Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp một

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HẬU LỘC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN CHỮ VIẾT CHO HỌC
SINH LỚP MỘT

Họ và tên: Mai Thị Gấm
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thành Lộc
Hậu Lộc – Thanh Hóa
SKKN thuộc lĩnh vực : Môn Tiếng Việt.

HẬU LỘC NĂM 2019


MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận.
2.2. Thực trạng của việc rèn chữ viết cho học sinh lớp Một.
2.2.1. Các điều kiện trong việc nâng cao chất lượng chữ viết.
2.2.2. Thực trạng về việc rèn chữ viết của giáo viên ở trường
Tiểu học Thành Lộc
2.2.3. Thực trạng về chữ viết của học sinh lớp Một.


2.3. Các giải pháp đã sử dụng để rèn chữ cho học sinh.
2.3.1. Rà soát phân loại đối tượng học sinh.
2.3.2. Giáo viên cần nắm vững các kiến thức, kỹ năng viết
chữ.
2.3.3. Chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc rèn chữ
viết.
2.3.4. Rèn viết đúng trọng tâm các nhóm chữ, hướng dẫn các
kỹ thuật viết, cách khắc phục một số lỗi sai cơ bản.
2.3.5. Vận dụng các phương pháp giảng dạy đặc trưng trong
môn Tập viết một cách linh hoạt.
2.3.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giờ dạy tập viết.

TRANG
1
2
2
2
2
3
3
4
4
6
6
6
6
9
13
16


2.3.7. Phối kết hợp với phụ huynh học sinh trong quá trình
Giúp học sinh rèn kỹ năng viết chữ.

18

2.3.8. Tổ chức các hình thức thi đua nhằm khuyến khích việc
rèn chữ viết cho học sinh.
2.4. Hiệu quả sáng kiến.
3. Kết luận
3.1. Kết luận.
3.2. Những kiến nghị, đề xuất.

18

Tài liệu tham khảo

19
20
20


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Từ xa xưa ông cha ta rất coi trọng việc rèn luyện chữ viết, người xưa đã
coi “Nét chữ nết người”, xã hội càng văn minh thì yêu cầu về chữ viết càng phải
đúng và đẹp. Chính vì vậy, việc rèn luyện kỹ năng viết đúng, viết đẹp cho học
sinh là một việc làm quan trọng trong nhà trường. Đây là yêu cầu, là trách nhiệm
với tất cả giáo viên, đặc biệt là giáo viên Tiểu học. Đồng thời ta có thể nhận thấy
rằng chữ viết hiện nay của học sinh nói chung và của học sinh tiểu học nói riêng
là một vấn đề đáng quan tâm.

Ở giai đoạn đầu của cấp Tiểu học trẻ em đến trường thường bắt đầu quá
trình học tập của mình bằng việc học chữ. Trẻ em biết chữ mới có phương tiện
để học tiếng Việt và các môn học khác. Viết chữ đúng, rõ ràng, tốc độ nhanh thì
học sinh có điều kiện ghi chép bài tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn. Viết
xấu, tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập. Việc rèn chữ
viết đẹp là rèn nết người, học sinh được rèn tính kiên trì, cẩn thận và óc thẩm mĩ.
Ngoài ra, việc dạy luyện chữ viết đẹp cũng góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa
dân tộc, nét chữ truyền thống của người Việt Nam.
Lúc sinh thời cố vấn Phạm Văn Đồng đã từng nói: "Chữ viết cũng biểu
hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp
phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như
đối với thầy cô".
Thực tiễn về dạy chữ viết của trường Tiểu học nói chung và trường Tiểu
học Thành Lộc nói riêng có nhiều vấn đề cần quan tâm. Ngoài những mặt thuận
lợi là được sự quan tâm của các cấp, các ngành, đặc biệt là nhà trường và các
bậc phụ huynh đã tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất trường lớp, trang bị tương
đối đầy đủ thiết bị dạy và học, trong quá trình giảng dạy bản thân tôi là giáo viên
đã nhiều năm dạy lớp một vẫn thấy có nhiều mặt còn khó khăn đó là: Học sinh
lớp Một còn rất nhiều bỡ ngỡ, việc làm quen với chữ viết của các em thật khó
khăn bởi đôi tay của các em còn vụng về, lóng ngóng. Các em chưa hề có kiến
thức cơ bản về chữ viết và kĩ thuật viết chữ. Mà kĩ thuật viết chữ đúng là điều
cốt lõi để duy trì kĩ năng viết đúng, viết nhanh và làm chủ tiếng nói về mặt văn
tự đó. Khi các em đã có kĩ thuật viết chữ đúng các em mới viết đẹp và từ kĩ thuật
viết đúng đó sẽ là cơ sở giúp các em viết được những kiểu chữ sáng tạo đẹp hơn.
Số học sinh viết chữ đẹp, đúng quy trình, có ý thức "Rèn viết chữ đẹp, giữ vở
sạch" mới chỉ là số ít. Nhiều học sinh viết chữ còn xấu, cẩu thả, viết chưa đúng
chuẩn theo mẫu chữ mới. Một số ít giáo viên chưa có biện pháp thiết thực và
hiệu quả trong việc rèn chữ viết cho học sinh nên chất lượng chữ viết của học
sinh còn nhiều hạn chế.
Vậy làm thế nào để chữ viết của học sinh đẹp hơn, làm thế nào để học

sinh có ý thức rèn chữ giữ vở tốt hơn, đồng thời giúp học sinh có những kĩ năng
ban đầu để tạo nền móng vững chắc cho các em học tập sau này là những vấn đề
mà bản thân tôi luôn trăn trở. Đó là lý do để tôi chọn nội dung "Một số biện
pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp Một" làm đề tài nghiên cứu của mình.
1


1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là xác định các giải pháp, biện pháp
cụ thể, thiết thực nhằm:
- Giúp giáo viên nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập viết lớp Một.
- Giúp học sinh có kỹ năng viết chữ đúng và đẹp.
- Nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp Một ở trường Tiểu học Thành Lộc.
1.4.Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở khoa học liên quan đến nhận thức của học sinh lớp
Một.
- Điều tra khảo sát thực tế.
- Thống kê, tổng hợp, xử lý số liệu.
- Áp dụng thực nghiệm.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:
Đặc điểm đôi tay trẻ khi viết: So sánh bàn tay của người lớn với bàn tay
trẻ em có thể thấy những chỗ khác nhau rõ rệt. Các cơ và xương tay người lớn
đã hoàn chỉnh nên có thể cử động rõ ràng theo một hướng. Các cơ và xương bàn
tay của trẻ đang độ phát triển nhiều chỗ còn sụn nên cử động các ngón tay vụng
về, chóng mệt mỏi. Khi cầm bút các em có tâm lý sợ rơi. Điều này gây nên một
phản ứng tự nhiên là các em cầm bút chặt, các cơ tay cứng nên khó di chuyển.
Do vậy, dường như các em viết bằng toàn thân chứ không chỉ bằng tay (khi viết

mím môi, tròn mặt...). Muốn có thói quen viết chữ nhẹ nhàng, thoải mái, trước
hết học sinh phải biết kỹ thuật cầm bút bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ,
ngón giữa), bàn tay phải có điểm tựa là mép cùi của bàn tay. Nếu các em cầm
bút sai kỹ thuật bằng 4 đến 5 ngón tay, khi viết vận động cổ tay, cánh tay thì các
em sẽ mau mệt mỏi, kết quả chữ viết không đúng và nhanh được. Trong thời
gian đầu, có thể các em nhận ra đúng hình chữ nhưng bàn tay chưa ghi lại đầy
đủ hình dáng của mẫu chữ. Chỉ sau khi luyện tập, số lần nhắc đi nhắc lại nhiều
hay ít tuỳ theo từng học sinh, thì các em mới chép đúng mẫu.
Cơ sở tâm lý: Tâm lý tình cảm có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình nhận thức.
Nếu trẻ được viết trong tư thế thoải mái, tâm trạng phấn khởi thì dễ có kết quả
tốt. Ngược lại, nếu trẻ buồn phiền thì chữ viết cũng bị ảnh hưởng. Để viết được
chữ thì học sinh phải hoạt động (phải tiêu hao năng lượng của thần kinh và bắp
thịt).
Phân môn Tập viết ở Tiểu học cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ
bản về chữ viết và kỹ thuật viết chữ, học sinh nắm bắt được những kiến thức về
cấu tạo bộ chữ cái La Tinh ghi âm tiếng Việt, sự thể hiện bộ chữ này trên bảng,
vở... đồng thời được hướng dẫn các yêu cầu kỹ thuật viết nét chữ, chữ cái, viết
từ và câu. Chúng ta đều biết rằng khi dạy tập viết phải đảm bảo nguyên tắc phối
hợp đồng bộ của các bộ phận cơ thể tham gia vào việc viết chữ. Giáo viên khắc
sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con đường kết hợp mắt nhìn, tai
2


nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các em chủ động phân tích hình dáng, kích
thước và cấu tạo theo mẫu chữ, tìm sự giống và khác nhau. Viết chữ trong phân
môn Tập viết thuộc giai đoạn đầu của kỹ năng viết. Hiểu theo nghĩa rộng thì các
giai đoạn của quá trình viết chữ trong phân môn này dồn trọng tâm vào việc viết
chữ cái để ghi âm và viết chữ để ghi tiếng, từ.
Theo quyết định số 31/ 2002 - QĐ/BGD & ĐT ngày 14 tháng 6 năm 2002
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định:

* Mẫu chữ cái viết thường: Các chữ cái: b, g, h, k, l, y được viết với chiều
cao 2,5 đơn vị tính bằng 2 lần rưỡi chiều cao chữ cái ghi nguyên âm.
+ Chữ cái t được viết với chiều cao 1,5 đơn vị.
+ Các chữ cái: d, đ, p, q viết với chiều cao 2 đơn vị.
- Chữ cái s, r được viết với chiều cao 1, 25 đơn vị.
+ Các chữ cái còn lại: a, ă, â, c, e, ê, i, n, m, o, ô, ơ, u, ư, v, x được viết với chiều
cao 1 đơn vị.
+ Dấu thanh được viết trong phạm vi 1 ô vuông có cạnh là 0.5 đơn vị.
* Mẫu chữ cái viết hoa
- Chiều cao của các chữ cái viết hoa là 2,5 đơn vị, riêng 2 chữ cái viết hoa
là Y , G được viết với chiều cao 4 đơn vị.
- Chữ viết Tiếng Việt là chữ ghi âm. Nguyên tắc cơ bản của kiểu chữ này là
nguyên tắc ngữ âm học. Về cơ bản, nguyên tắc đảm bảo sự tương ứng 1-1 giữa
âm và chữ. Ngoài ra về mặt chữ viết các âm Tiếng Việt đều rời, có cấu tạo đơn
giản nên việc đánh vần không phức tạp lắm. Tuy nhiên cấu tạo của hệ thống
chữ viết còn tồn tại một số bất hợp lý.
Ví dụ: Một âm ghi bằng nhiều con chữ:
c
/K/
k
q
- Chữ viết phân biệt theo hệ thống ngữ âm chuẩn nhưng cách đọc của học sinh
lại thể hiện ngữ âm của phương ngôn nơi địa phương các em sinh sống nên gây
ra hiện tượng lỗi.
- Phân môn Tập viết dạy học sinh những khái niệm cơ bản về đường kẻ, dòng
kẻ, toạ độ viết chữ, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, vị trí dấu thanh, dấu
phụ, các khái niệm liên kết nét chữ hoặc liên kết chữ cái.
- Dạy Tập viết là dạy học sinh các thao tác chữ viết từ đơn giản đến phức tạp,
bao gồm kỹ năng viết nét, liên kết nét tạo chữ cái và chữ ghi tiếng. Đồng thời
giúp các em xác định khoảng cách, vị trí, cỡ chữ trên vở kẻ ô li để hình thành kỹ

năng viết đúng mẫu, rõ ràng và cao hơn là viết nhanh viết đẹp.
2.2. Thực trạng của việc rèn chữ viết cho học sinh lớp Một:
Năm học 2018 - 2019, tôi được nhà trường phân công giảng dạy và chủ
nhiệm lớp 1C, tôi nhận thấy thực trạng sau:
2.2.1.Các điều kiện trong việc nâng cao chất lượng chữ viết:
Ban giám hiệu nhà trường, các cấp lãnh đạo xã và ngành giáo dục rất
quan tâm đến học sinh, đặc biệt là học sinh lớp một. Các em được học ở ngôi
3


trường khang trang sạch đẹp, trang bị về cơ sở vật chất đầy đủ và tương đối tốt,
ánh sáng đảm bảo, bàn ghế đúng quy cách phù hợp với chiều cao trung bình của
mỗi học sinh.
Phòng thư viện cung cấp đủ tài liệu, đồ dùng: như bộ chữ dạy tập viết chữ
thường và chữ hoa, mỗi lớp đều có bảng chữ cái theo mẫu chữ quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
Mỗi giáo viên được trang bị một bộ chữ dạy tập viết do Nhà xuất bản
Giáo dục sản xuất.
Ở độ tuổi học sinh lớp Một, các em đa số ngoan, biết vâng lời cô giáo,
thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên, khen thưởng,...
Đa số các phụ huynh có con em học lớp một đều quan tâm đến việc học
tập của con em mình. Các em có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập theo yêu cầu
của giáo viên.
Môi trường giao tiếp, phương tiện, thông tin đại chúng thuận lợi cho việc
dạy và học Tập viết tiếng Việt. Nội dung các bài Tập viết rõ ràng, cụ thể và phù
hợp với đối tượng học sinh.
Đa số phụ huynh trong lớp là con gia đình làm nông nên chưa dành thời
gian quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện
tốt để kèm cặp nhắc nhở con em học tập.
2.2.2. Thực trạng việc rèn chữ viết của giáo viên ở trường Tiểu học Thành

Lộc
Đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có kinh nghiệm
trong công tác, yêu nghề, mến trẻ, năng động, sáng tạo, nhiệt tình, dám nghĩ
dám làm hết lòng tận tụy với công việc, với sự nghiệp giáo dục, có ý thức tốt về
trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp trong quá trình
dạy học nói chung và dạy chữ viết cho học sinh nói riêng.
Việc học sinh viết đúng và đẹp hay không phụ thuộc rất nhiều vào người
giáo viên trực tiếp dạy học. Người giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
viết chữ của học sinh. Qua thực tế tôi xác định các nguyên nhân từ phía giáo
viên dẫn đến việc học sinh viết chữ viết chưa đẹp như sau:
Giáo viên ít chú trọng trong việc rèn luyện chữ viết cho học sinh. Chưa có
biện pháp rèn chữ viết cụ thể. Chưa giúp học sinh nắm chắc các nét cơ bản, cấu
tạo con chữ, dòng kẻ, kĩ thuật viết... trong các tiết luyện viết mà chỉ nhấn mạnh
về độ cao con chữ. Hướng dẫn rèn chữ viết chưa theo đối tượng học sinh.
Ngoài phần hướng dẫn viết trong phần tập viết, với các môn học khác
giáo viên mới chỉ thiên về cung cấp kiến thức chứ chưa trú trọng đến việc chỉnh
sửa chữ viết cho học sinh.
Phần luyện viết trong vở Tập Viết, vở ô li, nhiều giáo viên chỉ hướng dẫn
qua loa và nhắc nhở học sinh viết đúng, đủ số dòng quy định chứ chưa quan sát
để tìm ra lỗi viết sai mà học sinh hay mắc phải. Vì vậy không rèn cho học sinh
tính cẩn thận, tỉ mỉ khi viết bài.
2.2.3. Thực trạng về viết chữ của học sinh lớp Một:
Lớp Một là lớp đầu cấp các em còn nhỏ, mới qua lớp mẫu giáo, nhận thức
của các em không đều. Bên cạnh đó, việc giáo dục cho các em những phẩm chất
4


như: tính cẩn thận, tính kỉ luật và khiếu thẩm mĩ chưa được quan tâm đúng mức.
Các em chưa hiểu biết về cách viết chữ đúng, điều này là một khó khăn cho việc
dạy chữ viết cho học sinh.

