Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng bữa ăn và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ tại trường mầm non nga thạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.59 MB, 36 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỮA ĂN
VÀ PHÒNG CHỐNG SUY DINH DƯỠNG CHO TRẺ
TRONG TRƯỜNG MẦM NON NGA THẠCH
HUYỆN NGA SƠN - TỈNH THANH HÓA

Người thực hiện: Phạm Thị Hằng
Chức vụ: P. Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường mầm non Nga Thạch
Huyện Nga Sơn – Tỉnh Thanh Hóa
SKKN lĩnh vực: Quản lý

THANH HÓA NĂM 2019


MỤC LỤC
Tên đề mục
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.


2.3.1: Tham mưu với Ban giám hiệu, kế toán xây dựng thực đơn
giàu dinh dưỡng cho trẻ.
2.3. 2: Tự bồi dưỡng nâng cao khả năng chê biến món ăn và bồi
dưỡng nâng cao trình độ cho giáo viên nuôi.
2.3.3: Quản lý tốt quỹ tiền ăn của trẻ và xây dựng khẩu phần ăn
hợp lý cho trẻ.
2.3.4: Lồng ghép dinh dưỡng và sức khỏe vào các hoạt động học
và các hoạt động trong ngày của trẻ tại trường mầm non.
2.3. 5: Chỉ đạo đội ngũ cô nuôi đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
theo đúng quy định
2.3.6: Tuyên truyền phòng chống suy dinh dưỡng đến cha, mẹ trẻ
2.3.7: Phối hợp với Cha, mẹ trẻ nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ
thông qua các hội thi.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1.Kết luận.
3.2. Kiến nghị.

Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
4
4

6
7
8
12
13
16
18
18
18
19


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Sinh thời Bác Hồ kính yêu đã từng nói !
“Trẻ em như búp trên cành.
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”[1].
Thật vậy, đó là điều ai ai cũng mong muốn. Trẻ em là thế hệ tương lai của
đất nước. Sự quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục ngay từ nhỏ, sẽ tạo ra
một đứa trẻ khoẻ mạnh, hồn nhiên “Ăn ngon,ngủ ngoan, tích cực hoạt động”[2].
Đây là nền tảng quan trọng để trẻ phát triển toàn diện nhân cách.Các cháu đến
trường được cân đo khám sức khoẻ định kỳ, có chế độ chăm sóc nuôi dưỡng hợp
lý theo đúng độ tuổi để phát triển toàn diện. Cụ thể của các mục tiêu đó là phát
triển ở trẻ thể lực đúng yêu cầu chuẩn độ tuổi, hình thành ở trẻ các khả năng ban
đầu về nhân cách con người và phát triển toàn diện các mặt giáo dục.
“Trong các mặt giáo dục trên thì giáo dục thể chất cho trẻ là nhiệm vụ
hàng đầu, quan trọng nhất, vì sức khoẻ là vốn quý giá nhất và có ý nghĩa sống
còn với con người, đặc biệt đối với trẻ mầm non. Ở lứa tuổi này cơ thể của trẻ
còn non nớt chưa chủ động được, chưa có ý thức đầy đủ về dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm, nếu dinh dưỡng không đảm bảo được chất lượng thì rất

dễ phát triển lệch lạc mất cân đối do vậy trẻ chỉ có thể phát triển tốt nếu được
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục một cách hợp lý, khoa học”[3].
Chính vì vậy công tác nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe trẻ mầm non có
một vị trí quan trọng trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người. Nhiệm vụ
đặt ra cho chúng ta phải có đội ngũ làm công tác chăm sóc nuôi dưỡng và giáo
dục có đủ điều kiện để thực hiện mục tiêu cơ bản trên, trong đó đội ngũ nhân
viên nuôi dưỡng có vai trò then chốt là lực lượng nòng cốt quyết định chất lượng
bữa ăn cho trẻ trong trường mầm non. Cùng với nhiệm vụ phòng chống suy dinh
dưỡng cho trẻ em, hiện nay là vấn đề nâng cao chất lượng làm sao để trẻ ăn
ngon, đủ lượng, đủ chất và hết suất là mối quan tâm không chỉ riêng phụ huynh
mà còn là mối quan tâm của các trường mầm non.
“Trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước.
Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai”[4]. Vì vậy việc chăm sóc nuôi dưỡng vệ
sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ sức khỏe cho trẻ trong trường mầm non là việc
làm hết sức quan trọng. Vấn đề chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ không tốt sẽ ảnh
hưởng đến sức khỏe của trẻ và nó ảnh hưởng đến trí tuệ của trẻ. Do vậy, việc
nuôi dưỡng, giáo dục và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ là hết sức cần
thiết. Chính vì vậy trước tiên ta phải có một chế độ ăn uống hợp lý, khoa học
nhằm giúp trẻ ăn uống ngon miệng, nhưng vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn
giữ vị trí quan trọng. [5].
Hiện nay vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và việc nâng cao chất lượng
bữa ăn cho trẻ ở trường mầm non là vấn đề cần thiết, để thực hiện được nhiệm
vụ năm học về nâng cao chất lượng nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non. Tôi
đã băn khoăn, trăn trở xem mình phải làm gì và làm thế nào để nâng cao chất
lượng bữa ăn cho trẻ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng cho trẻ trong nhà trường, giúp
1


trẻ phát triển cân đối, toàn diện. Đây cũng là một thông điệp giúp cho toàn thể
cộng đồng quan tâm đến việc nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại

trường mầm non. Vì vậy việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong
trường mầm non vẫn luôn được quan tâm và chú trọng. Để có món ăn ngon,
đảm bảo đủ các chất dinh dưỡng một cách an toàn, hợp lý không phải là đơn
giản, nhất là bữa ăn cho trẻ trong trường mầm non. Xuất phát từ nhận thức trên
bản thân tôi là một cán bộ quản lí phụ trách công tác nuôi dưỡng, chăm sóc sức
khỏe cho trẻ. Vì vậy tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng
bữa ăn và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ trong trường mầm non Nga
Thạch - Huyện Nga Sơn - Tỉnh Thanh Hóa”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Xuất phát từ những lý do đã trình bày ở trên tôi viết sáng kiến này
nhằm trao đổi một số kinh nghiệm của bản thân, giúp các đồng chí tìm ra cách
chế biến món ăn phong phú hơn, hấp dẫn hơn, mùi vị thơm ngon hơn và phối
hợp được nhiều loại thực phẩm sẵn có ở địa phương. Đảm bảo cho trẻ có được
nguồn dinh dưỡng hợp lý, giữ được vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng chống
suy dinh dưỡng cho trẻ. Giúp cho trẻ ăn ngon miệng, ăn hết xuất và cơ thể của
trẻ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cần thiết.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng áp dụng sáng kiến này là đội ngũ giáo viên, tất cả các cháu học
sinh trong trường mầm non Nga Thạch - Huyện Nga Sơn - Tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện sáng kiến này tôi đã sử dụng một số phương
pháp cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu: (Đọc, tìm hiểu các loại tài liệu có liên quan
và nghiên cứu tình hình thực tế …)
-Phương pháp thực hành:(Mang ý tưởng, sáng kiến vào thực hành
trong thực tế để đánh giá và tích lũy kinh nghiệm…).
- Phương pháp quan sát: (Dùng quan sát, khả năng thực hiện…) và một
số phương pháp khác.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.

Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy, ăn uống giúp cho trẻ
em có một thể lực tốt, và ăn uống theo nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể, đảm bảo
đủ về lượng và chất thì cơ thể mới phát triển toàn diện được. Nhu cầu dinh
dưỡng là nội dung quan trọng để chăm sóc sức khỏe của mỗi người, trẻ em cần
dinh dưỡng để phát triển thể lực, trí tuệ, nếu trẻ không được nuôi dưỡng tốt sẽ
chậm lớn, chậm phát triển về mọi mặt và ngược lại nếu trẻ được nuôi dưỡng tốt
sẽ mau lớn khỏe mạnh.
Đời sống nhân dân ngày được nâng cao là nhờ có nền kinh tế phát triển.
Vì vậy, nhu cầu chăm sóc sức khỏe cũng dần được chú trọng nhiều hơn, đặc biệt
là trẻ em. Trẻ em ngày nay có thông minh, khỏe mạnh, có khả năng học tập tốt
thì mới tạo ra một tương lai phát triển vững mạnh”[6]
2


