho trẻ”. Thạc sĩ
Đặng Thị Sáu với: “Một số biện pháp gây hứng thú đối với TCDG cho trẻ
mẫu giáo lớn”
9
Điểm qua các công trình nghiên cứu trên cho thấy, từ trước đến nay trò
chơi nói chung, TCDG nói riêng được sử dụng nhiều trong các trường mầm
non Việt Nam và được coi là một bộ phận quan trọng trong chương trình
chăm sóc - giáo dục trẻ mầm non. Nhưng trên thực tế giáo viên chưa khai thác
hết tiềm năng của các loại trò chơi, đặc biệt là TCDG nhằm mục đích phát
triển trí tuệ cho trẻ.
TCDG hiện nay đang dần mai một đi, trẻ có ít cơ hội được chơi những
TCDG cổ truyền, được tiếp xúc với nền văn hoá của các thế hệ, mở rộng vốn
hiểu biết về cuộc sống Trước tình hình này đòi hỏi các nhà nghiên cứu, các
giáo viên mầm non cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra các biện pháp thích hợp
để khai thác tiềm năng của TCDG trong quá trình giáo dục trẻ mầm non. Tuy
đã có khá nhiều những công trình nghiên cứu về vai trò của trò chơi nói
chung, TCDG nói riêng với sự phát triển của trẻ em, để TCDG trở thành món
ăn tinh thần, một phương tiện phát triển trí tuệ cho trẻ em nói chung và trẻ
mẫu giáo 4 - 5 tuổi nói riêng, thì việc nghiên cứu “Biện pháp tổ chức TCDG
nhằm phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi” có ý nghĩa cả về lý luận
và thực tiễn đối với vấn đề tổ chức TCDG ở trường mầm non hiện nay.
1.2. Cơ sở lý luận của biện pháp tổ chức trò chơi dân gian nói chung và
trò chơi dân gian nhằm phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo
1.2.1. Một số vấn đề về sự phát triển trí tuệ của trẻ em
1.2.1.1. Khái niệm chung về sự phát triển trí tuệ.
1.2.1.1.1. Khái niệm
Trong quá trình phát triển tâm lí, sự phát triển trí tuệ đóng một vai trò
thiết yếu góp phần hình thành đời sống tâm lí của con người, vì vậy muốn tìm

hiểu sự phát triển tâm lí của trẻ em, cần quan tâm nghiên cứu sự phát triển trí
tuệ của trẻ.
Trí tuệ là một phần cơ bản trong nhân cách con người, nó có vai trò to
lớn và làm cơ sở cho mọi thái độ, hành động của con người đối với thế giới
10
khách quan. Mức độ định hướng đúng đắn cho sự hình thành nhân cách phụ
thuộc nhiều vào trình độ phát triển trí tuệ.
Sự phát triển trí tuệ là khái niệm rộng được nhiều nhà tâm lí học quan
tâm nghiên cứu. Tuy nhiên còn nhiều ý kiến chưa thống nhất về vấn đề này và
hiện còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Có thể khái quát một cách tương
đối các quan niệm đã có về trí tuệ thành ba nhóm:
a. Nhóm 1: Coi trí tuệ là khả năng lao động và học tập của cá nhân.
Quan niệm này đã có từ lâu và khá phổ biến. Chẳng hạn theo nhà tâm lí
học Nga B.G. Ananhev, trí tuệ là đặc điểm tâm lí phức tạp của con người mà
kết quả của công việc học tập và lao động phụ thuộc vào nó. Thực ra mối quan
hệ giữa học tập với khả năng trí tuệ của cá nhân đã được các nhà sư phạm quan
tâm từ lâu. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy rằng giữa hai yếu tố này có
quan hệ nhân quả với nhau. Tuy nhiên đây không phải là quan hệ tương ứng 1 -
1. Ngay từ những năm 1905, nhà tâm lí học Pháp A.Binet (1857 - 1911) đã
nghiên cứu bằng test trí lực và xác định được những học sinh kém do khả năng
trí tuệ và những em do lười hoặc do những nguyên nhân khác.
b. Nhóm 2: Đồng nhất trí tuệ với năng lực tư duy trừu tượng của cá nhân:
nhóm quan điểm thứ hai về thực chất đã quy hẹp khái niệm trí tuệ vào các
thành phần cốt lõi của nó là tư duy và gần như đồng nhất chúng với nhau.
Trên thực tế, nhóm quan niệm này là phổ biến: A.Binet (1905); L.Terman
(1937); G.X.Côtxchuc (1971); V.A.Cruchetxki (1976); R.Sternberg (1986);
D.N.Perkins (1987).
c. Nhóm 3: Trí tuệ là năng lực thích ứng tích cực của cá nhân:
Nhóm quan niệm thứ ba, coi trí tuệ là khả năng thích ứng của cá nhân
được phổ biến hơn cả và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lớn:

U.Sterner; Piaget; Đ. Wechler; R.Zazzo có thể dẫn ra một số trong nhóm
quan điểm này: theo Piaget (1969) bất kỳ trí tuệ nào cũng đều là một sự thích
ứng. D. Wechler (1939) cho rằng: “Trí tuệ là khả năng tổng thể để hoạt động
11
một cách có suy nghĩ, tư duy hợp lý, chế ngự được môi trường xung quanh.
Trí tuệ là khả năng xử lý thông tin để giải quyết vấn đề và nhanh chóng thích
nghi với tình huống mới”(F.Raynal; A.Riennier - 1997). Trí tuệ là khả năng
hiểu các mối quan hệ sẳn có giữa các yếu tố của tình huống và thích nghi để
thực hiện cho lợi ích bản thân (N.Sillamy - 1997).
Ngoài các nhóm quan niệm trên, còn có các cách hiểu khác nhau về trí
tuệ, hướng tiếp cận riêng của mỗi nhà nghiên cứu. Các ngành tâm lí học
Ghestan quan tâm nhiều đến thành phần sáng tạo trong các thao tác trí tuệ của
cá nhân. Các nhà trắc nghiệm học quan tâm nhiều đến hiệu quả thực hiện các
bài tập do nhà nghiên cứu đưa ra.
Thực ra, các quan niệm về trí tuệ không loại trừ nhau. Trong thực tiễn
không có quan niệm nào chỉ chú ý đến duy nhất một khía cạnh năng lực tư
duy hay khả năng thích ứng, mà thường đề cập đến hầu hết các nội dung đã
nêu trên. Sự khác biệt giữa các quan niệm chỉ là ở chổ khía cạnh nào được
nhấn mạnh và nghiên cứu sâu hơn. Có một quan niệm theo chúng tôi là phù
hợp với xu hướng hiện nay: “Trí tuệ là một mặt cơ bản của nhân cách là khả
năng phát hiện, tiếp cận và xử lý thông tin để giải quyết những tình huống
mới, trong mối quan hệ giữa chủ thể hoạt động với môi trường hoạt động
nhằm thích ứng tích cực với điều kiện của cuộc sống”.
Theo quan điểm của Vưgotxki, trí tuệ có hai mức độ là trí tuệ bậc thấp và
trí tuệ bậc cao. Trí tụê bậc thấp có phần giống với trí tuệ động vật được đặc
trưng bởi mối quan hệ trực tiếp kích thích - phản ứng. Trí tuệ bậc cao đặc
trưng bởi sự tham gia của ngôn ngữ và mối quan hệ gián tiếp giữa chủ thể với
đối tượng thông qua công cụ tâm lý. Như vậy, phương tiện làm trung gian của
trí tuệ bậc cao đó là ngôn ngữ (hệ thống tín hiệu thứ hai). Vốn tâm lý là
phương tiện giúp chúng ta phát hiện, tiếp cận xử lý thông tin. Khả năng trí tuệ

phụ thuộc rất nhiều vào ngôn ngữ và vốn tâm lý. Có thể thấy, trẻ em khi phát
triển ngôn ngữ thì phát triển trí tuệ và khi trí tuệ phát triển rất cao thì chức
năng tâm lý được cải tổ phát triển cao.
12
Điều quan trọng là trí tuệ - theo quan điểm tâm lý học trẻ em. Trí tuệ
được hiểu là một nội dung tâm lý điều khiển hành động của con người trong
những tình huống hoàn toàn mới lạ mà hành động đó hợp quy luật nhanh,
chính xác mang lại hiệu quả cao. [15, tr 125]
Từ quan niệm của các nhà nghiên cứu, chúng ta thấy rằng trí tuệ là một
khái niệm rộng, khi nghiên cứu phải xem xét trên nhiều khía cạnh khác nhau
thì mới có thể nghiên cứu về trí tuệ một cách đầy đủ được. Mỗi nhà nghiên
cứu đều có lý khi đưa ra luận điểm của mình để giải thích và khái quát về trí
tuệ, nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu đã gặp nhau ở quan điểm chung
nhất là xem xét trí tuệ dựa trên thực tiễn hoạt động của con người bởi tất cả
các quá trình nhận thức đều phải thông qua hoạt động bằng các hành vi cụ thể
mới có thể lĩnh hội được những yêu cầu của nhận thức.
1.2.1.1.2. Cấu trúc của trí tuệ.
Khi xem xét về cấu trúc của trí tuệ, ta dựa trên cơ sở của các thuyết khác
nhau về cấu trúc trí tuệ: thuyết đơn nhân tố và thuyết đa nhân tố.
Thuyết đơn nhân tố của G.Spearman cho rằng có một nhân tố chung
cho mọi thao tác và nhân tố riêng cho từng năng khiếu. Như vậy, trí tuệ
chung có nguyên nhân sinh học - đó là chức năng mềm dẻo, linh hoạt của
hệ thần kinh trung ương; còn các nhân tố riêng cho từng năng khiếu phải
dựa trên nhân tố chung.
Thuyết đa nhân tố của E.Thorndike cùng cộng sự thì cho rằng trí tuệ
bao gồm nhiều nhân tố, nhiều thành phần. Bất kỳ một hành động trí tuệ nào
cũng chứa đựng một loạt các thành phần tác động qua lại với nhau và
những thao tác trí tuệ nhất định đều có một nhân tố nguyên thuỷ chung
nhất “Mỗi nhân tố có thể coi như là tổng hợp giữa một nhân tố độc lập với
một nhân tố tổng quát chung cho các nhân tố khác”.