Các em ngồi viết không đúng tư thế, cách cầm bút của học sinh chưa
đúng, rất nhiều em cầm bút bằng 4 ngón tay, có em cầm cả 5 ngón tay, thậm chí
cầm 3 ngón tay nhưng chưa chụm cả 3 ngón tay vào quản bút, cán bút vuông
góc với mặt vở, có em cầm bút ngả về phía trước, cầm bút theo kiểu cấy mạ,
cầm như vậy học sinh có cảm giác cây bút được giữ chặt hơn nhưng tốc độ viết
bị hạn chế và khó lượn nét bút.
Học sinh thường để vở không đúng cách - để vở sát mép dưới của bàn
học, nên không có chỗ đặt khuỷu tay trên mặt bàn. Khi viết phải cử động cả
cánh tay, chữ viết không thể hiện đúng mẫu chữ.
Lỗi về kỹ thuật viết:
- Thiếu nét: Lỗi này do thói quen của học sinh chưa viết hết các nét chữ đã
dừng.
- Thừa nét: Học sinh viết sai quy trình, điểm đặt bút ban đầu, nét đầu học
sinh viết không đúng, dừng điểm vượt quá quy định.
- Sai nét: Lỗi này thường do học sinh cầm bút sai, các ngón tay quá gần ngòi
bút, khi viết biên độ dao động của ngòi bút ngắn, đầu ngòi bút di chuyển không
linh hoạt làm cho nét chữ bị cong vẹo gây sai nét.
- Khoảng cách: Viết chữ không liền mạch, nhấc bút nhiều lần trong khi viết
nên chữ viết bị rời rạc, cắt vụn do không nắm được quy trình liên kết các con
chữ.
- Dấu chữ, dấu thanh: Với các con chữ có dấu phụ: "ô", "ư" trong các chữ
học sinh thường viết dấu phụ ngay sau khi viết các con chữ.
- Lỗi chính tả: Lỗi này do phương ngữ của các em và cách phát âm sai hoặc
không nắm được quy tắc chính tả.
- Lỗi về cách dừng bút, kết thúc nét chữ: Khi kết thúc nét cuối cùng, hay có
thói quen nhấn mạnh đầu ngòi bút, dễ làm chữ biến dạng.
- Ngoài ra khi viết các em thường hay tẩy xoá tuỳ tiện làm cho vở bẩn, chữ viết lại
nên chỗ vừa tẩy cũng không đẹp.
- Đa số các em chưa có ý thức rèn chữ viết, thậm chí không quan tâm đến chữ viết
xấu hay đẹp.

- Mặt khác các em đang chuyển từ hoạt động vui chơi là chính sang hoạt động học
tập nhiều hơn, có kỷ luật hơn , phải viết nhiều hơn và trong một thời gian nhất định
phải hoàn thành, vì thế các em nhanh mỏi tay và dễ chán nản khi viết chữ.
Đầu năm học sau khi nhận lớp, dạy được hai tuần tôi quan sát thấy đa số
các em viết chữ chưa đúng mẫu, chưa đẹp, độ cao, độ rộng và khoảng cách các
chữ còn chưa đúng, sau đó tôi tiến hành phân loại về chất lượng chữ viết của
học sinh ở tuần thứ 7 kết quả như sau:
Viết đều, đẹp
Viết đúng mẫu
Viết chưa đúng
Lớp TS
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
1C 32
6
18,6
10
31
16
50
5


Nhìn vào bảng kết qủa trên ta thấy học sinh viết chưa đúng mẫu còn nhiều,
đây chính là điều bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp một rất
băn khoăn và trăn trở làm sao để tìm ra giải pháp tốt nhất để giảng dạy và rèn

luyện cho các em các kỹ năng học tập và đặc biệt là kỹ năng viết đúng để thực
hiện tốt mục tiêu giáo dục đã đề ra .
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để rèn chữ viết cho học sinh:
2.3.1. Rà soát phân loại đối tượng học sinh.
Để rèn được chữ viết cho học sinh thì việc đầu tiên là giáo viên phải phân
loại trình độ chữ viết của học sinh. Đây là một vấn đề quan trọng bởi vì trong
thực tế chúng ta muốn tiếp cận đối tượng của mình một cách thuận lợi thì trước
hết phải hiểu được đối tượng mà mình tiếp cận. Sau khi nhận lớp tôi luôn quan
sát một cách chi tiết, cụ thể việc viết của từng em, tôi phân thành 3 loại: viết
đều, đẹp; viết đúng mẫu chữ; viết chưa đúng mẫu chữ. Sau khi phân loại học
sinh tôi sắp xếp chỗ ngồi để tôi dễ dàng nhất trong việc giúp các nhóm đối tượng
rèn chữ viết đúng và đẹp.
2.3.2. Giáo viên cần nắm vững các kiến thức, kỹ năng chữ viết
- Muốn nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, người giáo viên cần
nắm vững Quyết định số 31/2002/QĐ-BGD&ĐT ngày 14/6/2002 về việc ban
hành mẫu chữ viết trong trường Tiểu học và các yêu cầu cơ bản của dạy Tập
Viết ở lớp Một.
- Kiến thức: Giúp học sinh có được những hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ,
độ cao, cỡ chữ, hình dáng, kiểu chữ, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng
cách giữa các chữ, chữ ghi tiếng, cách viết các chữ viết thường, dấu thanh và
chữ số.
- Kỹ năng: Viết đúng quy trình, viết chữ cái và liên kết các chữ cái tạo
thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên dòng
kẻ. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện các kỹ năng như: tư thế ngồi viết, cách
cầm bút, để vở…..
2.3.3. Chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc rèn chữ viết.
2.3.3.1. Hướng dẫn chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học tập.
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được thực hành luyện viết thông
qua 2 hình thức: viết trên bảng (bảng cá nhân – bảng con, bảng lớp) bằng phấn
và viết trong vở Tập viết (tài liệu học tập chính thức do Bộ GD&ĐT qui định đối

với lớp 1) bằng bút chì, bút mực. Do vậy, để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt,
học sinh cần có ý thức chuẩn bị và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập
thiết yếu sau:
+ Bảng con, phấn trắng, khăn lau.
Thông qua việc thực hành luyện viết của học sinh trên bảng con, giáo viên
nhanh chóng nắm được những thông tin phản hồi trong quá trình dạy học để kịp
thời xử lí, tác động nhằm đạt được mục đích dạy học đề ra. Để việc sử dụng các
đồ dùng học tập nói trên trong giờ Tập viết đạt hiệu quả tốt, giáo viên cần hướng
dẫn học sinh thực hiện một số điểm sau:
Chuẩn bị bảng con, phấn, khăn lau đúng qui định:
6


- Bảng con: Yêu cầu thống nhất một loại bảng Hồng Hà có dòng kẻ đồng
dạng với dòng kẻ li trong vở Tập viết, loại bảng này có 2 mặt, mặt trước có dòng
kẻ li nhỏ giống hệt vở ô li, thuận tiện cho việc rèn viết cỡ chữ nhỡ, mặt kia có
dòng kẻ li to thuận tiện cho việc luyện viết cỡ chữ nhỏ.