Tất cả chúng ta đều thấy rõ tầm quan trọng của việc ăn, uống đây là nhu
cầu hàng ngày, một nhu cầu cấp bách, cần thiết không thể không có, không chỉ
đơn thuần là giải quyết chống lại cảm giác đói. Mà còn giúp để cung cấp năng
lượng cho cơ thể hoạt động, các axit amin, các Vitamin, chất khoáng là những
chất cần thiết cho sự phát triển của cơ thể duy trì các tế bào, tổ chức…
Nếu thiếu hoặc thừa các chất dinh dưỡng nói trên đều có thể gây bệnh
hoặc ảnh hưởng bất lợi cho sức khoẻ. Muốn có một cơ thể khoẻ mạnh cần ăn
uống hợp lý và được chăm sóc sức khoẻ đầy đủ. Ở trẻ em tuổi cơ thể đang phát
triển mạnh nhu cầu dinh dưỡng rất lớn, nếu thiếu ăn trẻ sẽ là đối tưọng đầu tiên
chịu hậu quả các bệnh về dinh dưỡng. Ăn uống là cơ sở của sức khoẻ, ăn uống
theo đúng yêu cầu dinh dưỡng thì thể lực và trí tuệ phát triển tốt trẻ em mạnh
khoẻ học giỏi thông minh và phát triển một cách toàn diện”[7]
Như ta đã biết trong thức ăn có chứa tất cả các thành phần dinh dưỡng
cần thiết. Do đó mà chế độ dinh dưỡng không hợp lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe và sự phát triển toàn diện của trẻ, vấn đề đảm bảo chế độ ăn hàng ngày
cho trẻ an toàn, hợp vệ sinh, cân đối giữa các chất là rất quan trọng và cần thiết

trong bữa ăn của trẻ. Vì vậy để chế biến được những món ăn phong phú, hấp dẫn
đạt tiêu chuẩn phải đòi hỏi các cô nuôi luôn luôn tìm tòi, học hỏi, khám phá ra
các món mới, ăn ngon và hấp dẫn để chế biến cho trẻ ăn tại trường. Bên cạnh đó
phải tuyên truyền và phối kết hợp với phụ huynh về công tác chăm sóc, giáo dục
và nuôi dưỡng trẻ.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Để tiến hành thực hiện nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ trong
trường mầm non tôi thấy có những thuận lợi và khó khăn như sau:
* Những thuận lợi:
Nhà bếp được đầu tư xây dựng theo quy trình bếp một chiều thuận lợi
cho việc giao nhận thực phẩm cũng như chế biến món ăn.
Ngoài cơ sở vật chất, 100% cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường
được tập huấn kiến thức về an toàn thực phẩm và được cấp giấy xác nhận kiến
thức. Đội ngũ cô nuôi có lòng nhiệt tình, tự giác và có ý thức trách
nhiệm, thường xuyên tìm hiểu và tham khảo tài liệu để nâng cao trình độ, chăm
sóc, nuôi dưỡng và chế biến thức ăn cho trẻ.
Căn cứ vào thực tế bữa ăn của trẻ với mức đóng góp của phuynh là
15.000đồng/1 trẻ/1 ngày. Trẻ ăn tại trường, đối với trẻ mẫu giáo một bữa chính
và một bữa phụ, trẻ nhà trẻ hai bữa chính và một bữa phụ.
Được sự tin tưởng và ủng hộ kịp thời của các bậc phụ huynh lên tỷ lệ trẻ
ăn bán trú tại trường đạt 100%.
* Khó khăn:
Cô nuôi đa phần tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm chưa nhiều trong việc chăm
sóc nuôi dưỡng trẻ.
Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện mua sắm trang thiết bị phục vụ
cho khâu nuôi dưỡng nhưng vẫn còn một số đồ dùng chưa đảm bảo và đúng quy
cách.
3



Do giá cả thực phẩm trên thị trường không ổn định, gây khó khăn trong
việc lựa chọn thực phẩm. Để chọn được những thực phẩm tươi ngon mà giá cả
lại hợp lý đó cũng là một vấn đề còn gặp nhiều khó khăn. Điều đó cũng làm ảnh
hưởng một phần đến quá trình nâng cao chất lượng bữa ăn đủ dinh dưỡng, đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ban giám hiệu nhà trường nhiều năm qua đã chỉ đạo thực hiện đều đặn
việc nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ nhưng chưa tạo được sự thi đua giữa
giáo viên trong nhà trường.
* Kết quả của thực trạng:
- Từ những thực trạng trên, đầu năm học tôi tiến hành khảo sát về tình
trạng sức khỏe của trẻ.
(Kèm theo phụ lục 1 – Bảng 1 và bảng 2)
Bảng 1: Kết quả khảo sát về tình trạng sức khỏe của trẻ tại thời
điểm tháng 9 năm 2018.
Bảng 2: Kết quả khảo sát về chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh
an toàn thực phẩm tại thời điểm tháng 9 năm 2018.
- Song song với việc khảo sát trẻ tôi tiến hành khảo sát chất lượng đầu
năm đối với giáo viên về nâng cao chất lượng bữa ăn và phòng chống suy dinh
dưỡng cho trẻ tại thời điểm tháng 9 năm 2018 cho thấy:
(Kèm theo phụ lục 2 – Bảng 1)
Bảng 1: Khảo sát chất lượng đầu năm đối với giáo viên
về nâng cao chất lượng bữa ăn và phòng chống suy dinh dưỡng
cho trẻ tại thời điểm tháng 9 năm 2018.
Nhìn vào kết quả của bảng khảo sát trên, đã giúp tôi tìm ra các giải pháp
nhằm cải tiến nhằm nâng cao chất lượng bữa ăn và phòng chống suy dinh dưỡng
cho trẻ như sau:
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Với trách nhiệm là người chỉ đạo trực tiếp công tác chăm sóc, nuôi
dưỡng trong nhà trường, nhìn chung cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà
trường rất quan tâm tới việc nâng cao chất lượng bữa ăn và chăm sóc sức khỏe

cho trẻ. Vì vậy tôi đã chỉ đạo giáo viên làm tốt việc nâng cao chất lượng bữa ăn
cho trẻ tại trường mầm non. Cụ thể như sau:
2.3.1. Tích cực tham mưu với Ban giám hiệu, xây dựng thực đơn giàu
dinh dưỡng cho trẻ.
Nói về tầm quan trọng của việc xây dựng thực đơn. Để nâng cao được
chất lượng bữa ăn, trước hết cần phải tham khảo món ăn, kết hợp cùng kế toán
xây dựng thực đơn sao cho đảm bảo đủ 4 nhóm thực phẩm đảm bảo về lượng và
chất. Bên cạnh đó, cần phải biết kết hợp nhiều loại thực phẩm đa dạng phong
phú tạo sự hấp dẫn. Sau đây là 1 số thực đơn tôi xây dựng:
Xây dựng thực đơn 1 tuần cho trẻ. (Kèm theo phụ lục 3)
- Thực đơn xây dựng 1 tuần cho trẻ Mẫu giáo (Kèm theo phụ lục 3.1)
- Thực đơn xây dựng 1 tuần cho trẻ Nhà trẻ (Kèm theo phụ lục 3.2)
Nhận thức được tầm quan trọng chăm sóc dinh dưỡng của trẻ, cùng với
4


lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm cao ngay từ đầu năm học tôi đã nghiên cứu
thực đơn của nhà trường. Bên cạnh đó, tôi cũng tham mưu phối hợp cùng với
hiệu trưởng, kế toán nhà trường xây dựng thực đơn của trẻ hợp lý, thay đổi theo
ngày, tuần, phù hợp theo mùa, cân đối về dinh dưỡng. Nghĩa là phải đủ chất, đủ
lượng, cân đối giữa thức ăn động vật và thực vật, đảm bảo tỷ lệ các chất đầy đủ
4 nhóm thực phẩm sau:
- Nhóm cung cấp chất đạm như: Thịt, cá, tôm, cua, các loại đỗ hạt, đậu
tương giúp xây dựng cơ bắp tạo kháng thể đặc biệt là sự phát triển của các tế bào.
- Nhóm cung cấp chất béo (Lipit) như: Dầu, mỡ, lạc, vừng, nhóm vừa
cung cấp năng lượng cao vừa làm tăng cảm giác ngon miệng giúp trẻ hấp thu sử
dụng tốt các Vitamin trong chất béo như Vitamin A, D, B, K…
- Nhóm cung cấp Vitamin và khoáng chất như: Rau quả đặc biệt các loại
rau có màu xanh thẫm như rau ngót, rau muống, rau dền, rau cải, mồng tơi…và
các loại quả có màu đỏ hoặc vàng như chuối, đu đủ, xoài chín, cam, cà chua,

gấc, nhóm cung cấp các loại vi chất dinh dưỡng đóng vai trò là chất xúc tác giữa
các thành phần hóa học trong cơ thể.
- Nhóm chất bột, đường (gluxit) như: Bột, cháo, cơm, mỳ… nhóm cung
cấp năng lượng chủ yếu cho cơ thể và cơ bắp.
Dựa vào thực tế của địa phương tôi tìm ra một số món mới, nguồn thực
phẩm thay thế cho trẻ để thêm vào thực đơn giúp trẻ ăn ngon miệng mà vẫn đầy
đủ dinh dưỡng cho trẻ. Sau đây là một số món ăn mà bản thân tôi đã tự nghiên
cứu ra:
Tên món ăn
STT
Bữa chính
Bữa phụ
- Thịt bò hầm cà rốt, khoai tây.
- Bún vịt
1
- Canh ngao rau mồng tơi.
- Uống sữa GowIQ
- Cải ngọt xào tôm nõn.
- Tôm rim thịt.
- Cháo gà
2
- Canh cua rau đay.
- Uống sữa GowIQ
- Bí xanh xào thịt bò.
- Thịt ngan rim bí đỏ.
- Cháo tôm.
3
- Canh nước dùng ngan rau ngót
- Bánh canxi
- Đậu xào thịt bò.