Từ hai thuyết trên chúng ta thấy rằng điểm chung hợp lý của cấu trúc trí
tuệ làm điểm tựa cho việc nghiên cứu thực tiễn trí tuệ của trẻ em mẫu giáo là:
13
Trí tuệ là cấu trúc nhiều thành phần.
Nội dung trí tuệ bao gồm cái phản ánh và phương thức tạo ra cái phản
ánh (các thao tác trí tuệ)
1.2.1.1.3. Các thành phần của trí tuệ.
a. Tri giác.
Tri giác là quá trình nhận thức, phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc
tính của sự vật và hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan.
Tri giác là một thành phần của trí tuệ, nó có ý nghĩa quan trọng trong sự
phát triển tâm lý trẻ, nó tham gia tích cực vào hoạt động trí tuệ của cá nhân,
giúp cho trẻ nhận thức đầy đủ hơn về thực tại và nguyên liệu chủ yếu cho quá
trình tư duy.
Tri giác sự vật như là đối tượng phức tạp đòi hỏi chức năng phân tích tổng
hợp của vỏ não. Vì vậy muốn quá trình tri giác sự vật được tốt, trẻ cần phải quen
thuộc với đối tượng đó, cần phải biết đối tượng đó thuộc nhóm đối tượng nhất
định nào, phải biết được tên gọi của sự vật cụ thể thì trẻ mới hiểu biết được cái
mà mình tri giác.
Trong quá trình tri giác, trẻ thu thập vốn tri thức cá nhân, đồng thời nắm
vững kinh nghiệm xã hội. Sản phẩm tri giác càng phong phú thì càng cung
cấp nhiều nguyên liệu cho hoạt động trí tuệ. Trẻ nhận ra những đối tượng
riêng biệt, hoàn toàn không liên hệ lẫn nhau, vạch ra những liên hệ chức năng
của chúng, phát hiện những quan hệ sâu sắc hơn giữa các sự vật và hiện
tượng, giữa các nguyên nhân, các liên hệ, hoàn cảnh, mục đích Tri giác
được hình thành trong suốt thời gian phát triển của trẻ và cùng với sự phát
triển của lứa tuổi thì khả năng tri giác của trẻ ngày càng phát triển hoàn thiện.
Sự hoàn thiện của tri giác không tách rời sự phát triển chung về trí tuệ ở trẻ.
b. Trí nhớ.
Trí nhớ là một thành phần cũng rất quan trọng của trí tuệ. Đó là sự

củng cố và tái hiện những hình ảnh của sự vật và hiện tượng đã tri giác
14
trước đây bằng cách hình thành và làm sống lại những đường liên hệ tạm
thời trong óc người.
Trí nhớ là thành phần không thể thiếu được của trí tuệ, nó tham gia tích
cực vào hoạt động trí tuệ. Trí nhớ là cơ sở cho tư duy. Nhờ có trí nhớ mà con
người phản ánh được những điều trãi qua trước kia mà hiện tại không tác
động lên nó. Không có bất cứ hoạt động nào của con người mà không dựa vào
trí nhớ. Trí nhớ giúp con người tìm ra được mối quan hệ, liên hệ giữa các sự
vật và hiện tượng trong các thời điểm khác nhau. Sự phát triển trí nhớ sẽ nâng
cao khả năng phát triển của trẻ. Sự đón trước kết quả hành động của mình là
mầm móng của sự phát triển tưởng tượng, tính linh hoạt của tri thức tạo nên
sự phong phú của trí nhớ và mở rộng khả năng hoạt động độc lập, cung cấp
khả năng sử dụng rộng rãi những tri thức đó vào hoạt động sáng tạo. Vì vậy
trong quá trình phát triển trí tuệ, việc rèn luyện, bồi dưỡng trí nhớ là nhiệm vụ
rất quan trọng, hình thành khả năng kết hợp các giác quan với các quá trình
ghi nhớ càng cao thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển trí tuệ.
c. Tư duy.
Tư duy là một hoạt động nhận thức cấp cao nhằm phản ánh những thuộc
tính bản chất, những quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng trong hiện
thực khách quan, phản ánh một cách gián tiếp và khái quát những điều mà
trước đó ta chưa biết. Tư duy có vai trò to lớn trong hoạt động của con người
mà nhờ nó con người đã nhận thức đầy đủ, sâu sắc về bản chất của sự vật,
hiện tượng. Tư duy là cốt lõi của mọi hoạt động trí tuệ, nó được bắt nguồn từ
hoàn cảnh có vấn đề, là sự kiện mới mẻ, là những cái mà con người chưa nắm
bắt được. Quá trình tư duy được thực hiện trên cơ sở những kinh nghiệm mà
con người đã tích luỹ được, những biểu tượng, khái niệm, kỹ năng và các biện
pháp hoạt động tư duy đã có. Mối liên hệ này của tư duy và trí thức bộc lộ rõ
ràng trong giai đoạn đầu của quá trình tư duy. Tư duy là sự thao tác của trí
thức. Các tri thức càng được hệ thống hoá, càng mềm dẻo và linh hoạt thì con

