Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số giải pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 36 tháng tuổi ở trường mầm non thiệu long, huyện thiệu hóa, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.28 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Mục Lục
1
I MỞ ĐẦU
2
1 1.Lý do chọn đề tài
2
2 2.Mục đích nghiên cứu
3
3 3.Đối tượng nghiên cứu
3
4 4.Phương pháp nghiên cứu
3
II NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
1 Cơ sở lí luận
3
2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
4
3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
6
Giải pháp 1: Giáo viên cần nắm rõ đặc điểm phát triển
6
ngôn ngữ của trẻ từ đó có biện pháp phù hợp trong cách
giao tiếp với trẻ.
Giải pháp 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ hoạt
7
động chung nhận biết tập nói và làm quen với văn học.
Giải pháp 3: Lấy trẻ làm trung tâm dựa vào khả năng của


9
trẻ để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Giải pháp 4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi
10
nơi, lồng ghép tích hợp vào các hoạt động khác.
Giải pháp 5: Tạo môi trường giao tiếp gần gũi hấp dẫn
13
phong phú.
Giải pháp 6: Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy trẻ.
14
Giải pháp 7: Làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh
14
và cộng đồng để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
4 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nhiệm đối với các hoạt động
16
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
II KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
17
I
1 Kết luận
17
2 Kiến nghị
18
Tài liệu tham khảo
19

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
cấp học đặt nền móng cho các cấp học sau này với mục tiêu là giúp trẻ phát triển

1


về thể chất, tình cảm,trí tuệ, thẩm mỹ hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân
cách, hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, năng lực
và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa
tuổi. Khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho
việc học tập ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời [1].
Ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời, ngôn ngữ phát triển rất
mạnh mẽ, tạo điều kiện, cơ hội để trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã
hội của nền văn hoá loài người. Nó giúp trẻ tích luỹ kiến thức, phát triển tư duy,
giúp trẻ giao tiếp được với mọi người xung quanh, là phương tiện giúp trẻ điều
chỉnh, lĩnh hội những giá trị đạo đức mang tính chuẩn mực. Ngày nay trong
công tác chăm sóc giáo dục trẻ , chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối
với việc giáo dục – phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc giáo dục trí tuệ , đạo đức, thẩm mĩ
và lao động cho trẻ Trước hết, ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế
giới xung quanh. Song sự lĩnh hội những tri thức đó lại không thể thực hiện
được khi không có ngôn ngữ.
Đối với trẻ nhà trẻ muốn diễn đạt được những suy nghĩ của mình, trẻ phải
dùng ngôn ngữ để trao đổi, và cũng nhờ ngôn ngữ mà người lớn giúp trẻ có nhận
thức đúng đắn, phân biệt được cái tốt cái xấu, có tình yêu đối với con người và
thế giới xung quanh quanh mình. Khơi dậy ở trẻ lòng ham muốn làm những việc
tốt và ước mơ trong sáng.
Ông bà xưa có câu “trẻ lên ba cả nhà học nói” thật đúng như thế, dạy
ngôn ngữ cho trẻ ở tuổi lên ba có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó là thời điểm
nhạy cảm nhất đối với việc sử dụng ngôn ngữ của trẻ. Và đây chính là “thời kỳ
vàng” để trẻ tiếp thu ngôn ngữ cũng như trí tuệ một cách tốt nhất. Là giai đoạn
có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ. Vì thế cha mẹ và
những người lớn gần gủi với trẻ cần dạy cho trẻ ngay từ lúc đầu cách nói cho