- Lạc vừng rang - Ruốc cá thu.
- Bún thịt gà.
4
- Canh ngao rau vặt.
- Uống sữa GowIQ
- Giá xào tim cật.
- Thịt rim trứng.
- Cháo ngao.
5
- Canh rau ngót nấu thịt.
- Uống sữa GowIQ
- Lươn xào đậu phụ.
Nhà trường đã áp dụng một số thực đơn của tôi xây dựng, luôn luôn thay
đổi theo mùa, theo tuần. Nhờ vậy, bữa ăn của trẻ hàng ngày luôn đa dạng nguồn
thực phẩm tươi ngon, an toàn, đáp ứng với yêu cầu bữa ăn của trẻ phải đảm bảo

5


và đa dạng các loại thực phẩm.Vì mỗi loại thực phẩm cung cấp một số chất dinh
dưỡng, nếu ta chế biến hỗn hợp nhiều loại thực phẩm thì ta sẽ có thêm nhiều
chất dinh dưỡng và các chất sẽ bổ sung cho nhau để tạo cho trẻ có một bữa ăn
ngon cân đối, đủ chất và đảm bảo.
Đồng thời, Khi xây dựng thực đơn trong bữa ăn của trẻ cần phải cân
đối: Cơ thể có đủ các chất dinh dưỡng, đủ năng lượng để duy trì sự phát triển,
vui chơi, giải trí phải nhờ có một khẩu phần ăn cân đối, điều độ và đảm bảo chế
độ dinh dưỡng. Trẻ em chỉ cần ăn đủ chất và hoạt động, vui chơi đều đặn sẽ phát
triển bình thường. Nếu ăn nhiều mà không hoạt động dẫn đến thừa năng lượng
sẽ gây béo phì. Nhưng nếu để trẻ ăn không đủ chất, đủ lượng trẻ sẽ mệt mỏi,
hoạt động kém và dẫn đến suy dinh dưỡng.

+ Cần phải xây dựng thực đơn đảm bảo theo mùa, theo tuần ...
+ Tính khẩu phần ăn cân đối hàng ngày.
+ Khoảng cách các bữa ăn hàng ngày của trẻ phải đảm bảo.
+ Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm phải thực hiện tốt.
2.3.2: Tự bồi dưỡng nâng cao khả năng chế biến món ăn và bồi dưỡng
nâng cao trình độ cho giáo viên nuôi.
Đây là biện pháp vô cùng quan trọng vì bản thân các cô nuôi phải có kiến
thức, sự hiểu biết về tầm quan trọng của dinh dưỡng như: Thế nào là dinh dưỡng
hợp lý? Thế nào là khẩu phần ăn hợp lý? Chăm sóc dinh dưỡng cho lứa tuổi
mầm non như thế nào? Vì sao?. Từ đó sẽ quyết định đến chất lượng thực phẩm,
chất lượng bữa ăn của trẻ.
* Tự bồi dưỡng nâng cao khả năng chế biến món ăn.
Như chúng ta đã biết dù có làm việc gì đi chăng nữa, chúng ta cũng không
chỉ làm việc mà phải luôn luôn tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn
của mình được tốt hơn, đặc biệt là các cô nuôi là người trực tiếp chế biến ra các
món ăn để chăm sóc sức khoẻ cho trẻ ở trường mầm non thì vấn đề nâng cao
khả năng chế biến món ăn và đảm bảo VSATTP càng quan trọng. Vì có nhiều
kinh nghiệm thì các cô nuôi mới có thể làm tốt được công tác của mình. Bên
cạnh đó các cô phải thường xuyên thay đổi thực đơn cho trẻ và chế biến như thế
nào để giúp trẻ ăn ngon miệng, hết suất.
Chính vì vậy tôi luôn không ngừng tìm tòi học hỏi những người xung
quanh, đồng nghiệp và trên mọi kênh thông tin có liên quan đến vần đề chế biến
các món ăn, vệ sinh an toàn thực phẩm. Tôi luôn tự học hỏi đồng nghiệp, dành
thời gian nghiên cứu tài liệu chuyên môn để có kiến thức, kinh nghiệm chế biến
cho trẻ sao cho đúng kỹ năng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm mà giữ lại các
chất dinh dưỡng trong món ăn mà trẻ vẫn dễ ăn, ăn ngon miệng.
Do đó, tôi luôn tìm hiểu những cuốn sách hay nói về nghệ thuật chế biến
món ăn để thức ăn có mùi vị và màu sắc hấp dẫn trẻ, tìm những chuyên mục nhỏ
về sự phối hợp giữa các thực phẩm, thực phẩm nào kết hợp với nhau để tăng
thêm lượng dinh dưỡng, thực phẩm nào sung khắc không nên kết hợp có thể là

giảm lượng dinh dưỡng và sinh ra những chất có hại gây ngộ độc thức ăn.
Cùng với sự bùng nổ về CNTT, các kiến thức về dinh dưỡng, nội trợ nuôi
6


dưỡng cũng được phổ biến rộng rãi trên mạng Internet. Tôi tìm hiểu từ bạn bè,
đồng nghiệp các địa chỉ trang Wed liên quan đến công việc chuyên môn của
mình, thường xuyên truy cập mạng để tìm kiếm, cập nhật những công thức, kỹ
thuật chế biến những món ăn mới như: Tôm xào súp lơ nấm hương….
Sau khi học hỏi kinh nghiệm tôi luôn ghi chép cẩn thận và lưu giữ những
công thức chế biến, các bí quyết nấu ăn, các phương pháp kết hợp dinh dưỡng
có lợi cho sức khoẻ của trẻ như: Chế độ dinh dưỡng họp lý giúp trẻ phát triển
chiều cao “Những thực phẩm an toàn cho bé” dưỡng chất cho sự phát triển của
trẻ, cho trẻ ăn nhiều hải sản để phòng thiếu máu, thiếu sắt, 6 nguyên tắc cơ bản
để có 1 chế độ ăn tốt nhất cho bé. Dầu gấc cà rốt, đu đủ - tốt hay xấu đối với trẻ
em? Phối hợp thức ăn để bé có bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng… một cách có hệ
thống trong sổ tay “Cẩm nang dinh dưỡng” và sử dụng thường xuyên khi thực
hiện công việc.
VD: - Dầu gấc: có chứa các vi chất rất cần thiết cho trẻ như Vitamin E,
chất béo thực vât, sắt, kẽm..giúp trẻ phát triển hệ thần kinh, sáng mắt, khỏe…
- Cà rốt: không chỉ chứa nguồn dinh dưỡng quý giá như vitaminA,
khoáng chất, các loại tinh dầu của các axit béo… Cà rốt còn ngăn ngừa một số
bệnh nguy hiểm như tim mạch, tăng cường thị lực cho trẻ vv…
Chính vì vậy công việc quản lý chỉ đạo tổ nuôi chế biến các món ăn ngày
càng đạt hiệu quả cao hơn, chất lượng bữa ăn cũng được nâng lên rõ rệt.
* Nâng cao trình độ cho giáo viên nuôi:
Các cô trong tổ nuôi dưỡng phải có kỹ năng chế biến các món ăn cho
trẻ mầm non, có như vậy khi chế biến các cô mới thực hiện nghiêm túc thực đơn
đã đề ra. Đảm bảo thường xuyên thay đổi các món ăn giúp trẻ ăn ngon miệng, ăn
hết xuất. Các cô trong tổ nuôi dưỡng phải biết tính khẩu phần ăn cho trẻ, để biết

được lượng Kcal cung cấp cho trẻ trong ngày đạt bao nhiêu % so với nhu cầu
cần đạt. Kcal do các chất cung cấp có được cân đối, hợp lý hay không? Các bữa
ăn của trẻ trong ngày phải có khoảng cách đảm bảo, không nên quá gần nhau và
phải bổ sung kịp thời năng lượng cho trẻ. Cũng không nên cho trẻ ăn khi trẻ vẫn
còn no, như vậy sẽ gây lên sự chán ăn ở trẻ.
Thực hiện tốt chế độ vệ sinh an toàn thực phẩm, biết cách lựa chọn
thực phẩm tươi ngon, đảm bảo. Biết cách thay thế thực phẩm theo đúng nhóm,
đúng định lượng, phù hợp với thực phẩm sẵn có ở địa phương.
Hợp đồng mua thực phẩm phải có uy tín, chất lượng đáp ứng được yêu
cầu, rõ nguồn gốc, tươi sạch, phù hợp với điều kiện, khả năng của nhà trường.
Nhà bếp thực hiện tốt chế độ sinh hoạt, vệ sinh cá nhân, vệ sinh đồ
dùng dụng cụ nhà bếp, vệ sinh an toàn thực phẩm. Chế biến món ăn theo đúng
nguyên tắc và đúng quy trình bếp ăn một chiều.
Thực hiện nghiêm túc việc lưu mẫu thức ăn hàng ngày.
2.3. 3: Quản lý tốt quỹ tiền ăn của trẻ và xây dựng khẩu phần ăn hợp lý
cho trẻ.
* Quản lý tốt quỹ tiền ăn của trẻ
Thực hiện tốt việc điểm danh và báo ăn hàng ngày.
7