người có thể sử dụng nó trong hoạt động tư duy càng có kết quả
15
d. Tưởng tượng.
Tưởng tượng là một hoạt động phản ánh của con người nhằm tái tạo lại
một biểu tượng về một sự vật hoặc hiện tượng đã có trong thế giới khách quan
những chưa có trong kinh nghiệm của cá nhân hoặc sáng tạo ra một biểu
tượng mới về sự vật hiện tượng của tương lai trên cơ sở các biểu tượng của
thế giới hiện thực đã có trong kinh nghiệm của cá nhân.
Tưởng tượng có một vai trò quan trọng trong hoạt động trí tuệ của con
người, nó điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người. Nhờ có tưởng tượng
mà con người dựng được những hình ảnh tâm lí mới về sự vật và hiện tượng
dựa trên cơ sở những biểu tượng đã có. Tưởng tượng như cái cầu nối giữa
nhận thức và hành động. Nó là một trong các động lực thúc đẩy con người từ
hoạt động nhận thức sang hoạt động sáng tạo, đồng thời tưởng tượng là động
lực thúc đẩy con người hoạt động hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
e. Ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là hình thức độc đáo để con người nhận thức đối tượng và hiện
tượng thực tế, là phương tiện để con người giao tiếp với nhau.
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong sự phát triển nhận thức. Ngôn ngữ
không chỉ là công cụ, phương tiện của tư duy mà nó còn giữ một vai trò to lớn
trong các quá trình tâm lí khác. Ngôn ngữ dùng làm phương tiện để phân biệt,
phân tích các đối tượng, ngôn ngữ tham gia vào các quá trình trí nhớ, làm cho
trí nhớ mang tính chất logic, có ý nghĩa. Nhờ có ngôn ngữ mà con người điều
khiển, điều chỉnh được hành vi của mình. Sự lĩnh hội ngôn ngữ như là
phương tiện phân tích nhiều mặt khác nhau của sự vật và hiện tượng trong
hiện thực khách quan và đồng thời thống nhất, tổng hợp các sự vật và hiện
tượng trong cùng một nhóm, một phạm trù sẽ dẫn đến sự phát triển nhanh
chóng các hình thức hoạt động trí tuệ cao hơn. Trong quá trình phát triển và
khôn lớn của đứa trẻ, ngôn ngữ dần được hoàn thiện và phá triển cùng với sự
phát triển của trí tuệ.

16
Chúng ta có thể thấy rằng con người sở dĩ đứng trên muôn loài là do có
khả năng rất lớn vê tư duy. Nhưng tư duy cũng như tri giác và trí nhớ làm cơ
sở cho nó sẽ bị giảm đi rất nhiều hoặc không phát triển nếu con người sử
dụng nó song song với các thành phần khác mà không có sự liên hệ với nhau,
nhất là sự kết hợp với ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ không thể thiếu được
cho sự phát triển tư duy. Ngôn ngữ được coi như là một hoạt động tượng
trưng trong số các hoạt động tượng trưng khác, tiến triển theo nhịp độ nhận
thức của trẻ. Bên cạnh đó, sự phát triển của tư duy còn được kết hợp với sự
phát triển của các quá trình biểu tượng như là các khái niệm. Chính các khái
niệm đã giúp cho trẻ sắp xếp các thông tin và dự kiến, các hậu quả của hành
động đối với thế giới bên ngoài.
Như vậy, con người tồn tại và phát triển được là nhờ có hoạt động nhận
thức hay chính các thành phần của trí tuệ. Tất cả các thành phần của trí tuệ có
sự liên hệ biện chứng với nhau xây dựng nên cấu trúc của trí tuệ.
1.2.1.1.4. Các thao tác trí tuệ.
Vấn đề cốt lõi của trí tuệ là tư duy. Nói đến trí tuệ trước hết phải nói đến
tư duy. Tư duy là một trong những thành phần cơ bản quan trọng nhất của trí
tuệ. Hoạt động tư duy đòi hỏi cùng một lúc phải thực hiện nhiều thao tác, thao
tác càng được thực hiện chính xác thì kết quả tư duy càng cao dẫn đến sự phát
triển trí tuệ đạt kết quả cao.
Các thao tác tư duy bao gồm:
a. Thao tác phân tích:
Phân tích là việc chia sự vật trong ý nghĩ ra thành những thành phần cấu
thành của sự vật.
Con người dùng trí óc để phân chia đối tượng thành các chi tiết, nhiều
thành phần bộ phận để phản ánh một cách chính xác, rõ ràng theo yêu cầu của
nhiều hoạt động nhằm nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn hơn về đối tượng
17
b. Thao tác tổng hợp:

Tổng hợp là sự xác lập trong ý nghĩ mối liên hệ và sự hợp nhất các sự
vật, các bộ phận hay dấu hiệu của chúng.
Thao tác tổng hợp là quá trình bao quát phối hợp nhiều chi tiết, bộ phận,
thành phần đã tách rời nhờ kết quả của sự phát triển hoạt động phân tích nhiều
sự vật và hiện tượng riêng lẽ thành một chỉnh thể, từ đó nghiên cứu nó trong
mối quan hệ thống nhất, hoàn chỉnh.
c. So sánh.
So sánh là việc con người dùng trí óc để đối chiếu các sự vật trong ý
nghĩ, tìm ra những đặc điểm giống nhau hoặc khác nhau, đồng nhất hay
không đồng nhất của sự vật và hiện tượng từ đó tìm ra mối quan hệ bản chất
của chúng.
So sánh - phân tích - tổng hợp là ba mặt cơ bản của quá trình nhận thức.
Nếu phân tích tốt thì quá trình so sánh sẽ trở nên cụ thể, chính xác hơn. Sự
phân tích, tổng hợp là hai thao tác tư duy gắn bó với nhau, là điều kiện cần
thiết để nắm vững tri thức một cách chính xác, khoa học nhằm giải quyết
nhiệm vụ của thực tiễn một cách có hiệu quả.
d. Trừu tượng hoá.
Trừu tượng hoá là quá trình con người tách một thuộc tính hay dấu hiệu
nào đó của sự vật mà những thuộc tính, dấu hiệu này được suy nghĩ một cách
cô lập khỏi bản thân sự vật, khỏi những dấu hiệu khác của sự vật và giữ lại
những dấu hiệu, thành phần quan trọng phục vụ cho mục đích hoạt động mà
vẫn trừu tượng hoá khiến cho kết quả tư duy chính xác, tập trung hơn.
e. Khái quát hoá.
Khái quát hoá là việc hợp nhất trong ý nghĩ những sự vật và hiện tượng
của hiện thực có một số thuộc tính chung nào đó.
Trong quá trình tư duy cần phải có quá trình trừu tượng và khái quát để
hình thành khái niệm.Tất cả các quá trình tư duy: phân tích, tổng hợp, so
18
sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá thực hiện được là nhờ có ngôn ngữ. Việc
dùng từ làm tín hiệu cho phép trừu tượng hoá một số thuộc tính riêng lẻ khỏi

những thuộc tính khác của một sự vật nào đó, đồng thời cho phép ta khái quát
hoá những kích thích giống nhau trực tiếp tác động vào ta - đó là cơ sở sinh lý
của quá trình tư duy.
Con người không tiếp thu hoạt động tư duy và tự nhiên dưới dạng sẵn có
mà phải có học tập, suy nghĩ, lĩnh hội những thao tác tư duy. Con người cần
phải khéo léo điều chỉnh quá trình này, kiểm tra không những chỉ các kết quả
của hoạt động tư duy mà còn phải kiểm tra cả tiến trình hoạt động đó thì hoạt
động nhận thức mới thật sự đạt hiệu quả.
Như vậy, muốn hoạt động đạt hiệu quả cao cần phải có sự phối hợp của
nhiều thao tác tư duy và sự tham gia của các thành phần trí tuệ một cách tích
cực, có hiệu quả, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển trí tuệ.
1.2.1.2 Sự phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo:
Trí tuệ là một thành tố cơ bản trong nhân cách con người, là một nội
dung tâm lý điều khiển hành động của con người trong những tình huống,
hoàn cảnh mới lạ mà hành động đó hợp quy luật, nhanh, đúng, chính xác
mang lại hiệu quả cao.
Theo các nhà nghiên cứu tâm lý học như: P.Ia.Galperin, Đ.B.Econhin,
J.Piaget thì vấn đề cốt lõi của hoạt động trí tuệ vẫn là sự biểu hiện bằng hình
thức tư duy. Các nhà tâm lý học này gặp nhau ở quan điểm chung cho rằng:
Sự phát triển trí tuệ của trẻ em là quá trình biến đổi tâm lý ở hoạt động nhận
thức, tạo ra những cấu trúc (cấu tạo) tâm lý mới theo khuynh hướng kế thừa
và phủ định những cấu trúc đã có của cá nhân theo xu hướng phát triển đi lên.
Sự phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo là sự phát triển của quá trình nhận
thức và thao tác trí tuệ, nổi bật lên là sự phát triển tư duy và ngôn ngữ. Sự
phát triển tư duy của trẻ em có liên quan chặt chẽ với sự hoàn thiện tri giác.
19
Nếu trong lứa tuổi nhà trẻ tư duy diễn ra trong quá trình những hành động đối
tượng thì ở trẻ mẫu giáo tư duy bắt đầu đi trước hành động thực hành. Điều
đó diễn ra là do đứa trẻ đã học được cách chuyển những phương thức hành vi
có trong kinh nghiệm quá khứ sang hoàn cảnh mới nhưng không đồng nhất