đúng cho hay phù hợp với chuẩn mực đạo đức và bản sắc dân tộc.Việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi sẽ dễ dàng cho trẻ tiếp cận với các môn học
khác , đặc biệt là thông qua môn văn học- nhận biết tập nói giúp trẻ phát triển
khả năng tư duy và ngôn ngữ cảm thụ cái hay, cái đẹp xung quanh trẻ.
Trẻ 24-36 tháng mới phát âm được rất ít từ, lời nói của trẻ còn chưa rõ ràng
mạch lạc, vốn từ của trẻ còn ít, đa số các cháu còn nói ngọng, nói lắp, nói không
rõ chữ, rõ ý, hay lặp lại các câu nói của cô. Mặt khác các cháu còn nhỏ nên
thường có phản ứng chậm chạp hoặc rất khó khăn để hiểu những yêu cầu của cô
giáo. Vì bộ máy phát âm của trẻ còn yếu ớt rất nhạy cảm và còn tiếp tục hoàn
chỉnh cùng với sự phát triển chung của cơ thể. Trong quá trình giao tiếp với trẻ
và qua giờ hoạt động nhận biết tập nói, tôi thấy các cháu rất thích được trò
chuyện, thích được giao tiếp và thích được nói nhưng vì ngôn ngữ vốn từ còn
hạn chế, các cháu sử dụng ngôn ngữ thụ động nhiều trẻ rất muốn nói những lại
không thể diễn đạt được hết những suy nghĩ yêu cầu của mình dẫn đến tình trạng
cô hiểu sai ý trẻ, hoặc có một số cô không hiểu trẻ nói gì, không đáp ứng được
nhu cầu của trẻ khiến trẻ sợ đến lớp.
2


Chính vì vậy một giáo viên mầm non trực tiếp dạy trẻ 24-36 tháng tuổi tôi
luôn mong muốn làm như thế nào để tìm ra giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
một cách tốt nhất, để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho
phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy nên tôi đã mạnh dạn
chọn đề tài “Một số giải pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi
ở trường mầm non Thiệu Long, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa” nhằm
năng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất đáp ứng với
nhu cầu chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ trong thực hiện chương trình giáo dục
mầm non mới hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ từ đó tìm ra một số giải

pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng, giúp trẻ có vồn từ phong phú, đa
dạng, giúp trẻ phát âm đúng, nói tốt tiếng việt, diễn đạt rõ dàng, mạch lạc là điều
kiện tốt để chuẩn bị cho trẻ học đọc học viết sau này.
Tuyên truyền rộng rãi đến bậc phụ huynh về tầm quan trọng của việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24
-36 tháng.
Phạm vi nghiên cứu: Trẻ 24-36 tháng tuổi trường mầm non Thiệu Long,
Huyện Thiệu Hóa, Tỉnh Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, đọc sách báo chí, tạp chí, các giáo
trình tài liệu có liên quan
- Phương pháp nghiên cứu lí luận trên cơ sở phân tích, tổng hợp qua các
tài liệu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp trực quan, quan sát .
- Phương pháp trò chuyện, đàm thoại .
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận:
Trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với
mọi người xung quanh và ngôn ngữ chính là phương tiện cho việc dạy và học.
Đối với trẻ mầm non thì qua giao tiếp bằng ngôn ngữ và tư duy trẻ thu được các
kinh nghiệm sống làm phong phú thêm sự hiểu biết của trẻ.cụ thể trẻ nhà trẻ thì
nhận thức và ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, trẻ mới đang tập nói, có trẻ mới nói
được câu 2-3 từ ,có trẻ thì đã nói được câu 4-6 từ, có trẻ nói chưa trọn vẹn được
câu, trẻ chưa diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản… chính
vì vậy mà phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc làm cần thiết. Đối với trẻ nhà trẻ
phát triển ngôn ngữ chính là việc phát triển các khả năng nghe, hiểu, nói của trẻ.
Để phát triển các khả năng này thì việc dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, tập nói, trò

chuyện, giao tiếp với trẻ thông qua các hoạt động giáo dục trẻ trong ngày chính
là việc làm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.[2]
3