- Phấn viết: Yêu cầu học sinh dùng phấn trắng, mềm (hãng phấn Mic)có độ dài
vừa phải, không quá cứng hay quá mềm.
- Khăn lau sạch, có độ ẩm vừa phải.
+ Vở tập viết, bút chì, bút mực.
- Vở tập viết lớp một cần được bao bọc, dán nhãn tên, giữ gìn sạch sẽ, không
để quăn góc hoặc giây bẩn. Khi viết chữ đứng, học sinh cần để vở ngay ngắn
trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng, tự chọn cần để vở hơi nghiêng sao cho mép
vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 độ.
- Bút chì dùng để tập viết ở 8 tuần đầu lớp một cần được gọt cho cẩn thận, đầu
chì không nhọn quá hay dày quá để dễ viết rõ nét chữ.
- Bút mực trước đây đòi hỏi học sinh hoàn toàn sử dụng loại bút có quản,
ngòi bút nhọn đầu viết được nét thanh nét đậm. Từ khi loại bút bi được sử dụng

phổ biến thay thế cho bút chấm mực, việc học tập viết của học sinh có phần tiện
lợi (viết nhanh, đỡ giây mực…) nhưng chất lượng chữ viết có phần giảm sút. Vì
vậy, giáo viên nhất thiết phải hướng dẫn cho học sinh loại bút phù hợp, không
dùng bút bi sẽ hỏng chữ.
2.3.3.2. Hướng dẫn tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở và cách trình bày bài
viết:
+ Hướng dẫn tư thế ngồi viết.
- Ngay từ khi mới vào lớp một ở những giờ học đầu tiên giáo viên cần hướng
dẫn học sinh kĩ về tư tế ngồi viết một cách thoải mái nhất, không gò bó, hai tay
phải đặt đúng điểm tựa quy định mới điều khiển cây bút theo sự chỉ huy của não
được. Khoảng cách từ mắt đến trang vở tầm 25cm đến 30cm là vừa (khoảng hơn
một gang tay người lớn); không được nhìn quá gần vì nếu thiếu ánh sáng dễ dẫn
đến cận thị.
- Cột sống lưng luôn ở tư thế thẳng đứng, vuông góc với mặt ghế ngồi. Không
ngồi vặn vẹo lâu dần thành có tật dẫn đến cong vẹo cột sống.
- Hai chân để song song, thoải mái, không để chân co, chân duỗi khiến cột
sống sẽ bị lệch, vẹo và chữ viết sẽ xiên, lệch theo.
- Hai tay để lên bàn, khi viết tay phải cầm bút, tay trái giữ lấy mép vở cho
khỏi xô lệch, đồng thời làm điểm tựa cho trọng lượng nửa người bên trái.
7


Ngồi viết đúng tư thế
+ Hướng dẫn cách cầm bút.
- Tay phải cầm chắc bằng 3 đầu ngón tay ( ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa).
Đầu ngón trỏ cách đầu bút chừng 2,5cm. Mép bàn tay là điểm tựa của cánh tay
phải khi đặt bút xuống bàn viết. Lúc viết điều khiển cây bút bằng các cơ cổ tay.
- Không để ngửa bàn tay quá, ngược lại không úp quá nghiêng bàn tay về bên
trái (nhìn từ trên xuống thấy cả 4 ngón tay: ngón trỏ, ngón giữa, ngón cái và
ngón út)

- Cầm bút xuôi theo chiều ngồi bút đặt nghiêng so với giấy khoảng 45 độ.
Tuyệt đối không cầm bút dựng đứng 90 độ. Đưa bút từ trái qua phải, từ trên
xuống dưới, các nét đưa lên hoặc đưa sang ngang phải thật nhẹ tay.

Cầm bút đúng cách
+ Hướng dẫn cách để vở, xê dịch vở khi viết.
Vở không gập đôi, để hoàn toàn trên mặt bàn. Khi viết chữ đứng, học sinh
cần để vở ngay ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng, tự chọn cần để vở hơi
nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng
150. Khi viết độ nghiêng của nét chữ cùng với mép bàn sẽ tạo thành một góc
vuông 900. Như vậy, dù viết theo kiểu chữ đứng hay kiểu chữ nghiêng, nét chữ
luôn thẳng đứng trước mặt (chỉ khác nhau về cách để vở).

8


Mặt khác tôi phô tô gửi mỗi phụ huynh một bản hướng dẫn về tư thế ngồi
viết, cách cầm bút, để vở. Khuyên phụ huynh mua bảng chữ mẫu viết thường
của Bộ Giáo dục và Đào tạo để học sinh luyện viết ở nhà.
+ Hướng dẫn cách trình bày bài viết.
Học sinh nhìn và viết đúng theo mẫu trong vở tập viết; viết theo yêu cầu
được giáo viên hướng dẫn tránh viết dở dang chữ ghi tiếng hoặc viết quá ra mép
vở không có dòng kẻ li; khi viết sai chữ, không được tẩy xoá mà cần để cách
một khoảng ngắn rồi viết lại.
2.3.4. Rèn viết đúng trọng tâm các nhóm chữ, hướng dẫn các kĩ thuật viết,
cách khắc phục một số lỗi sai cơ bản.
*Rèn viết đúng trọng tâm các nhóm chữ.
Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái,
để học sinh viết đúng kĩ thuật, ngay từ đầu tôi chia các nét cơ bản và các chữ cái
thành các nhóm chữ và xác định trọng tâm đại diện cho mỗi nhóm chữ để rèn

cho học sinh tập viết từ dễ đến khó, đầu tiên giáo viên thống nhất với học sinh
cách gọi tên các nét cơ bản, nhóm nét cơ bản này tôi sẽ hướng dẫn các em luyện
thật kĩ theo các nhóm đã chia, nếu các em viết tốt các nét cơ bản sẽ là điều kiện
thuận lợi để viết các nhóm chữ thường.
+ Nhóm các nét cơ bản
- Nhóm 1: Nhóm nét thẳng

- Nhóm 2: Nhóm nét móc
- Nhóm 3: Nhóm nét cong
- Nhóm 4: Nhóm nét khuyết

- Nhóm 5: Nhóm nét thắt

+ Nhóm chữ thường:
- Nhóm 1: Nhóm chữ có nét tương đồng là nét cong

9


Với nhóm chữ này nhiều người cứ nghĩ là đơn giản nhưng hầu hết học
sinh viết chưa cân đối, chưa đẹp chữ O, đây là nhóm chữ khó viết đẹp vì rất dễ
méo, khó tròn, nét chữ không đều đầu to đầu bé. Trong nhóm chữ này cần xác
định tọa độ dựa vào đường kẻ , điểm giữa của lưng nét cong phải đặt cân bằng
chính giữa đường kẻ (tức là điểm gặp dòng kẻ ngang thứ 2 và cần cho học sinh
nắm chắc chiều rộng của các nét cong là 1,5 ô li (tức là một ô li rưỡi), chính vì
vậy ở nhóm chữ này tôi xác định cần dạy cho học sinh viết đúng chữ O để làm
cơ sở cho việc viết đúng các chữ khác trong nhóm.
- Nhóm 2: Nhóm chữ có nét tương đồng là nét khuyết trên và nét khuyết
dưới:


Ở nhóm chữ này học sinh hay viết sai điểm giao nhau của nét và chữ viết
còn hay cong vẹo.
Để giúp học sinh viết đúng điểm giao nhau của các nét khuyết, bằng một
dấu chấm nhỏ và rèn cho học sinh thói quen luôn đưa bút từ điểm bắt đầu, qua
đúng chấm rồi mới đưa bút lên tiếp thì mới viết đúng.
Đối với học sinh lớp một để viết được nhóm chữ này thẳng, ngay ngắn thì
cần rèn cho học sinh biết viết nét sổ thật đúng, thật thẳng ở ngay bài các nét chữ
cơ bản khi nào thành thạo thì mới tiến hành viết nét khuyết.
- Nhóm 3: Nhóm chữ có nét tương đồng là nét hất(sổ)và nét móc

Với nhóm chữ này học sinh hay mắc lỗi viết chưa đúng nét nối giữa các
nét, nét móc thường hay bị đổ nghiêng, khi hất lên thường bị choãi chân ra
không đúng. Để khắc phục nhược điểm này ngay từ nét bút đầu tiên tôi đặt trọng
tâm rèn luyện cho học sinh viết nét móc ngược, nét móc hai đầu thật đúng, thật
ngay ngắn trước khi ghép các nét tạo thành chữ. Khi ghép chữ tôi luôn chú ý
minh họa rõ nét điểm đặt bút, điểm dừng bút của mỗi nét để chữ viết cân đối,
đẹp.
- Nhóm 4: Nhóm chữ chủ yếu tạo bởi nét cong, nét móc, nét có vòng xoắn

Đây là nhóm chữ khó viết đẹp nhất, đặc biệt là chữ s và r. Giáo viên cần
lưu ý hai con chữ này có độ cao là 2,5 li và sau nét thắt con chữ r là nét xuôi hơi
ngang đưa ra còn sau nét thắt con chữ s là nét xuôi xuống đưa vào.
10