với hoàn cảnh đầu tiên.
Sự hình thành những hành động trí tuệ là cơ sở cho sự phát triển tư duy
của trẻ mẫu giáo. Điểm xuất phát của sự hình thành đó là hành động thực đối
với những đối tượng vật chất. Từ hành động như vậy trẻ chuyển sang hành
động bên trong rút gọn với những đối tượng vật chất tưởng tượng và cuối
cùng chuyển sang những hành động thực hiện hoàn toàn trong bình diện bên
trong, ở đó những đối tượng được thay thế bằng những biểu tượng hoặc
những khái niệm. Những hình thức tư duy trực quan hình tượng và tư duy
logic - khái niệm của trẻ được hình thành.
1.2.1.3. Đặc điểm phát triển trí tuệ của trẻ 4 - 5 tuổi:
Hạt nhân của trí tuệ là tư duy, nhiều nhà tâm lý học coi các thao tác tư
duy: phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá là các thao tác trí
tuệ, coi trình độ phát triển các thao tác này là trình độ phát triển trí tuệ.
Như vậy, đặc điểm phát triển trí tuệ của trẻ 4 - 5 tuổi là sự biểu hiện
của hình thức tư duy bằng hình ảnh trực quan, là sự biểu hiện của năng lực trí
tuệ trực quan ở trẻ. Tư duy hình ảnh trực quan ở trẻ ra đời là sự biến đổi về
chất trong sự phát triển trí tuệ ở trẻ (trước đó trẻ chỉ có tư duy bằng hành động
cụ thể).
Trong tư duy hình ảnh trực quan trẻ không những biết được mối quan hệ
giữa các thành phần, bộ phận trong một vật thể trọn vẹn mà chúng còn biết
được mối quan hệ của nhiều sự vật. Thao tác so sánh ở giai đoạn này xuất
hiện có mục đích rõ ràng là phương tiện để nâng dần lên khả năng khái quát
và trừu tượng hoá.
Ở tuổi mẫu giáo nhỡ, tư duy đang trên đà phát triển mạnh giúp trẻ dự
20
kiến được hành động, lập kế hoạch cho hành động của mình. Trẻ mẫu giáo
nhỡ bắt đầu đề ra cho mình những bài toán nhận thức, tìm tòi cách giải thích
các hiện tượng mà mình nhìn thấy được. Trẻ thường thử nghiệm, chăm chú
quan sát các hiện tượng và suy nghĩ những hiện tượng đó để rút ra kết luận.
Tất nhiên những kết luận đó còn ngây ngô, ngộ nghĩnh và nhiều khi còn gây

bất ngờ với người lớn. Phần lớn, trẻ ở tuổi mẫu giáo nhỡ đã có khả năng suy
luận, vấn đề là cần phải xem xét để biết chúng suy luận theo kiểu tư duy nào?
Phần lớn ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ đã có khả năng giải quyết các bài toán
bằng các “Phép thử ngầm trong óc” dựa vào các biểu tượng. Như vậy kiểu tư
duy trực quan hình tượng đã chiếm ưu thế. Tư duy trực quan hình tượng phát
triển mạnh cho phép trẻ em ở độ tuổi này giải được nhiều bài toán thực tiễn
mà trẻ thường gặp trong đời sống. Tuy vậy, vì chưa có khả năng tư duy trừu
tượng nên trẻ chỉ mới dựa vào những biểu tượng đã có, những kinh nghiệm đã
trãi qua để suy luận ra những vấn đề mới. Vì vậy trong khá nhiều trường hợp
chúng chỉ dừng lại ở các hiện tượng bên ngoài mà chưa đi sâu được bản chất
bên trong, dẫn đến nhiều khi trẻ giải thích các hiện tượng một cách ngộ
nghĩnh. Trẻ dễ lẫn lộn thuộc tính bản chất và không bản chất của sự vật hiện
tượng xung quanh nên thường hay suy luận theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa.
Do đó trong khi giúp trẻ phát triển mạnh tư duy hình tượng, cần phải uốn nắn
những suy luận quá lệch lạc của trẻ và cung cấp cho trẻ những hiểu biết cần
thiết để trẻ có suy luận đúng. Trước hết đó là việc cung cấp biểu tượng cho trẻ
một cách phong phú và chính xác qua những buổi đi chơi, đi dạo Đặc biệt là
qua các buổi chơi, tiết học cần giúp trẻ hệ thống hoá và chính xác hoá dần
những biểu tượng về thế giới xung quanh.
Tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh sẽ tạo những tiền đề cần
thiết để làm nảy sinh những yếu tố ban đầu của kiểu tư duy trừu tượng. Loại
tư duy này sẽ được phát triển ở giai đoạn sau và chỉ có thể phát triển một cách
lành mạnh khi nó có chỗ dựa là những hình tượng rõ ràng và đúng đắn.
21
Trí tuệ của trẻ em được hình thành bằng chính hoạt động của nó, sự phát
triển trí tuệ của trẻ em phụ thuộc trước hết vào hoạt động nào giữ vai trò của
hoạt động chủ đạo trong từng giai đoạn. Vì vậy, hình thành và phát triển trí
tuệ trẻ em ở lứa tuổi này gắn liền với việc tổ chức các hoạt động giáo dục (tổ
chức trò chơi dân gian cho trẻ)
1.2.1.4. Các điều kiện phát triển trí tuệ cho trẻ mầm non.