Nhà trường cần quản lý chặt chẽ các khoản thu - chi liên quan đến vấn đề
ăn uống của trẻ. Thực hiện tài chính công khai, có sự thống nhất giữa sổ báo ăn,
sổ chợ và sổ tính khẩu phần ăn hàng ngày.
Thanh toán sòng phẳng với các bậc phụ huynh theo từng tháng.
Không sử dụng quỹ tiền ăn của trẻ vào các hoạt động khác hoặc mua sắm
những đồ dùng không phải là lương thực, thực phẩm sử dụng trong các bữa ăn
của trẻ.
* Xây dựng khẩu phần ăn hợp lý cho trẻ.
Khi xây dựng khẩu phần ăn điều quan trọng nhất là phải cân đối về tỷ lệ

các chất dinh dưỡng cần thiết theo nhu cầu cơ thể.
- Cân đối về năng lượng: Năng lượng chủ yếu là do 3 chất Protein,
Lipit, Gluxit. Trong khẩu phần ăn tỷ lệ của 3 chất này phải thích hợp, nên có tỷ
lệ 1:1:5.
- Cân đối về Protein: Xác định tỷ lệ % giữa Prôtêin động vật với
Protein thực vật để đánh giá mức độ, thông thường Protein động vật ở trẻ em là
50 - 60%.
- Cân đối về Lipit: Tỷ lệ Lipit động vật và tỷ lệ Lipit thực vật đối với trẻ
em là 50/50%.
- Cân đối về Gluxit: Trong khẩu phần ăn của trẻ Gluxit là thành phần
cung cấp năng lượng chủ yếu, vì Gluxit có giá thành rẻ nhất đồng thời lại có số
lượng nhiều nhất.
- Cân đối về Vitamin: Vitamin tham gia vào chuyển hóa trao đổi chất
trong cơ thể, vì vậy phải cung cấp đủ các Vitamin. Nếu thiếu Vitamin trong khẩu
phần ăn sẽ làm rối loạn quá trình hấp thu các chất dinh dưỡng cung như trao đổi
chất trong cơ thể.
- Cân đối về chất khoáng: Các chất khoáng trong khẩu phần giữ vai trò
cân bằng để duy trì tính ổn định. Muốn có khẩu phần ăn cân đối cho trẻ cần phối
hợp nhiều loại thực phẩm với nhau và đảm bảo đủ lượng theo lứa tuổi.
2.3. 4: Chỉ đạo giáo viên lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe
vào các hoạt động học và các hoạt động trong ngày của trẻ tại trường mầm
non.
Lồng ghép chuyên đề về dinh dưỡng, sức khỏe vào hoạt động các hoạt
động trong ngày của trẻ. Xây vườn cây cho bé tại lớp để trẻ tiếp xúc với thiên
nhiên, thông qua đó nhằm giúp trẻ được trải nghiệm với thực tế trong sinh hoạt
cũng qua đó nhằm giúp trẻ có sức khỏe và thể lực tốt để vận động và phát triển
tốt về mọi mặt.
* Chỉ đạo giáo viên lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe vào các
hoạt động học
Tôi chỉ đạo giáo viên khéo léo, linh hoạt lồng ghép các nội dung giáo dục

dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Tôi chỉ đạo giáo viên có thể gây hứng
thú cho trẻ bằng các bài thơ, đồng dao, ca dao về các loại rau, củ, quả qua hoạt
động làm quen với chữ cái. Hay, tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm thực tế
giúp trẻ có cơ hội thực hành rèn luyện kỹ năng chế biến món ăn, kỹ năng vệ sinh
8


cá nhân và vệ sinh chung. Để trẻ thực hành trên sản phẩm thực tế được tốt trước
hết giáo viên phải hướng dẫn trẻ cụ thể, cách đong đếm, cách sử dụng một số đồ
dùng, dụng cụ nấu ăn và pha chế thức uống như dao, thìa, cốc, chén…Sau đó,
hướng dẫn trẻ thực hành từng bước trên sản phẩm. Dạy trẻ biết sử dụng đồ dùng
phục vụ việc ăn uống, tạo ra một số món ăn, nước uống đơn giản như: pha nước
chanh, pha nước cam… Tôi đã chỉ đạo giáo viên lớp MG 5 - 6 hướng dẫn trẻ
thực theo quy trình pha nước cam trong hoạt động khám phá khoa học: rót 2/3
cốc nước sôi để nguội -> thêm 2 thìa đường -> cắt đôi quả cam -> vắt nước cam
-> rót nước cam vừa vắt -> khuấy đều -> uống. Làm như vậy trẻ được thực hành
chế biến trực tiếp nước uống đơn giản, gần gũi, được sử dụng một số đồ dùng ăn
uống quen thuộc như: ca, cốc, thìa, dao, thớt. Sau đó tôi chia trẻ thành các tổ và
thi đua thực hành trải nghiệm xem tổ nào có thao tác nhanh và đúng quy trình
nhất. Pha xong các ly nước cam trẻ được uống sản phẩm mình tự làm, trẻ rất
hứng thú và mong muốn được thực hành trải nghiệm thường xuyên hơn.
(Hình ảnh minh hoạ kèm theo phụ lục 4 - ảnh 1)
Hình ảnh 1: Trẻ Mẫu giáo 5 - 6 tuổi thực hành quy trình vắt nước cam.
Từ đó giúp hình thành ở trẻ thói quen ăn uống tốt, thích thú với các món ăn
do mình tạo ra và giúp trẻ có thói quen vệ sinh, hành vi văn minh, lao động tự
phục vụ ở trẻ, hình thành kĩ năng sống cơ bản cho trẻ.
* Chỉ đạo giáo viên lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe vào các
hoạt động trong ngày của trẻ tại trường mầm non.
Tôi còn lên kế hoạch chỉ đạo giáo viên đưa giáo dục dinh dưỡng vào các
hoạt động, đây cũng là một vấn đề hết sức quan trọng bởi vì trẻ thường

xuyên được học và chơi, được thực hành chế biến các món ăn sẽ tạo cho trẻ sự
hứng thú vào hoạt động và kích thích trẻ thích ăn nhiều món ăn, nhiều loại thực
phẩm khác nhau.
- Trong hoạt động đón - trả trẻ giáo viên có thể tích hợp lồng ghép giáo
dục dinh dưỡng.
VD: Giáo viên có thể tuyên truyền, giáo dục cho cha, mẹ trẻ bằng cách
hỏi thăm cha, mẹ trẻ về chế độ ăn uống hàng ngày của trẻ ở nhà và hỏi cha, mẹ
trẻ xem ở nhà trẻ thường được ăn cơm với những loại thức ăn gì?
Giáo viên cần giải thích cho trẻ thấy được giá trị của từng loại thức
ăn thông qua các giờ vui chơi và hoạt động hàng ngày. Giúp trẻ biết được khi ăn
uống đầy đủ chất con người sẽ trở lên khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, thông minh
học giỏi. Nếu không ăn uống đầy đủ chất con người sẽ bị ốm yếu, gầy còm ...
Vấn đề bảo vệ môi trường sạch sẽ trong và ngoài lớp học cũng chính là
bảo vệ sức khỏe trẻ em. Vì vậy tôi đã chỉ đạo giáo viên vệ sinh phòng lớp sạch
sẽ, thông thoáng, khô ráo, khơi thông cống rãnh ... trước khi đón trả trẻ, điều đó
cũng góp phần giúp trẻ khỏe mạnh.
- Chỉ đạo giáo viên tích hợp lồng ghép giáo dục dinh dưỡng trong hoạt
động góc.
Tôi chỉ đạo giáo viên thường xuyên tổ chức cho trẻ “Tập làm nội trợ” ở

9


lớp nhất là khối mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
- Mục đích thường xuyên tổ chức cho trẻ “Tập làm nội trợ” là giúp trẻ có
nhiều cơ hội được trải nghiệm để:
+ Trẻ biết tên gọi các loại thực phẩm:
Ví dụ: Với các loại rau (rau cải, rau muống...) giáo viên cần hướng dẫn trẻ
thực hành các thao tác chế biến đơn giản để chế biến thành rau xào, luộc. Trong
quá trình hướng dẫn trẻ, giáo viên hỏi trẻ tên các loại rau, trẻ đang chế biến món

ăn từ rau gì? nhằm cung cấp về tên gọi một cách chính xác để trẻ ghi nhớ.
Với các loại quả:(quả na, quả táo...) tôi chỉ đạo giáo viên hướng dẫn trẻ
thực hành thao tác rửa quả, bóc vỏ, gọt vỏ... trong quá trình trẻ thực hành trải
nghiệm, giáo viên hỏi trẻ về tên gọi các loại quả, trẻ đang ăn quả gì? làm như
vậy trẻ sẽ được cung cấp, ghi nhớ về tên gọi của các loại quả trên.
+ Trẻ biết phân loại và phân biệt 4 nhóm thực phẩm thông thường.
Ví dụ: nhóm chất đạm (cua, tôm....), nhóm chất bột đường (cơm, gạo,
khoai, ngô...), nhóm chất vitamin và muối khoáng (các loại rau, củ quả), nhóm
chất béo (dầu mỡ, lạc, vừng...). Tôi chỉ đạo giao viên sử dụng các tranh lô tô đủ
4 nhóm chất; các loại rau, củ quả, tôm, cá, cua, trứng, thịt gà.... được làm bằng
nhựa; các loại quả, con vật, cây rau được làm bằng các đồ phế liệu, phế thải (đồ
chơi tự tạo), sau đó chia nhóm cho trẻ tự thảo luận, phân loại, trải nghiệm và
phân biệt đúng 4 nhóm thực phẩm thông thường. Qua đó nâng cao kỹ năng phân
loại, phân biệt cho trẻ và giúp trẻ ghi nhớ nhanh từng nhóm thực phẩm
+ Trẻ biết ăn nhiều loại thực phẩm khác nhau:
Để giúp trẻ biết ăn đầy đủ các loại thực phẩm khác nhau có trong 4 nhóm
chất. Tôi chỉ đạo giáo viên cần giành nhiều thời gian để quan sát, theo giõi từng
trẻ biết trẻ thích ăn gì, không thích ăn thực phẩm gì, để có biện pháp động viên
khích lệ trẻ và cho trẻ tập ăn những món ăn mà trẻ không thích trong các giờ ăn
hàng ngày tại lớp. Tôi phát hiện có một số cháu không ăn các loại rau thơm
( hành, mùi). Tôi còn cho trẻ thi đua nhau cùng ăn hết xuất. Do đó trong suốt
quá trình thử nghiệm và trẻ thực hiện thi đua đã kích thích trẻ ăn hết xuất và trẻ
có hứng thú khi được ăn đầy đủ nhiều loại thực phẩm khác nhau.
+ Biết sử dụng dụng cụ ăn uống đơn giản, có thói quen vệ sinh.
Ví dụ: Trước giờ ăn hàng ngày tôi chỉ đạo giao viên cho trẻ chơi trò chơi “
Tay phải, tay trái” tay phải cầm thìa, tay trái giữ bát. Ngoài ra, giáo viên còn
cho trẻ thực hành sử dụng các dụng cụ ăn uống đơn giản qua trò chơi nấu ăn
hàng ngày. Làm như vậy trẻ sẽ hứng thú thực hành và đến giờ ăn 100% trẻ sử
dụng đúng.
+ Có thói quen vệ sinh văn minh trong ăn uống, có thói quen vệ sinh

cá nhân.
Ví dụ: Tôi chỉ đạo giáo viên cho trẻ chơi trò chơi đôi bàn tay đẹp, miệng
ai xinh hơn, ai sạch sẽ hơn, Để trẻ biết giữ gìn vệ sinh trong ăn uống và có thói
quen vệ sinh cá nhân như: rửa tay sạch trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, không
nói chuyện, cười đùa trong giờ ăn, không làm cơm rơi vãi.
+ Trẻ biết hoạt động chế biến các món ăn đơn giản.
10