Trong giờ dạy Tiếng Việt, phần luyện viết bảng con giáo viên cần sử dụng
bộ mẫu chữ cái trong bộ mẫu chữ Tập viết làm đồ dùng trực quan cho học sinh
quan sát, phân tích tỉ mỉ từng chữ cái và hướng dẫn các em dựa vào các đường
kẻ dọc, ngang trên bảng con và trong vở để chữ không bị nghiêng, bị méo.
Cần chú ý khi dạy chữ thường là phân tích kĩ chữ đầu tiên của nhóm. Dựa

vào nét chữ đồng dạng với đầu nhóm, giáo viên cho học sinh tự rèn các chữ còn
lại.
Sau khi chia các nhóm chữ, xác định trọng tâm cần dạy kĩ ở mỗi nhóm tôi
luôn đặt ra một kế hoạch rèn chữ hàng tuần, hàng tháng một cách cụ thể. Mỗi
tuần tôi rèn một nhóm chữ nhất định, rèn đúng nhóm chữ này mới chuyển sang
nhóm chữ khác, khi tập viết các nhóm chữ đó mà các em viết đúng kĩ thuật rồi
tôi mới tiến tới rèn viết đẹp nên các em rất say mê phấn khởi, không căng thẳng
lo lắng khi tập viết.
* Hướng dẫn học sinh các kĩ thuật viết.
Muốn dạy viết chữ điều quan trọng nhất giáo viên cần phải hướng dẫn học
sinh nắm chắc quy ước, kí hiệu của giáo viên trong việc xác định tọa độ dòng kẻ
ô li để khi dạy học giáo viên sẽ dễ dạy và học sinh dễ tiếp thu.
- Đường kẻ và dòng kẻ: Các chữ cái ghi âm Tập viết đều nằm trong các ô
vuông. Các ô vuông này do các đường kẻ và dòng kẻ cắt nhau tạo thành. Những
chữ cái có độ cao 1 dòng được xác định bằng đường kẻ ngang trên và đường kẻ
ngang dưới. Các dòng kẻ chia các ô vuông lớn thành các ô vuông nhỏ gọi là
dòng kẻ ngang (dòng ly) hoặc dòng kẻ dọc.
Dòng kẻ
- Cách xác định tọa độ của
Đường
điểm
đặt kẻ
bút và dừng bút
phải dựa trên khung chữ làm chuẩn.
- Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết 1 nét trong chữ cái. Điểm đặt bút có
thể nằm trên đường kẻ ngang, hoặc không nằm trên đường kẻ ngang.
- Điểm dừng bút: Là vị trí kết thúc của nét chữ. Điểm dừng bút có thể trùng
với điểm đặt bút (chữ O), nhưng đa số kết thúc ở 1/3 đơn vị chiều cao của thân
chữ. Do vậy người giáo viên chỉ dừng một chút để chỉ khái niệm này.
- Kỹ thuật "lia bút": Là khi viết nét bút được thể hiện liên tục nhưng không

chạm vào (giấy, bảng...) thao tác trên không ấy gọi là lia bút.
- Kỹ thuật "rê bút": Để tránh khỏi nhấc bút khi viết người ta thường dùng
động tác rê bút để tạo nét liên kết.
- Viết liền mạch: Khi viết các con chữ trong một chữ ta cần chú ý viết liền
mạch. Trong một chữ ta sử dụng kĩ thuật lia bút, rê bút, thuật kéo dài nét và
thêm nét phụ để nối các chữ trong một chữ cho liền mạch. Khi nối liền các con
chữ trong một chữ xuất hiện hai trường hợp:
- Nét nối thuận lợi: Là những nét nối giữa hai con chữ có điểm dừng bút và
điểm đặt bút trùng nhau.
- Nét nối không thuận lợi: Là những nét nối giữa hai con chữ có điểm dùng
bút và điểm đặt bút không trùng nhau.
11


Ví dụ: Chữ ghi tiếng “nụ” đây là trường hợp nét móc của chữ cái đứng trước
nối với nét hất đầu tiên của chữ cái đứng sau. Khi viết cần điều tiết về độ rộng,
khoảng cách giữa hai con chữ sao cho vừa phải hợp lí để chữ viết đều nét và có
tính thẩm mĩ. Khoảng cách từ chữ cái “n” sang chữ cái “u” hơi hẹp lại. dấu
nặng đặt dưới con chữ cái “u”

Chữ ghi vần “on” đây là trường hợp nét cong cuối cùng của chữ cái đứng
trước nối với nét móc đầu tiên của chữ cái đứng sau. Khi viết song chữ cái “o”
chuyển hướng ngòi bút ở cuối nét cong kín để nối sang nét móc của chữ cái “n”
sao cho hình dạng hai chữ cái vẫn rõ ràng, khoảng cách hợp lí.

Chữ ghi từ “san sát, sẵn sàng" đây là trường hợp chữ cái đầu tiên “s”của
từng chữ không có điểm dừng bút hướng tới chữ cái kế tiếp. Khi viết ta có thể
tạo thêm nét phụ (nét hất) để lấp khoảng cách, liên kết chữ và tạo đà lia bút.
Những con chữ cái còn lại ta vận dụng các kĩ thuật viết chữ đã nói ở trên.


- Khoảng cách: Cần quy định cho học sinh viết đúng hai loại khoảng cách.
+ Khoảng cách giữa chữ nọ với chữ kia bằng độ rộng con chữ o
+ Khoảng cách giữa con chữ nọ với con chữ kia bằng 1/2 đơn vị chữ (1/2
con chữ)
- Đánh dấu chữ và dấu ghi thanh.
+ Kích thước đầu chữ và dấu ghi thanh: 1/4 đơn vị chữ.
+ Dấu chữ nào đánh sát với dấu chữ ấy, dấu ghi thanh đánh ở vị trí âm
chính của vần. Viết liền mạch các nét chữ rồi mới đánh dấu chữ và dấu ghi
thanh.
Ngoài ra, viết lướt bút, nhấn bút sẽ thể hiện rõ thanh đậm và tạo ra đặc
tính riêng biệt của người viết. Để rèn chữ viết đẹp cho học sinh trong thời gian
ngắn mà đạt hiệu quả cao, ta cần chú ý những chỗ nào(nét chữ, kĩ thuật) học
sinh đã đạt được rồi thì không phải rèn nữa mà chỉ bồi dưỡng cho học sinh
những điểm yếu và thiếu.
* Cách khắc phục một số lỗi sai cơ bản.
- Thiếu nét: Cho học sinh viết thêm nét cho đủ nét ở ngay những chữ học
sinh vừa viết thiếu nét, đồng thời xem lại những bài viết trước chữ nào còn thiếu
nét thì thêm vào cho đủ nét và cho học sinh tập viết lại ngay bài viết sai vừa
được sửa.
- Thừa nét: Giáo viên phải hướng dẫn lại quy trình viết chữ cái đó rồi cho
học sinh luyện tập viết lại chữ cái đó trên bảng con trên vở ô ly.
12