Trí tuệ là một nội dung tâm lý điều khiển hành động của con người, trí tuệ
xuất phát từ hành động và xây dựng những cấu trúc như là sự kéo dài của hoạt
động . Ngay trong biểu hiện cao cấp của trí tuệ thì trí tuệ chỉ hoạt động nhờ
những công cụ của tư duy, bao hàm việc thực hiện và liên kết các hoạt động.
Vậy điều kiện nào đảm bảo sự phát triển của trí tuệ?
*Điều kiện xã hội:
Theo các nhà nghiên cứu A.Liublinxkaia, A.V.Petrovski thì sự phát
triển trí tuệ của trẻ em là quá trình trẻ nắm vững kinh nghiệm thực tiễn của xã
hội loài người. Trẻ em lĩnh hội được những tri thức nhất định của xã hội loài
người thông qua quá trình hoạt động của bản thân: vui chơi, học tập, lao động.
Không phải đứa trẻ được sinh ra là đã có ngay trong mình các thành quả
của lịch sử loài người. Thành tựu phát triển của các thế hệ không chứa đựng
trong con người, không chứa đựng trong mầm mống thiên nhiên của con
người mà ở thế giới xung quanh nó, trong thành quả sáng tạo vĩ đại của nền
văn minh nhân loại. Đứa trẻ phải lĩnh hội và nắm vững những kinh nghiệm đã
được hình thành trong lịch sử xã hội loài người, tư duy, trí nhớ, tri giác của trẻ
bị ước chế một cách căn bản bởi sự nắm ngôn ngữ, nắm vững phương thức
hoạt động nhất định và những khái niệm nhất định.
Từ khi mới sinh ra, xung quanh trẻ là thế giới khách quan do con người
tạo ra đó là các đồ dùng trong nhà, quần áo, các công cụ đơn giản, ngôn ngữ
và các biểu tượng. Khái niệm, tư tưởng phản ánh trong lời nói và như vậy,
trẻ bắt đầu phát triển tâm lý, trí tuệ trong thế giới con người. Để nắm được sự
22
vật hiện tượng trong thế giới xung quanh, trẻ cần phải tích cực hoạt động
tương ứng với hoạt động đã được thể hiện vào trong sự vật và hiện tượng đó,
sử dụng hành động và thao tác vận động, trí tuệ cần thiết để tìm hiểu sự vật
đó. Trong quá trình trẻ hoạt động với đồ vật và hiện tượng trong thế giới xung
quanh, giao lưu thực tiễn với người xung quanh và hoạt động với họ là quá
trình trẻ lĩnh hội, tiếp thu những tri thức, kỹ năng - kỹ xảo và kinh nghiệm cá
nhân từ lịch sử xã hội loài người.

Như vậy, điều kiện đầu tiên trong sự phát triển trí tuệ của trẻ và có tính
chất quyết định là việc trẻ nắm được các hành động trí tuệ, thao tác trí tuệ,
kinh nghiệm từ sự truyền thụ kinh nghiệm xã hội theo một phương thức nhất
định và được tổ chức một cách đặc biệt - đó là quá trình dạy học.
*Điều kiện sinh vật: sự phát triển năng lực của trẻ chính là quá trình hình
thành các chức năng não.
Trẻ em sinh ra có được năng lực hay chức năng nào đó là do trẻ có cấu
trúc não bẩm sinh tương ứng các cơ quan chuyên biệt của chức năng ấy. Trẻ
em có được sự phát triển bình thường về thể chất, mà cơ bản nhất là có được
hệ thống chức năng não hoàn chỉnh thì mới có trí tuệ. Những trẻ em không
phát triển đầy đủ trí tuệ là do có những tổn thương về não, não phát triển
không bình thường.
Những công trình nghiên cứu của A.N.Leonchiev, A.R.Luria và nhiều
cộng sự khác cho thấy: trẻ em sinh ra chưa có các cơ quan vốn sẵn có để thực
hiện các chức năng là sự phát triển của lịch sử loài người. Các cơ quan này
được phát triển trong quá trình trẻ sống bằng cách tiếp thu kinh nghiệm lịch
sử, còn hệ thống chức năng não được hình thành trong quá trình tiếp thu
chuyên biệt là cơ quan của các chức năng ấy. Việc hình thành các hệ thống
chức năng đó diễn ra không giống nhau mà tuỳ thuộc vào quá trình phát triển
đó được tạo nên như thế nào, diễn biến trong những điều kiện như thế nào,
23
đôi khi các hệ thống đó được hình thành nên một cách không tương ứng hay
có thể hoàn toàn không hình thành nên được.
* Sự phát triển trí tuệ của trẻ em là quá trình hình thành hành động trí tuệ:
Quá trình phát triển tâm lý ở trẻ em diễn ra trong tiến trình giao lưu, mà
trước tiên là giao lưu thực tế. Việc nắm được ngôn ngữ là một điều kiện quan
trọng của sự phát triển trí tuệ, vì nội dung kinh nghiệm lịch sử của loài người
được giữ lại dưới hình thức vật thể vật chất và cả hình thức từ ngữ, ngôn ngữ.
Trẻ em có nhiệm vụ nắm lấy các tri thức, các khái niệm ấy. Nhưng để làm
được điều đó trẻ phải thực hiện các quá trình nhận thức tương ứng với các quá