Tôi chỉ đạo giáo viên khối mẫu giáo 5 - 6 tuổi tổ chức cho trẻ được thực
hành chế biến một số món ăn đơn giản như: Cho trẻ làm quen với quy trình làm
muối lạc, pha sữa, trứng rán, làm bánh mỳ kẹp bơ. Nhờ đó kết quả rất khả quan
trên trẻ, có gần 90 % trẻ thực hiện đúng các quy trình và hoạt động chế biến các
món ăn đơn giản như trên.
Qua hoạt động “Tập làm nội trợ” trẻ được thực hành, trải nghiệm và học
tập một cách tích cực các bài học về dinh dưỡng như cách ăn, cách chọn thức ăn
giàu dinh dưỡng.
* Thông qua các buổi dạo chơi ngoài trời chỉ đạo giáo viên lồng ghép
giáo dục dinh dưỡng: Quan sát một số loại cây ăn quả, tìm hiểu về một số loại
củ, quả, chăm sóc vườn rau ... Giáo viên giới thiệu cho trẻ ích lợi của từng loại
cây, loại quả, loại rau.
+Thông qua các buổi dạo chơi ngoài trời trẻ được khám phá nhận thức và
hiểu thêm một số thực phẩm có từ thiên nhiên từ đó làm giàu kiến thức cho trẻ,
giúp trẻ hiểu thêm về lợi ích và tác dụng của các loại thực phẩm. Giúp trẻ ăn
ngon miệng trong các buổi ăn khi có thực phẩm mà trẻ được khám phá.
+ Trong hoạt động này giáo viên rèn cho trẻ thói quen tự chăm sóc
bản thân, biết yêu thiên nhiên và động viên khuyến khích trẻ để trẻ ăn hết xuất
từ đó góp phần làm giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng trong nhà trường.
(Hình ảnh minh họa kèm theo phụ lục 4 - ảnh 2)
Hình ảnh 2: Hình ảnh trẻ chăm sóc vườn rau trong hoạt động ngoài trời.

* Thông qua giờ ăn của trẻ chỉ đạo lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và tổ
chức tốt bữa ăn cho trẻ.
Bản thân tôi là người quản lí phụ trách công tác chăm sóc, nuôi
dưỡng. Chỉ đạo giáo viên trên lớp tổ chức tốt bữa ăn cho trẻ ăn. Tôi đã cố gắng
chỉ đạo giáo viên chế biến được những món ăn ngon, hấp dẫn để khi ăn trẻ cảm
thấy ngon miệng và ăn hết xuất. Để làm tốt được điều đó tôi phải chỉ đạo giáo
viên trong tổ nuôi dưỡng phối hợp chặt chẽ với giáo viên trên lớp để động viên
trẻ ăn ngon hết xuất. Thông qua các món ăn các cô còn lồng nghép giáo dục về
dinh dưỡng cho trẻ.
Để nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng chăm sóc cho trẻ trong bữa
ăn các cô giáo chuẩn bị giờ ăn cho trẻ phải đảm bảo yêu cầu sau:
- Chuẩn bị bàn ăn sạch sẽ, gọn gàng, chỗ ngồi đảm bảo, trên bàn có
đĩa đựng cơm rơi và khăn ẩm cho trẻ lau tay.
- Cô giáo phải đeo khẩu trang khi cho trẻ ăn và khi trẻ ăn các cô phải chú
ý đến những trẻ biếng ăn để động viên trẻ ăn hết xuất.
- Cô giáo có thể đặt ra một số câu hỏi thông qua giờ ăn hàng ngày ở lớp.
VD: Trước khi ăn các con phải làm gì? Vì sao?
- Giáo viên giới thiệu cho trẻ các món ăn thông qua giờ ăn.
VD: Cô giới thiệu cho trẻ biết được thịt có chứa chất đạm, canh rau có
chứa vitamin và khoáng chất, cơm có chứa chất bột đường ...
- Giáo viên có thể giáo dục cho trẻ phát triển về nhận thức và ngôn ngữ
thông qua giờ ăn của trẻ.
11


+Về nhận thức: Giáo viên giúp trẻ nhận biết một số thức ăn như thịt, cá,
trứng và giúp trẻ nhận thức được khi ăn, uống trẻ phải ăn sạch, uống sạch.
+Về ngôn ngữ: Giáo viên có thể gợi ý để trẻ kể tên các loại thực phẩm mà
trẻ được ăn như: Thịt, trứng, cá ...
(Hình ảnh minh họa kèm theo phụ lục 4 - ảnh 3)

Hình ảnh 3: Hình ảnh giờ ăn của trẻ.
2.3. 5: Chỉ đạo đội ngũ cô nuôi Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
theo đúng quy định.
Cho dù thực phẩm có tươi ngon đến đâu. Nhưng trong quá trình chế biến
không tuân thủ quy tắc vệ sinh an toàn thực phẩm thì cũng dễ dẫn đến ngộ độc
thực phẩm gây ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ. Vì vậy đảm bảo vệ sinh trong chế
biến luôn là điều đầu tiên.
Khi vệ sinh:
Đối với dụng cụ như dao, thớt khi chế biến thực phẩn sống và chín để
riêng, đối với mùa hè các dụng cụ thường xuyên được phơi nắng.
Vệ sinh lau sàn bếp tôi chỉ đạo tổ sử dụng nước nóng già để lau sàn nhà
để diệt vi khuẩn và bốc hơi nhanh giúp cho sàn nhà luôn khô sạch.
Khâu chia thức ăn phải thực hiện đúng nguyên tắc.
Đồ dùng dụng cụ thiết bị nhà bếp mầm non phải gọn gàng, ngăn nắp,
đúng khoa học để tiện cho việc sử dụng trong chế biến.
Khi làm việc phải mặc bảo hộ lao động, mũ, khẩu trang, găng tay. Với đặc
thù làm việc đều là chị em nên mọi người rất tiết kiệm đối với găng tay nilông
chỉ sử dụng một lần nhưng mọi người đã giặt và sử dụng lại. Tôi đã mạnh dạn đề
xuất chỉ sử dụng găng tay một lần rồi bỏ không tái sử dụng.
Đối với dẻ rửa bát, cọ xong, khăn lau tay, lau sàn…cuối buổi được giặt
sạch bằng sà phòng và ngâm nước nóng già, sau đó phơi khô.
Trong sơ chế và chế biến thực phẩm phải luôn thực hiện nội quy “Làm đâu
sạch đấy, đứng dậy sạch ngay”.
(Hình ảnh minh họa kèm theo phụ lục 5 - ảnh 1)
Hình ảnh 1: Đồ dùng, dụng cụ nhà bếp vệ sinh sạch sẽ, sắp xếp gọn gàng.
Sơ chế thực phẩm:
Thực phẩm phải được sơ chế tại nơi đảm bảo vệ sinh thoáng mát, đúng
quy định của bếp một chiều. Các loại rau quả tươi phải được ngâm kỹ và rửa ít
nhất 3 lần nước sạch hoặc được rửa sạch dưới vòi nước chảy. Các loại thực
phẩm sau khi rửa sạch phải để ráo nước, sau đó làm nhỏ theo yêu cầu món ăn.