- Sai nét: Nhắc học sinh cầm bút cho đúng vị trí. Khi viết các ngón tay cử
động linh hoạt phối hợp với cử động của cổ tay và cánh tay.
Sau khi phát hiện ra nguyên nhân chỗ viết chưa đúng cần giúp trẻ rút kinh
nghiệm, luyện tập nhiều lần lại nét đó tránh vấp phải sai sót lần sau. Khi ngồi
viết thấy mỏi tay, mồ hôi tay ra nhiều, hoặc hoa mắt ... cần phải nghỉ giải lao,
chuyển sang các hoạt động cơ bắp như vươn vai, hít thở, tập vài động tác thể

dục.
2.3.5. Vận dụng các phương pháp giảng dạy đặc trưng trong môn Tập viết
một cách linh hoạt.
Trong quá trình dạy học bản thân tôi đã áp dụng linh hoạt những phương
pháp dạy học sau:
* Phương pháp gây hứng thú cho học sinh.
Dạy luyện viết chữ cho học sinh, điều quan trọng là phải gây được hứng
thú cho học sinh. Khi các em yêu thích chữ đẹp thì các em sẽ say mê và quyết
tâm rèn chữ viết. Giáo viên có thể nêu gương sáng về chữ viết, kể những câu
chuyện về rèn chữ như: Thần Siêu luyện chữ, Cao Bá Quát, Nguyễn Ngọc Kí…
những gương người thật, việc thật. Ví dụ: Em Phạm Thị Trang, Lê Thị Diệu
Linh, Lê Ngọc Anh, Phạm Lê Na,... chữ viết đẹp nhất trường, các em hãy quan
sát chữ viết của các bạn và học tập. Giáo viên có thể phô tô các bài viết của học
sinh đã đạt giải viết chữ đẹp cấp huyện, cấp tỉnh làm mẫu cho các em, đồng thời
động viên các em nếu cố gắng, kiên trì rèn luyện thì chữ viết của các em cũng
đạt được như vậy. Khi đã gây được hứng thú cho học sinh, các em sẽ thích rèn
viết chữ đẹp, lúc này ta cung cấp các bài tập để học sinh rèn kĩ năng viết.
* Phương pháp trực quan.
Khi dạy chữ viết, việc đưa đồ dùng trực quan là chữ viết mẫu in sẵn về
từng chữ cái trong bảng chữ cái là việc làm để cung cấp cho học sinh biểu tượng
về chữ viết, chưa cung cấp được kĩ năng viết. Nếu trực quan là chữ của cô giáo
viết mẫu thì càng giá trị hơn, học sinh dễ tiếp thu biểu tượng về chữ viết hơn.
Giáo viên vừa viết vừa phân tích được từng nét chữ hoặc từng kĩ thuật nối các
con chữ, chữ mẫu của giáo viên còn có tác dụng tạo niềm tin cho học sinh, tạo
điều kiện cho việc rèn kĩ năng viết liền mạch, viết nhanh, vì thế khi viết mẫu
trên bảng lớp, giáo viên cần phải viết chậm để toàn lớp được nhìn thấy tay cô
giáo viết từng nét, một cách rõ ràng.
Khi hướng dẫn viết mẫu trên bảng lớp, giáo viên phải dùng lời nói mô tả
cách viết sao cho đúng, phù hợp, dễ hiểu để các em dễ tiếp thu, trú trọng những
nét nối hướng dẫn tỷ mỷ, chính xác cho học sinh, không nên hướng dẫn dài

dòng gây cho học sinh khó hiểu, không nên hướng dẫn một lần nhiều quá gây
rối mắt cho học sinh.
Mỗi thầy, cô giáo được xem như là một tấm gương phản chiếu để học sinh
soi rọi vào đó. Lứa tuổi của học sinh tiểu học là lứa tuổi hay “bắt chước” và làm
theo mẫu, giáo viên viết như thế nào thì học sinh viết như thế đó, đặc biệt là ở
lứa tuổi học sinh lớp một. Người giáo viên phải coi trọng việc trình bày trên
bảng là trang viết mẫu mực của mình cho học sinh noi theo. Do vậy mỗi giáo
13


viên cần rèn luyện viết đúng, viết đẹp, viết rõ ràng và ngay ngắn là tiêu chí mà
mọi giáo viên phải đặt ra và thực hiện bằng được trong từng giờ học.
Để gây hứng thú cho học sinh ngoài viết mẫu của cô tôi còn sử dụng phần
mềm dạy tập viết để hướng dẫn học sinh viết.
* Phương pháp đàm thoại gợi mở.
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. Giáo
viên dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng một hệ thống câu hỏi,
từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái đến việc so
sánh nét giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học với chữ cái mà
ngày hôm nay cô giáo dạy.
Ví dụ: Khi dạy chữ “a”, giáo viên có thể đặt câu hỏi:
Chữ “a” gồm có mấy nét?
Là những nét nào?
Chữ “a” cao mấy ô li?
Độ rộng của chữ là bao nhiêu?
Với những câu hỏi khó, giáo viên cần định hướng cách trả lời cho các em.
Vai trò của giáo viên ở đây là người tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích
cấutạo chữ cái chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập viết ở phần sau.
* Phương pháp luyện tập thực hành.
Đây là một phương pháp quan trọng. Tập viết chữ có tính chất thực hành.

Phải thường xuyên nhắc nhở học sinh ở mọi nơi mọi lúc, không chỉ ở phần tập
viết trong phân môn Tiếng Việt mà còn ở tất cả các môn học khác. Các bài tập
cho học sinh luyện tập cần chú ý: Các chữ có nét giống nhau thì xếp vào một
nhóm để rèn luyện. Số lượng bài tập ít nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần với yêu cầu
cao dần. Việc cho học sinh viết đi viết lại nhiều lần một bài sẽ dễ dàng nhận ra
lỗi sai của học sinh đồng thời cũng dễ nhận xét sự tiến bộ của học sinh. Có nhiều
hình thức cho học sinh luyện tập thực hành:
+ Luyện viết trên không.
Trước khi thực hành tập viết ở bảng con, giáo viên nên cho học sinh luyện
viết trên không đây là bước giúp học sinh rèn luyện đôi tay và rèn luyện quy
trình viết các nét để học sinh khỏi ngỡ ngàng khi viết. Giáo viên cũng có thể cho
học sinh tì đầu ngón tay trên mặt bàn để hình thành dần kỹ năng viết các nét cho
đều đặn. Bước này có thể lặp lại từ 2 - 3 lần.
+ Tập viết chữ trên bảng lớp.
Hình thức tập viết chữ trên bảng lớp có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách
viết chữ và bước đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh, qua đó, giáo viên
phát hiện chỗ sai của học sinh để uốn nắn chung cho cả lớp hoặc đánh giá xếp
loại.
+ Tập viết chữ trên bảng con.
Học sinh thường được luyện tập viết chữ bằng bảng con trước khi tập viết
vào vở, viết bảng con có thể lau, xóa dễ dàng. Ngoài ra còn giúp giáo viên dễ
dàng quan sát phát hiện lỗi sai rồi sửa nét, sửa chữ cho hầu hết các em trong lớp,
giúp các em viết vào vở hoàn chỉnh và đẹp hơn.
14


Trước khi viết bảng con phải hướng dẫn cho các em viết đúng chiều bảng,
khi viết, giáo viên có thể cầm tay từng em khi tập viết bài đầu hoặc khi viết
những nét khó, sau đó mới thả tay cho các em tự viết. Khi dùng hình thức này
nên tận dụng cả hai mặt bảng khi viết, cần có mẫu trình bày bảng con cho từng

phần để học sinh nhìn vào đó mà viết theo.
Khi học sinh viết bảng con chưa đạt yêu cầu, giáo viên cần cho học sinh
nhận xét thật tỉ mỉ về chiều cao, chiều dài và chiều rộng của chữ cái, điểm đặt
bút, điểm dừng bút của chữ cái đó. Từ đó hướng dẫn học sinh sửa sai ngay ra
bên cạnh chữ cái vừa viết sai để so sánh. Không nên xóa bảng rồi mới sửa chữ
viết sai. Giáo viên chữa lỗi sai chung bằng cách viết lại chữ đúng ngay bên cạnh
chữ viết sai của học sinh bằng phấn màu khác, tránh viết đè lên chữ viết sai của
học sinh. Mặt khác khi học sinh viết giáo viên cần quan sát uốn nắn để học sinh
sửa sai kịp thời. Học sinh lớp một rất hiếu động thích được khen do vậy trong
quá trình học sinh viết bảng con, giáo viên cần động viên học sinh kịp thời, khen
là nhiều, chê ít hoặc chê thật tế nhị ví dụ như: Em đã viết gần đúng, gần đẹp rồi
nhưng cần phải sửa một chút và đề nghị học sinh sửa ngay ra bên cạnh.
+ Luyện viết trong vở.
- Luyện viết trong vở tập viết: Muốn cho học sinh sử dụng có hiệu quả vở tập
viết, giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về kĩ năng viết của từng
bài (chữ mẫu, các dấu chỉ khoảng cách giữa các chữ, dấu chỉ vị trí đặt bút, thứ tự
viết nét…) giúp các em viết đủ, viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết.
- Luyện viết trong vở ô li: Giáo viên cần viết mẫu vào vở cho toàn bộ học
sinh trong lớp cho đến khi học sinh học xong phần âm (chữ cái). Sau khi chuyển
sang học phần vần, tiếng, từ giáo viên có thể chọn một số em viết chữ đẹp để
viết mẫu (nếu lớp quá đông)
- Rèn nếp viết chữ rõ ràng sạch đẹp.
Sự nghiêm khắc của giáo viên về chất lượng ở tất cả các môn học là cần
thiết. Có như thế, việc luyện tập viết chữ mới được củng cố đồng bộ và thường
xuyên. Việc làm này yêu cầu người giáo viên ngoài những hiểu biết về chuyên
môn còn cần có sự kiên trì, cẩn thận và lòng yêu nghề - mến trẻ.
Cần chọn vở luyện viết ở nhà đúng mẫu, rõ ràng ( Một số vở dùng luyện
viết đẹp như: Em tập viết đúng – viết đẹp của Lê Ngọc Diệp chủ biên, vở ô li có
mẫu chữ của Nhà xuất bản Đại học Sư phạm do tác giả Trần Minh Hương biên
soạn hoặc luyện viết chữ đẹp của tác giả Trần Mạnh Hưởng) để giao nhiệm vụ