trình có sản phẩm là các khái niệm ấy.
Sự phát triển trí tuệ của trẻ em thực chất là mức độ cao của sự phát triển
tư duy. Con đường hình thành tư duy đòi hỏi phải dựa vào một khối lượng lớn
kinh nghiệm trong một thời gian dài. Nhưng trên thực tế thì việc hình thành
các quá trình tư duy ở trẻ dựa vào kinh nghiệm cá thể tương đối không lớn và
diễn ra rất nhanh do trẻ lĩnh hội kinh nghiệm dưới hình thức đã được khái
quát, tri thức đòi hỏi ở trẻ hình thành các thao tác trí tuệ tương ứng và các
thao tác này càng được thực hiện chính xác thì kết quả của tư duy càng cao
dẫn tới sự phát triển trí tuệ của trẻ càng có hiệu quả tốt.
Như vậy, điều kiện xã hội là điều kiện đầu tiên có tính chất quyết định
đảm bảo cho sự phát triển trí tuệ, điều kiện sinh vật làm tiền đề cho sự phát
triển trí tuệ mà nếu nó không hoàn thiện sẽ có ảnh hưởng rất lớn, nhưng nếu
trẻ không thành thục với các thao tác trí tuệ thì khả năng phát triển trí tuệ của
trẻ sẽ bị hạn chế và không phát triển.
Tóm lại, sự phát triển trí tuệ của trẻ phụ thuộc vào rất nhiều điều kiện và
mỗi điều kiện lại có tác động riêng tới sự phát triển trí tuệ của trẻ. Điều kiện
nào cũng cần thiết bởi chỉ một trong ba điều kiện đó không được đáp ứng thì
sự phát triển của trẻ nói chung, sự phát triển trí tuệ của trẻ nói riêng gặp nhiều
khó khăn và nhiều khi không phát triển được.
24
1.2.2. Tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi.
Có thể nói một cách khái quát là khi nói về hoạt động vui chơi như: khái
niệm, đặc điểm, nguồn gốc, bản chất, ý nghĩa, phương pháp tổ chức hoạt động
vui chơi cho trẻ mẫu giáo đều tìm thấy trong lý thuyết chung về hoạt động
vui chơi. Song mỗi loại trò chơi và cách tổ chức hướng dẫn trẻ chơi lại có
những nét đặc thù riêng của nó vì thế trong phạm vi nghiên cứu của luận văn
này, chúng tôi chỉ đi sâu vào nghiên cứu TCDG và sử dụng nó làm phương tiện
để phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo.
1.2.2.1. Vài nét về trò chơi dân gian.
1.2.2.1.1. Khái niệm.

Trò chơi dân gian là những trò chơi được nhân dân sáng tạo lưu truyền tự
nhiên, rộng rãi trong dân gian, là một trong những hình thức sinh hoạt văn hoá
dân gian
1.2.2.1.2. Trò chơi dân gian Việt Nam.
TCDG xuất hiện gắn liền với các hoạt động văn hoá và tín ngưỡng của
con người thời tiền sử. Xuất phát từ hành động mang tính thần bí, cầu ước,
phù yểm ma thuật, hay những hành vi mô phỏng các hoạt động săn bắn và
trồng trọt, những nghi thức đó được thể chế dần để trở thành nghi thức tôn
giáo trong hệ thống tín ngưỡng phồn thực. Cùng với sự phát triển của xã hội,
nhiều nghi thức tôn giáo mât dần ý nghĩa linh thiên, chỉ còn giữ lại mục đích
vui chơi giải trí cho cộng đồng. Vì vậy, các TCDG phần lớn gắn với hội làng
diễn ra vào mùa xuân, mùa thu của chu kỳ sản xuất nông nghiệp.
TCDG là một bộ phận cấu thành của các hoạt động lao động sản xuất,
tôn giáo và hoạt động văn hoá xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu và giới thiệu
TCDG sẽ làm sống lại không khí sinh hoạt cộng đồng của người xưa, quay lại
những cội nguồn xuất phát của văn hoá nhân loại.
TCDG được chia làm hai nhóm. Một là, các trò chơi truyền thống ở thời
kỳ sơ khai mang tính ồ ạt, thường đi đôi với tín ngưỡng phồn thực, luật chơi
25

×