Khi chế biến:
Không dùng các phụ gia thực phẩm, phẩm màu, chất ngọt tổng hợp không
nằm trong danh mục phụ gia thực phẩm do Bộ y tế qui định. Các món ăn phải
được nấu chín hoàn toàn, thực hiện “ăn chín, uống sôi”.
Khi thức ăn đã nấu chín phải được đậy vung cẩn thận trên bàn chia ăn Tuyêt đối không dùng khăn vải để che đậy, phủ trực tiếp lên thức ăn. Khi nấu
xong phải cho trẻ ăn ngay 1 - 2 giờ, Sau 2 giờ phải đem nấu lại trước khi cho trẻ
ăn.
12


(Hình ảnh minh họa kèm theo phụ lục 5 - ảnh 2)
Hình ảnh 2: Các cô nuôi đang chế biến thức ăn.
Bên cạnh đó cần phải thực hiện nghiêm túc quy định về lưu mẫu thức ăn.
Thức ăn phải được lưu 24 giờ có miên phong, ghi rõ ngày, giờ, tháng có nắp đậy,
mẫu thức ăn lưu có cả sống và chín, nhưng được đựng riêng từng hộp đảm bảo
vệ sinh.
(Hình ảnh minh họa kèm theo phụ lục 5 - ảnh 3)
Hình ảnh 3: Tủ lưu mẫu thức ăn.
* Kết quả đạt được:
Nhà trường đã ký hợp đồng với các chủ hàng tin cậy, các nhà hàng đều có
giấy phép chứng nhận đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Đặc biệt tất cả các
nhà cung ứng thực phẩm đều có con, cháu đang theo học trong trường.
Hàng tháng tôi thực hiện tốt khâu giao nhận thực phẩm có đủ thành phần
và ghi rất cụ thể vào sổ giao nhận.
Bếp ăn nhà trường thực hiện tốt nội quy, quy chế, sơ chế, chế biến và bảo
quản thức ăn cho trẻ theo dúng dây chuyền bếp 1 chiều bảo đảm vệ sinh an toàn
thực phẩm, không có hóc sặc, ngộ độc xảy ra trong trường.
Bếp ăn được chứng nhận đạt tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm và
được ban kiểm tra y tế học đường đánh giá cao.
2.3.6: Phối kết hợp với trạm y tế xã cân, đo, khám sức khỏe định kỳ,

thường xuyên kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm. Chỉ đạo giáo viên tuyên
truyền phòng chống suy dinh dưỡng đến các bậc phụ huynh.
* Phối kết hợp với trạm y tế xã cân, do, khám sức khỏe định kỳ, thường
xuyên kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm
Để đánh giá và kiểm tra tình trạng sức khỏe của trẻ, phát hiện sớm những
trẻ cần đi khám chuyên khoa như răng, tai, mũi , họng, mắt… hoặc làm các xét
nghiệm cần thiết để phát hiện những trẻ có mang vi khuẩn gây bệnh. Chính vì
vậy một năm học 2 lần tôi đã xây dựng kế hoạch phối kết hợp với trạm y tế xã
và trung tâm y tế Huyện tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho các cháu tại trường.
trong mỗi đợt chuẩn bị kiểm tra sức khỏe, tôi đều liên hệ với trạm y tế xã thông
báo thời gian kiểm tra, kế hoạch kiểm tra. Đặc biệt với những trẻ suy dinh
dưỡng, có sức khỏe không tốt, chúng tôi đều mời cha mẹ đến để nghe bác sỹ tư
vấn và có những lời khuyên hay, biện pháp khắc phục tình trạng sa sút về sức
khỏe của con em mình. Sau mỗi lần khám tôi tổng hợp kết quả và phiếu khám
sức khỏe được gửi lại cho phụ huynh, giúp phụ huynh nắm được tình hình bệnh
tật của trẻ, kết hợp cùng nhà trường, trạm y tế tìm nguyên nhân và cách giải
quyết, điều trị kịp thời nếu cháu bị mắc bệnh. Mỗi lần khám các cháu đều được
trạm y tế xã trực tiếp cho uống Vitamin A,B1,C và thuốc giun với điều kiện cháu
chưa uống thuốc giun ở nhà.
Việc khám sức khỏe định kỳ cho các cháu được phụ huynh rất ủng hộ,
những cháu nghỉ học ở nhà cũng được gia đình đưa đến trường để khám.
Cùng với việc phối kết hợp khám sức khỏe định kỳ cho các cháu, công tác
kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm cũng được nhà trường chú trọng, nhà trường
13


xây dựng kế hoạch kiểm tra theo hàng tháng phối hợp với trạm y tế xã, trung
tâm y tế dự phòng huyện Nga Sơn có kế hoạch kiểm tra định kỳ theo tháng và
quý về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, được đánh giá cao trong công tác vệ
sinh an toàn thực phẩm, không có trường hợp ngộ độc thực phẩm xảy ra tại

trường.
(Hình ảnh minh họa kèm theo phụ lục 6 - ảnh 1 và ảnh 2)
Hình ảnh 1: Trạm y tế tổ chức cân đo khám sức khỏe cho trẻ
Hình ảnh 2: Trạm y tế, phụ huynh, BGH nhà trường kiểm tra vệ sinh
an toàn thực phẩm.
*.Chỉ đạo giáo viên tuyên truyền phòng chống suy dinh dưỡng cho
trẻ đến các bậc phụ huynh.
Để đạt được mục tiêu chăm sóc, giáo dục cho trẻ thì việc phối hợp giữa
gia đình, nhà trường và xã hội là việc làm cần thiết và thường xuyên. Trong
đó sự kết hợp chặt chẽ và hiệu quả của cha, mẹ trẻ góp một phần quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng - sức khỏe cho trẻ.
Giáo viên thực hiện tuyên truyền kiến thức khoa học về dinh dưỡng vệ
sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khỏe cho trẻ đến các bậc phụ huynh. Trước
hết tạo niềm tin và uy tín đối với cha, mẹ trẻ để họ yên tâm gửi con đi học. Qua
công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ làm cho cha, mẹ trẻ thấy cần thiết
phải đưa con đến trường.
* Tuyên truyền thông qua tổ chức các buổi họp phụ huynh.
Tôi xây dựng kế hoạch và chỉ đạo giáo viên tuyên truyền, triển khai công
tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ với cha, mẹ trẻ và cộng đồng
là những nội dung quan trọng đối với mỗi giáo viên trong trường mầm non. Xây
dựng nội dung tuyền truyền được thể hiện trong chương trình của năm học, qua
từng học kỳ, qua kế hoạch hoạt động tháng, phù hợp, linh hoạt với nhu cầu và
tình hình thực tế của nhà trường và của lớp.
Tôi vận động các bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung hợp lý.
Tuyên truyền cho các bà mẹ không nên cai sữa cho trẻ khi trời đang quá
nóng hoặc quá lạnh, khi trẻ đang bị ốm hoặc biếng ăn. Cần chú ý chế biến món
ăn kĩ và thay đổi khẩu vị để trẻ đỡ chán.
Tuyên truyền cho cha, mẹ trẻ về việc tiêm chủng đầy đủ cho trẻ.
Tuyên truyền cha, mẹ trẻ nên tẩy giun định kỳ cho trẻ.
Giáo viên phổ biến kiến thức dinh dưỡng - sức khỏe, nuôi dạy con theo

khoa học. Phổ biến thực phẩm giàu chất đạm, chất béo, chất bột đường, chất
vitamin muối khoáng có sẵn tại địa phương đảm bảo, rẻ tiền nhưng giàu chất
dinh dưỡng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Phổ biến cách bảo quản thực
phẩm sống, thực phẩm chín một cách an toàn, tránh thực phẩm bị ôi thiu, nhiễm
độc. Tuyên truyền đến các cha, mẹ trẻ biết tầm quan trọng của việc cho trẻ ăn
hết suất ăn, động viên trẻ trong khi ăn giúp trẻ ăn ngon miệng hơn.
(Hình ảnh minh họa kèm theo phụ lục 6 - ảnh 3)
Hình ảnh 3: Buổi họp phụ huynh tuyên truyền nâng cao chất lượng bữa ăn
và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ.
14


*. Tuyên truyền thông qua xây dựng góc tuyên truyền với phụ huynh ở
các nhóm lớp.
Thông qua góc những điều cha mẹ cần biết và góc tuyên truyền của nhà
trường, giáo viên tuyên truyền cho cha, mẹ trẻ biết “10 nguyên tắc vàng trong
chế biến thực phẩm”, “10 lời khuyên về dinh dưỡng hợp lý”, điển hình hay gặp
cho cha, mẹ trẻ, in ấn và treo các hình ảnh, tranh minh họa về các hoạt động giáo
dục kĩ năng sống, kĩ năng tự phục vụ, những kiến thức về an toàn và phòng
tránh nguy hiểm cho trẻ để giúp cha, mẹ trẻ biết rõ hơn. Đặc biệt là tranh về 4
nhóm thực phẩm chính cụ thể là:
Nhóm lương thực (cung cấp năng lượng chủ yếu): gạo, mì, ngô, khoai...
Nhóm thức ăn động vật (đạm động vật): thịt, cá, trứng, tôm... Đạm thực
vật: đậu phụ, đậu tương....
Nhóm dầu ăn (cung cấp chất béo): vừng, lạc…
Nhóm rau xanh, hoa quả cung cấp vitamin, muối khoáng.
Hàng quý cân, đo trẻ và báo cáo cho cha, mẹ trẻ rõ về tình trạng sức khỏe
của trẻ qua góc tuyên truyền.
(Hình ảnh minh họa kèm theo phụ lục 6 - ảnh 4)
Hình ảnh 4: Góc tuyên truyền.