cho các em luyện viết.
Trong những giờ Tập viết giáo viên cần nắm bắt được khả năng viết của
từng em một mà từ đó khuyến khích thêm và nhất là giúp đỡ cho những em chưa
hoàn thành trong phần tập viết. Giáo viên nên viết mẫu để các em tập viết nhiều
lần. Trong quá trình viết học sinh thường bộc lộ tâm lý thích nhanh hơn các bạn,
nên viết vội vàng khiến cho nét chữ chưa đúng. Vì thế giáo viên cần xem xét đến
tốc độ viết của học sinh. Đặc biệt nhắc nhở học sinh tính cẩn thận, không nên
vội vàng mà thiếu nét, thiếu dấu.
+ Tập viết chữ trong các môn học khác.
15


Không những rèn viết trong quá trình tập viết mà cần rèn viết trong cả
những tiết học khác nữa. Cần tận dụng việc luyện chữ viết trong các bài học, bài
làm ở các môn học khác để học sinh luôn có thói quen viết đúng, viết đẹp. Đối
với lớp một nói riêng và cả bậc Tiểu học nói chung. Sự nghiêm khắc của giáo
viên về chất lượng chữ viết ở tất cả các môn học là sự cần thiết. Có làm được
như vậy thì việc luyện tập viết chữ mới được đồng bộ thường xuyên.
+ Nhận xét, chữa bài.
Trong quá trình nhận xét chữa bài giáo viên chữa những lỗi học sinh sai
phổ biến, hướng dẫn kỹ lại cách viết của chữ cái đó để học sinh khắc sâu cách
viết một lần nữa. Cho cả lớp xem bài viết đẹp. Kịp thời động viên, khích lệ
những học sinh có chữ viết tiến bộ. Tuyên dương những học sinh có bài viết
đẹp.
Khi chấm bài giáo viên không chỉ chú ý đến việc chữa lỗi cho học sinh mà
giáo viên cần phải kết hợp với lời phê chính xác mang tính khích lệ, chỉ bảo,
luôn chứa đựng tình cảm và sự động viên để học sinh tự tin vào bản thân khi viết
bài và nhận ra những tồn tại cần khắc phục.
Ví dụ: Đối với những bài học sinh viết đúng, đẹp: “ Bài của em viết đúng,
nét chữ mềm mại cô rất thích - em cần phát huy nhé!” Hay đối với những bài

học sinh viết chưa đúng nhưng đã có tiến bộ : “ Chữ viết của em đã có tiến bộ.
Cô rất vui. Em cần cố gắng đều nhé! ” những nét chữ sai tôi nhận xét thật rõ và
sau đó tôi viết mẫu cho các em những chữ viết sai để về nhà các em tập viết theo
mẫu đó.
2.3.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giờ dạy Tập viết.
- Sử dụng phần mềm dạy học Tập viết trong quá trình giảng dạy, dùng đĩa Tập
viết chữ Việt của các nhà sản xuất thiết bị dạy học (do nhà trường đặt mua của
công ty Công nghệ tin học Nhà trường) kết hợp sử dụng máy chiếu để dạy tiết
Tập viết.
- Thay vì sử dụng bìa mẫu (TBDH đơn giản) hoặc chữ viết mẫu trên bảng (do
giáo viên viết sẵn), giáo viên sử dụng phần mềm dạy học Tập viết chỉ cần “nhấn
chuột” (mở) từng cửa sổ trên màn hình máy vi tính theo lộ trình vạch sẵn để học
sinh tự theo dõi, sau đó gợi ý cho các em nhận xét về đặc điểm, cấu tạo, cách
viết chữ cái, từ ngữ hoặc câu ứng dụng (theo vở Tập viết tương ứng).
- Đĩa dạy từng bài Tập viết giúp giáo viên dễ dàng cho học sinh nêu từng nét
chữ và nêu quy trình nét nào viết trước, nét nào viết sau. Cách lia bút, rê bút,
nhấc bút và khoảng cách khi viết từng con chữ. Tạo hứng thú cho học sinh khi
nhận diện quy trình viết.
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh viết chữ b thường, giáo viên sử dụng phần mềm như
sau:
- GV “mở” cửa sổ mô tả, hướng dẫn HS nhận xét về đặc điểm của chữ cái b:
H. Chữ b cỡ vừa cao mấy li?
H. Gồm mấy đường kẻ ngang? Được viết bởi mấy nét?
( HS nhận xét, GV uốn nắn và hưỡng dẫn chữ b thường trên màn hình)

16


( Ảnh chụp một phần bài dạy ứng dụng CNTT)


- Giáo viên mở cửa sổ cấu tạo “kích chuột’ vào nét 1, hướng dẫn HS nhận xét về
cấu tạo:
H. Nét 1 là nét gì?/ nét 1 giống các chữ cái nào đã học? có điểm gì đáng lưu ý?
Lưu ý nét 1 là nét phối hợp của 2 nét cơ bản khuyết xuôi và móc ngược.
- Kích chuột vào “bắt đầu” cho học sinh quan sát chuyển động của nét viết và
nghe lời hướng dẫn trên băng đĩa. Nếu muốn dừng lại thì kích vào “dừng lại”,
muốn viết tiếp thì kích vào “ viết tiếp”.

( Ảnh chụp một phần bài dạy ứng dụng CNTT)

- Gv dừng chữ mẫu trên màn hình, viết chữ mẫu trên bảng lớp, cho HS nhắc lại
cách viết và hướng dẫn HS viết trên bảng con từ 2-3 lượt.
- Dạy bài tô chữ hoa giáo viên sử dụng phần mềm này dạy cho học sinh cấu tạo
của chữ và quy trình viết. Cách sử dụng tương tự như phần dạy chữ thường.
17


Tương tự cách thực hiện như vậy đối với phần dạy tập viết chữ ghi tiếng, chữ
ghi từ.Trước khi HS tập viết theo từng yêu cầu, GV mở từng biểu tượng tương
ứng để HS quan sát lại về cách viết được mô tả trên màn hình, sau đó tập viết
từng dòng theo mẫu trong vở Tập viết .
2.3.7. Phối kết hợp với phụ huynh học sinh trong quá trình giúp học sinh
rèn kỹ năng viết chữ.
- Việc rèn chữ viết cho học sinh phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như
ở nhà. Quá trình học tập và rèn luyện của học sinh trên lớp được cô giáo dạy dỗ,
động viên, đánh giá công nhận, được tập thể lớp và các bạn tán thưởng. ở nhà,
việc học tập được cha mẹ quan tâm dạy bảo. Điều này đã khẳng định quá trình
học tập và rèn chữ của học sinh đã được củng cố một cách hệ thống và càng
thêm vững chắc. Để phụ huynh quan tâm và phối hợp thực hiện tốt việc rèn chữ
cho học sinh lớp một. Tôi đã có những biện pháp sau:

- Đến thăm tìm hiểu gia đình, điều kiện học tập ở nhà của học sinh, từ đó
thấy được mức độ quan tâm của từng phụ huynh với học sinh.
- Gặp gỡ trao đổi với phụ huynh về tác dụng, ý nghĩa giáo dục và mục đích
của việc "Giữ vở sạch, viết chữ đẹp" cho học sinh qua các buổi họp phụ huynh.
- Đề ra một số yêu cầu đề nghị và thuyết phục phụ huynh tham gia.
+ Mỗi học sinh phải có một quyển vở luyện chữ ở nhà.
+ Tạo điều kiện để học sinh có góc học tập theo đúng quy định.
+ Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập cho học sinh trước khi đến lớp.
+ Luôn kiểm tra nhắc nhở học sinh từ tư thế ngồi viết, cách cầm bút, đặt
vở và luôn phải có ý thức viết chữ đúng, đẹp, gìn giữ sách vở ở nhà.
+ Có sự thông tin trao đổi thường xuyên về việc học tập của học sinh ở nhà
với giáo viên hàng ngày, hàng tuần.
2.3.8. Tổ chức các hình thức thi đua nhằm khuyến khích việc rèn chữ viết
cho học sinh.
- Tạo cuộc thi "Giữ vở sạch, viết chữ đẹp" ở các tổ với nhau. Hàng ngày
cuối mỗi buổi học tôi đều có nội dung rèn chữ viết cho học sinh, cuối tuần tôi
giành thời gian để các em trong tổ kiểm tra của tổ viên, nêu nhận xét đánh giá
18


xếp loại và kết quả được ghi trong sổ ghi chép của tổ. Trong buổi sinh hoạt lớp
tôi đánh giá kết quả và cho các cá nhân xếp loại A cắm cờ đỏ, loại B cắm cờ
vàng vào bảng thi đua.
- Cuối mỗi đợt thi đua các em đều được đánh giá cụ thể về ưu khuyết
điểm, rút kinh nghiệm và tự sửa trong thời gian viết, những em đạt kết quả cao
đều có hình thức khen thưởng trước lớp khi thì chiếc bút, khi thì quyển vở, khi
thì cái bút, nhân một cây hoa đẹp để trồng vào bình hoa nhỏ ...và đưa lên nhà
trường tuyên dương, khen thưởng vào buổi chào cờ.
- Đề nghị với nhà trường tổ chức buổi ngoại khoá về chủ điểm"Giữ vở
sạch, viết chữ đẹp" có sự đánh giá kết quả với sự chứng kiến của học sinh toàn

trường và các thầy cô giáo, để các em thấy được thành tích và sự nỗ lực của
mình.
- Qua các hình thức thi đua này giúp các em thấy rõ mục đích phấn đấu của
việc rèn chữ viết, từ đó tạo hứng thú học tập và giúp các em luôn có ý thức rèn
viết chữ một cách tích cực, dẻo dai, lâu bền.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên, tôi thấy học sinh lớp có
những chuyển biến rõ rệt về chữ viết.
Viết nắn nót, cẩn thận đã thành thói quen của học sinh.
Học sinh rất chăm và có ý thức trong việc rèn chữ viết và trình bày vở sạch
đẹp, chữ viết của các em có tiến bộ hơn hẳn so với đầu năm học.
Đa số các em đã biết cầm bút đúng cách, ngồi viết đúng tư thế, nắm được
cấu tạo chữ, mẫu chữ và kỹ thuật viết chữ.
Học sinh viết chữ thành thạo, đẹp, chữ viết đúng quy định, chữ đứng nét
đều.
* Kết quả: ( Tuần 27)
Viết đều, đẹp
Viết đúng mẫu
Viết chưa đúng mẫu
TS
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
32

16
50

15
46,5
1
3.1
Kết quả kiểm tra chất lượng chữ viết của nhà trường ở giữa học kì II

TS
32

Loại A

Loại B

Loại C

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

27

84,3


5

15,7

0

0

Với kết quả trên khẳng định việc thực hiện các giải pháp như tôi đã thực hiện ở
trên để rèn chữ viết cho học sinh lớp Một là việc làm đúng. Tôi khẳng định
những biện pháp trên có thể vận dụng hiệu quả vào việc rèn chữ viết cho học
sinh các lớp khác, góp phần nâng cao chất lượng viết chữ nói riêng và chất
lượng môn Tiếng Việt nói chung ở trường Tiểu học.

19


3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận:
Qua quá trình áp dụng sáng kiến "Một số biện pháp rèn chữ viết cho học
sinh lớp Một”. Bản thân tôi nhận thấy chữ viết đóng một vai trò rất quan trọng
đặc biệt ở Tiểu học nhất là lớp Một. Qua quá trình nghiên cứu và thực tế giảng
dạy với các biện pháp và kết quả nêu trên, tôi rút ra kết luận sau:
Để học sinh viết đúng, viết đẹp người giáo viên cần có lòng kiên trì, chịu
khó và phải thực sự nhiệt tình, yêu nghề, hết lòng vì học sinh thân yêu. Giáo
viên phải mẫu mực sư phạm, chữ viết đúng chuẩn, rõ ràng, đẹp cho học sinh noi
theo.
Phải phân loại chữ viết của học sinh thành từng nhóm chính để có kế hoạch
rèn chữ cho từng đối tượng học sinh. Sắp xếp chỗ ngồi thuận tiện để kèm cặp

các em đồng thời quan tâm đến thay đổi vị trí của học sinh trong lớp theo định
kỳ. Giáo viên thường xuyên nhận xét, tuyên dương, khích lệ sự tiến bộ về chữ
viết của học sinh trong từng bài viết để học sinh phấn khởi tích cực rèn luyện.
Trong dạy học Tập viết cần phải thường xuyên tổ chức các trò chơi thi viết
nhanh, viết đẹp tạo sự hứng thú rèn luyện cho học sinh. Tổ chức cuộc thi "Giữ
vở sạch, viết chữ đẹp" ở các tổ với nhau. Đổi mới phương pháp dạy học để các
tiết học đạt hiệu quả cao.
Sự phối hợp giữa cha mẹ học sinh với các thầy cô giáo sẽ tạo điều kiện
thuận lợi về cơ sở vật chất về mọi mặt, giúp ích rất nhiều cho việc nâng cao chất
lượng chữ viết cho học sinh.
3.2. Những kiến nghị, đề xuất:
- Đối với nhà trường: Thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề đánh giá
và rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng vở sạch chữ đẹp của trường, của từng
khối lớp. Duy trì các phong trào thi đua “ Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”. Có địa
điểm trưng bày các bài viết đẹp, tập vở sạch cho học sinh toàn trường tham
khảo.
- Đối với phòng GD&ĐT: Tổ chức chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy
học hoặc tổ chức hội thảo trao đổi kinh nghiệm trong việc rèn chữ viết cho học
sinh.
Trên đây là một số biện pháp của bản thân tôi về việc rèn chữ viết cho học
sinh lớp Một. Rất mong sự góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp, Hội đồng khoa
các cấp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn và có hiệu quả
thiết thực hơn trong công tác giảng dạy.
Xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hậu Lộc, ngày 10 tháng 3 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình viết, không sao chép nội dung
của người khác..
Người thực hiện

20


Mai Thị Gấm

CÁC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI CẤP HUYỆN
STT

Tên sáng kiến

Năm

Xếp loại

1

Hướng dẫn giải toán có lời
văn cho học sinh lớp một
Nâng cao chất lượng dạy
giải toán có lời văn cho học
sinh lớp một

2011 - 2012

C


2015 - 2016

B

2

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chữ viết và dạy chữ viết ở tiểu học. NXB Đại học Sư phạm Hà Nội
2. Vở em tập viết (tập 1, 2, 3) NXB Giáo dục – 2013
3. Mẫu chữ viết theo chương trình giảng dạy (Chữ thường, chữ hoa)
4. Dạy và học Tiếng Việt ở tiểu học theo chương trình mới. NXB Giáo dục
5. Hướng dẫn luyện viết chữ đẹp. NXB Đại học Sư phạm
6. Phương pháp dạy học chữ viết Tiếng Việt (Giáo trình sư phạm)



×