* Chỉ đạo giáo viên ở các nhóm lớp tuyên truyền đến cha, mẹ trẻ thông
qua hoạt động đón - trả trẻ.
Sau các đợt cân, đo, khám sức khỏe cho trẻ. Tôi phối hợp với giáo viên
tiến hành chấm biểu đồ theo dõi trẻ, để biết được kết quả về sức khỏe của trẻ.
Tôi chỉ đạo đến từng giáo viên ở các nhóm, lớp, thông qua giờ đón - trả
trẻ trao đổi trực tiếp với cha mẹ trẻ về dinh dưỡng và sức khỏe của trẻ. Từ đó
phối hợp giữa gia đình và nhà trường để kịp thời điều chỉnh chế độ ăn, chế độ
sinh hoạt và các biện pháp giáo dục phù hợp cho trẻ. Đặc biệt là những cháu suy
dinh dưỡng để cùng nhau phối hợp và chăm sóc trẻ tốt hơn.Từ đó cùng với nhà
trường giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ xuống mức thấp nhất.
Vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm, là việc quan trọng hàng đầu trong
việc bảo vệ tránh các bệnh nhiễm trùng đường ruột, giun sán… thực hiện 10
nguyên tắc vàng về an toàn vệ sinh thực phẩm và 5 chìa khóa cho an toàn thực
phẩm.
Công tác tuyên truyền là chủ yếu với nhiều hình thức khác nhau cụ thể
như: “hình thức nấu ăn nhằm duy trì chế độ dinh dưỡng”, “Dinh dưỡng đảm
bảo hợp lí và cân đối”, “Chăm sóc sức khỏe ban đầu cho trẻ”, “cách lựa chọn
thực phẩm an toàn”, “cách sơ chế biến thực phẩm tạo món ăn đảm bảo vệ
sinh”...Trao đổi trực tiếp với phụ huynh để phụ huynh hiểu rõ tầm quan trọng
của việc phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ qua đó nhằm vận động sự ủng hộ
của các bậc phụ huynh đối với nhà trường trong việc phòng chống suy dinh cho
trẻ đạt hiệu quả cao.
Tuyên truyền chăm sóc nuôi dưỡng nhằm đảm bảo chất lượng tốt nhất đối
với trẻ tại các nhóm lớp. Nội dung thông tin tuyên truyền bao gồm những vấn đề
liên quan đến chăm sóc sức khỏe dinh dưỡng cụ thể là: Cách vệ sinh rửa tay
15


trước và sau khi ăn, cách phòng và chống các loại dịch bệnh và các phong trào
sức khỏe của nhà trường cụ thể là:

Kiểm tra sức khỏe của trẻ thông qua đánh giá biểu đồ tăng trưởng hàng
tháng.
Tuyên truyền đến cha, mẹ trẻ về tình hình thời hoạt động để phụ huynh có
thể nắm bắt và biết cách phòng tránh các loại bệnh tật cho trẻ thông qua các bản
tin, hình ảnh để thu hút được sự quan tâm chú ý của phụ huynh. Thông báo cho
phụ huynh về tình hình sức khỏe của trẻ thông qua những buổi đưa đón trẻ, từ
đó giúp giáo viên nắm bắt kịp thời những thông tin từng trẻ để qua đó có biện
pháp xử lý các tình huống kịp thời để công tác phòng chống suy dinh dưỡng ở
trẻ đạt kết quả tốt. Hạ thấp được tình trạng, nguy cơ của bệnh suy dinh dưỡng
cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trường mầm non nói riêng và cho toàn xã hội nói chung.
Tăng cường phối hợp với Ban Đại Diện cha mẹ học sinh của các nhóm
lớp kiểm tra định kì đầu năm hay cuối tháng hoặc đột xuất trong tháng từ khâu
cung cấp nguyên vật liệu đến khâu sơ chế và chế biến thực phẩm đến việc chia
khẩu phần ăn của trẻ và cùng chăm sóc trẻ theo đúng quy định, đảm bảo tính
khoa học, vệ sinh an toàn thực phẩm, để giúp trẻ luôn có một sức khỏe tốt, phát
triển cả về thể chất lẫn tinh thần một cách toàn diện.
2.3.7: Phối hợp với Cha, mẹ trẻ nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ
thông qua các hội thi.
Thực hiện kế hoạch năm học 2018 - 2019 tổ chức các phong trào thi đua
trong các họat động chăm sóc giáo dục do nhà trường phát động. Tôi cùng Ban
giám hiệu nhà trường đã xây dựng kế hoạch các hội thi , đó là hội thi “Ngày hội
dinh dưỡng cho trẻ mầm non” và hội thi “Cô nuôi giỏi” cấp trường.
* Thông qua tổ chức hội thi “Ngày hội dinh dưỡng cho trẻ mầm non”
lồng ghép với hội thi “Bé khoẻ bé tài năng” tại lớp.
- Động viên khuyến khích, huy động sự tham gia của các bậc cha mẹ
trong việc tổ chức cho trẻ thực hiện các nội dung “Tập làm nội trợ” Qua đó trẻ
gọi tên, phân biệt được các loại quả, các món ăn cách trang trí sắp sếp và vệ sinh
sau khi tiến hành hoạt động “Tập làm nội trợ” như: Đóng góp các thực phẩm
để trẻ thực hành (đóng góp rau, củ, quả, tiền….) thu thập các tài liệu, tranh ảnh
có liên quan; tham gia “Triển lãm” tranh “ Bé tập làm nội trợ”; tham gia tổ

chức hội thi “bé tập làm nội trợ” liên hoan sinh nhật, lễ, tết với trẻ; phụ huynh
trò chuyện hướng dẫn trẻ thực hành “Tập làm nội trợ” qua các trò chơi: Tập
làm bánh trôi, bánh chay.
Qua hội thi giúp giáo viên, phụ huynh và học sinh có sự phối hợp chặt
chẽ, hiểu biết về kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm nhu cầu dinh dưỡng,
kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ, một số kiến thức về các nhóm thực phẩm cần
thiết, chế biến các món ăn phù hợp với trẻ mầm non. Vì vậy tôi chỉ đạo giáo
viên lựa chọn đội thi của lớp mình có sự tham gia của phụ huynh. Đối với khối
mẫu giáo mỗi lớp một đội thi mỗi đội 5 thành viên gồm 1 giáo viên, 2 phụ
huynh và 2 học sinh. Các đội tự lên thực đơn và chế biến món ăn bữa chính và
phụ cho trẻ 10 suất ăn, yêu cầu phối hợp các món ăn cân đối giữa các nhóm thực
16


phẩm. Trong thời gian 60 phút các đội hoàn thiện món ăn của đội mình. Ban
giám khảo là đại diện ban chấp hành phụ huynh của trường, ban giám hiệu, trạm
y tế…Như vậy qua hội thi giúp cho giáo viên, phụ huynh có nhiều kiến thức về
dinh dưỡng, từng bước nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ không chỉ ở nhà
trường mà ở cả gia đình.
(Hình ảnh minh họa kèm theo phụ lục 7 - ảnh 1)
Hình ảnh 1: Ngày hội dinh dưỡng cho trẻ mầm non.
* Thông qua hội thi “Cô nuôi giỏi” cấp trường
Nhằm đánh giá việc tổ chức thực hiện bếp ăn an toàn, đúng quy cách và đảm
bảo yêu cầu về an toàn thực phẩm trong trường mầm non.
Tạo điều kiện cho đội ngũ nhân viên phát huy tính sáng tạo, đúc trút kinh
nghiệm, giao lưu học hỏi lẫn nhau trong việc sử dụng bảo quản thực phẩm, cách
chế biến các món ăn giàu chất dinh dưỡng, đầy dủ và hợp lý trong khẩu phần ăn
hàng ngày cho trẻ mầm non.
Nhằm giúp cán bộ quản lý nâng cao năng lực quản lý thực phẩm, quản lý
bếp ăn đạt yêu cầu, có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ

chuyên môn về nghiệp vụ dinh dưỡng, đồng thời tiếp tục rút kinh nghiệm, điều
chỉnh, tổ chức thực hiện bếp ăn , cách tính khẩu phần ăn và chế biến dinh
dưỡng hợp lý cho trẻ tại trường mầm non hiện nay.
Tuyên truyền tới các bậc phụ huynh, các ban ngành đoàn thể và cộng
đồng về kiến thức chăm sóc - nuôi dưỡng trẻ theo khoa học và đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm. Đồng thời tạo điều kiện cho cán bộ, giáo viên, nhân viên trao
đổi, chia sẻ kinh nghiệm về công tác chăm sóc - nuôi dưỡng trẻ trong các trường
mầm non.
Hội thi “Cô nuôi giỏi” cấp trường giúp các nhân viên dinh dưỡng đang
trực tiếp nấu ăn tại trường có cơ hội nâng cao tay nghề và sáng tạo hơn trong
công việc. Nhân viên tham gia dự thi phải có chứng chỉ, có sức khỏe tốt, có
phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn và đồng nghiệp đánh giá cao,
được lãnh đạo nhà trường xác nhận. Tôi xây dựng nội dung thi: Gồm 2 phần: bài
thi năng lực và thực hành. Qua hai phần thi đánh giá đúng năng lực của cô nuôi
và tạo cơ hội cho họ được rèn luyện, không ngừng nâng cao tay nghề, học tập
được nhiều kinh nghiệm từ đồng nghiệp.
(Hình ảnh minh họa kèm theo phụ lục 7 - ảnh 2)
Hình ảnh 2: Hội thi “Cô nuôi giỏi”
Kết quả: Thông qua 2 hội thi được tổ chức tại trường đã được đông đảo
CBGV,NV và cha, mẹ trẻ nhiệt tình hưởng ứng và tham gia, thông qua hội thi
này đã phần nào cải thiện nhận thức của cha, mẹ trẻ về chất lượng bữa ăn cho
con em mình tại gia đình, góp phần không nhỏ tới việc chăm sóc nuôi dưỡng
cho trẻ về chất lương bữa ăn và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, với đồng nghiệp và nhà trường.
Sau một năm thực hiện một số biện pháp về “Một số biện pháp nâng cao

17



chất lượng bữa ăn và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ trong trường mầm
non” tôi đã thu được một số kết quả sau:
- Qua khảo sát chất lượng cuối năm trên trẻ cho thấy:
(Kèm theo phụ lục 1 – Bảng 3 và bảng 4)
Bảng 3: Kết quả khảo sát về tình trạng sức khỏe của trẻ tại thời
điểm tháng 4 năm 2019.
Bảng 4. Kết quả khảo sát về chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm của trẻ tại thời điểm tháng 4 năm 2019.
- Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm đối với giáo viên về nâng cao
chất lượng bữa ăn và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ tại thời
điểm tháng 4 năm 2019 cho thấy:
(Kèm theo phụ lục 2 – Bảng 2)
Bảng 2: Khảo sát chất lượng đầu năm đối với giáo viên
về nâng cao chất lượng bữa ăn và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ
tại thời điểm tháng 4 năm 2019.
* Về phía trẻ:
Trong năm học vừa qua nhà trường không có trường hợp nào bị ngộ độc
thức ăn. Vì vậy, trẻ đến trường ngày một đông. Với 279 học sinh được khảo sát
và khám sức khỏe kết quả đạt rất cao:
Từ kết quả trên so với thực trạng đầu năm học ta thấy: số trẻ ăn bán trú
học tại trường đạt 100%, trẻ ăn ngon miệng, ăn hết xuất, số trẻ suy dinh dưỡng
giảm. Qua bảng thống kê ta thấy tỷ lệ trẻ phát triển bình thường tăng lên rõ rệt
từ 92% lên đến 98%, tỷ lệ suy dinh dưỡng đã giảm một cách đáng kể từ 8%
xuống còn 2%. Không những thế qua công tác kiển tra thường xuyên trong bữa
ăn tôi thấy trẻ ăn ngon miệng, ăn hết xuất, không có hiện tượng bỏ bữa, chán ăn.
Điều này đã khẳng định kết quả bước đầu đem lại sau khi tôi áp dụng sáng kiến
này trong nhà trường nơi tôi công tác.
* Đối với bản thân và đồng nghiệp:
Những biện pháp mà tôi đưa ra đã được các bạn bè, đồng nghiệp trong nhà
trường hưởng ứng và áp dụng vào quá trình nâng cao chất lượng bữa ăn và

phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ trong trường mầm non đạt kết quả cao.
* Đối với nhà trường:
Đối với sáng kiến“Một số biện pháp nâng cao chất lượng bữa ăn và
phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ trong trường mầm non” mà tôi nêu ở trên
được áp dụng tại nhà trường nơi tôi công tác và nhân rộng thêm, lan tỏa trong
công tác quản lý chỉ đạo.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ mầm non có vai trò hết
sức quan trọng trong việc hình thành và nhân cách cho trẻ. Để trẻ luôn khỏe
mạnh phát triển một cách toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, tình cảm quan hệ xã hội
thì việc chăm sóc giáo dục và nuôi dưỡng trẻ theo khoa học là hết sức quan
trọng và cần thiết.
18


Bằng sự cố gắng không ngừng của bản thân trong công tác chỉ đạo, sự
nhiệt tình của các đồng chí cán bộ giáo viên, sự quan tâm tạo điều kiện của lãnh
đạo cấp trên trong những năm qua nhà trường đã gặt hái được những kết quả
đáng khích lệ.
Từ những khó khăn ban đầu trong công tác chọn và chế biến thực phẩm
đến nay giáo viên đã thực hiện thành thạo và thường xuyên thay đổi khẩu vị cho
trẻ giúp trẻ ăn ngon miệng, hết xuất, sức khỏe của trẻ ngày một tăng, số trẻ bị
suy dinh dưỡng giảm, trẻ đến trường ngày một đông. Bởi vậy mà việc cải thiện
và nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ trong trường mầm non là hết sức cần thiết.
Từ những kết quả trên bước đầu có thể khẳng định sáng kiến đã mang
lại kết quả rất đáng khích lệ đối với đội ngũ giáo viên nâng cao kiến thức về chế
biến đảm bảo chất lượng bữa ăn và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Thành công của sáng
kiến này đã giúp tôi rút ra được bài học kinh nghiệm sâu sắc trong quá trình

quản lý chỉ đạo ở trường đó là:
- Tích cực tham mưu với Ban giám hiệu, xây dựng thực đơn giàu dinh
dưỡng cho trẻ.
- Tự bồi dưỡng nâng cao khả năng chê biến món ăn và bồi dưỡng nâng
cao trình độ cho giáo viên nuôi.
- Quản lý tốt quỹ tiền ăn của trẻ và xây dựng khẩu phần ăn hợp lý cho trẻ.
- Lồng ghép dinh dưỡng và sức khỏe vào các hoạt động học và các hoạt
động trong ngày của trẻ tại trường mầm non.
- Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
- Tuyên truyền phòng chống suy dinh dưỡng đến cha, mẹ trẻ
- Phối hợp với Cha, mẹ trẻnâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ thông qua
các hội thi.
3.2. Kiến nghị:
- Đối với phòng giáo dục: Thường xuyên mở các lớp tập huấn cho giáo
viên học hỏi thêm về công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Nhằm nâng cao trình
độ năng lực chuyên môn cho giáo viên cũng như việc nâng cao chất lượng bữa
ăn và phòng chống suy dinh ưỡng cho trẻ.
- Đối với nhà trường: Cần đầu tư thêm về cơ sở vật chất. Cung cấp
cho giáo viên một số tài liệu về cách chế biến món ăn cho trẻ mầm non. Có kế
hoạch tổ chức cho giáo viên được học tập chuyên nghành nấu ăn, tổ chức cho
giáo viên nuôi đi thăm quan các đơn vị làm tốt nhiệm vụ nuôi dưỡng trẻ.
Trên đây là một số sáng kiến của tôi đã rút ra từ thực tế quản lí chỉ đạo
công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ hàng ngày tại trường, trong khi viết sáng
kiến không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự đóng góp của các
cấp lãnh đạo và các bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến của tôi ngày một hoàn
thiện hơn và góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng bữa ăn cho
trẻ và phòng chống suy dinh dưỡng trong nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

19



Nga Thạch, ngày 10 tháng 4 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác
Người viết sáng kiến

Phạm Thị Hồng

Phạm Thị Hằng

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bài viết: “Trẻ em như búp trên cành” - />[2]. Một số tài liệu có liên quan về công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ - Tài
liệu tập huấn “Vệ sinh an toàn thực phẩm”
[3]. Tổ chức hoạt động nuôi dưỡng cho trẻ học bán trú tại trường mầm non.
[4]. Bài hát “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” - Nhạc sĩ Lê Mây (phổ nhạc
từ bài thơ “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” - nhà thơ: Phùng Ngọc Hùng)
[5]. Giáo dục dinh dưỡng và đảm bảo an toàn cho trẻ trong trường mầm non.
[6]. Tài liệu bồi dưỡng hè năm học 2017 - 2018.
+ Hướng dẫn thực hiện chế độ dinh dưỡng và đánh giá sức khỏe trẻ mầm non.
+ Công tác an toàn vệ sinh thực phẩm trong cơ sở giáo dục mầm non.
[7]. Sổ tay hướng dẫn bếp ăn tập thể đảm bảo an toàn thực phẩm năm 2018
- Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Thanh Hóa.



DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNH KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Phạm Thị Hằng
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Mầm non Nga Thạch.

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh…)

1

Một số giải pháp xây dựng
thực đơn chuẩn cho trẻ ở
trường mầm non.

PGD&ĐT
Huyện Nga
Sơn.

2


Một số giải pháp giáo dục
dinh dưỡng cho trẻ mẫu
giáo 3 - 4 tuổi ở trường
mầm non Nga Bạch.

3

Một số giải pháp chỉ đạo
nâng cao chất lượng giáo
dục dinh dưỡng và vệ sinh
ATTP ở trường mầm non
Nga Bạch.

4

Một số giải pháp giúp giáo
viên sáng tạo trong tổ chức
hoạt động chung cho trẻ
mẫu giáo theo chương trình
giáo dục mầm non mới tại
Trường mầm non Nga
Thạch.

PGD&ĐT
Huyện Nga
Sơn.

PGD&ĐT
Huyện Nga
Sơn.


PGD&ĐT
Huyện Nga
Sơn.

PHỤ LỤC

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A,B hoặc
C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

B

2011 - 2012

B

2012 - 2013

B

2013 - 2014

C


2015 - 2016


KÈM THEO SKKN: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG BỮA ĂN VÀ PHÒNG CHỐNG SUY DINH DƯỠNG CHO TRẺ”
Phụ lục 1:
*Qua khảo sát chất lượng đầu năm trên trẻ cho thấy:
Bảng 1: Kết quả khảo sát về tình trạng sức khỏe của trẻ tại thời
điểm tháng 9 năm 2018.
Nội dung
Tổng số trẻ trong toàn trường
Trẻ ăn bán trú tại trường
Trẻ ăn hết xuất
Trẻ phát triển bình thường về cân nặng
Trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân
Trẻ phát triển bình thường về chiều cao
Trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi

Số lượng
279
240
219
256
23
254
25

Tỷ lệ %
100

86
91
92
8
91
9

Bảng 2: Kết quả khảo sát về chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh
an toàn thực phẩm của trẻ tại thời điểm tháng 9 năm 2018.
Kết quả chung
Tỷ lệ Chưa
Tỷ lệ
đạt

Nội dung

Số trẻ

Đạt

Trẻ biết sử dụng dụng cụ ăn uống
đơn giản
Trẻ biết gọi tên các loại thực phẩm
đơn giản, nhận biết, phân biệt
được 4 nhóm thực phẩm thông
thường.
Trẻ biết ăn nhiều loại thức ăn khác
nhau, biết hoạt động chế biến các
món ăn đơn giản.


279

243

87

36

279

238

85

41

279

210

75%

69

25%

Trẻ có thói quen vệ sinh văn minh
trong ăn uống.

279


210

75%

69

25%

13

15

*Qua khảo sát chất lượng cuối năm trên trẻ cho thấy:
Bảng 3: Kết quả khảo sát về tình trạng sức khỏe của trẻ tại thời


×