Như chúng ta đã biết những năm gần đây giáo dục mầm non đang tiến
hành đổi mới chương trình giáo dục mầm non trong đó luôn coi trọng việc phát
triển toàn diện nhân cách trẻ, trong đó ngôn ngữ đóng một vai trò rất quan trọng
là phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh,
khám phá môi trường xung quanh trẻ, thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn
trẻ được làm quen với các sự vật, hiện tượng, trẻ hiểu được những đặc điểm,
tính chất, công dụng của các sự vật cùng với từ tương ứng với nó, nhờ có ngôn
ngữ trẻ nhận biết càng nhiều các sự vật hiện tượng mà trẻ tiếp xúc trong cuộc
sống hàng này, ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm
mĩ, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ,
đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình
thành những cảm xúc tích cực, ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ hòa nhập với
cộng đồng và trở thành thành viên của cộng đồng. Trẻ dùng ngôn ngữ để bày tỏ
những nhu cầu mong muốn của mình với người lớn, nhờ ngôn ngữ mà trẻ dễ
dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức xã hội, giúp trẻ hòa nhập với xã hội
tốt hơn.
Trẻ từ 18 tháng trẻ đã bắt trước người lớn nói được một số từ đơn giả như
nhà, cha, bố đến 3 tuổi số lượng từ tăng nhanh nhất là trẻ từ 24 tháng tuổi đến
36 tháng tuổi vốn từ của trẻ phần lớn là danh từ và động từ, các loại khác như
tính từ, đại từ…. xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi của trẻ. Ở lứa tuổi
này trẻ không những hiểu các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và mối
quan hệ, tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa của các từ này còn rất hạn chế, trẻ sử dụng
các từ chỉ thời gian còn chưa chính xác, nhận thức về công cụ ngữ pháp còn rất
hạn chế…Vì vậy đối với trẻ 24-36 tháng tuổi chúng ta cầ phải giúp trẻ phát
triển mở rộng vốn từ , biết sử dụng nhiều loại câu, bằng cách thường xuyên trò

chuyện với trẻ, cho trẻ được quan sát các sự vật, hiện tượng quanh trẻ trong sinh
hoạt hàng ngày cung cấp cho trẻ biết về đặc tính, tên gọi, màu sắc, công dụng…
của chúng, để làm giàu vốn từ cho trẻ cũng như luyện phát âm, tập cho trẻ nói rõ
ràng mạch lạc.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Trong năm học 2018-2019 tôi được ban giám hiệu nhà trường phân công
dạy lớp 24-36 tháng chương trình giáo dục mầm non mới .Trong quá trình trực
tiếp giảng dạy giao tiếp với trẻ trong các hoạt động trên lớp tôi có gặp những
thuận lợi và khó khăn như sau:
*Thuận lợi:
+ Luôn được sự quan tâm hướng dẫn chỉ đạo sát sao về chuyên môn của
phòng giáo dục và đạo tạo, ban giám hiệu nhà trường.
+ Cơ sở vật chất: Nhà trường đã đầu tư trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi
tương đối đầy đủ, máy vi tính được kết nối internet, phòng học khang trang rộng
rãi đủ diện tích, phục vụ cho các cháu học tập và vui chơi.
+ Bản thân tôi là giáo viên được phân công được phụ trách lớp 24-36
tháng tôi luôn cố gắng học tập rèn luyện đổi mới các phương pháp khác nhau để
thu hút sự chú ý của trẻ để đạt hiệu quả tốt nhất. Bản thân có trình độ nghiệp vụ
4


tốt luôn yêu thương tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ yêu trẻ như con em mình
vì vậy luôn được sự tin yêu tín nhiệm của phụ huynh.
+ Được nhà trường và tổ chuyên môn thường xuyên dự giờ thăm lớp và
góp ý kiến trong các giờ lên lớp giúp chuyên môn của tôi ngày càng tiến bộ hơn.
*Khó khăn.
- Trong lớp có nhiều trẻ bố mẹ đi làm ăn xa ở với ông bà nên việc chăm
sóc giáo dục trẻ còn chưa được quan tâm.
- Là năm đầu tiên ra trường nên đi học một số cháu còn khóc nhiều chưa
thích nghi với điều kiện sinh hoạt của lớp nên còn nhiều bỡ ngỡ.

- Trẻ còn nói tiếng địa phương nhiều, nói ngọng, khả năng phát âm còn
yếu, vốn từ của trẻ còn rất ít, chưa nắm vững ngữ pháp, trẻ nói còn lệch âm,
chưa biểu đạt được hết ý trong lời nói.
- Trẻ chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp
- Trí nhớ của trẻ còn hạn chế chính vì vậy mà trẻ chưa biết cách sắp xếp
trật tự các từ trong câu nên khi phát âm trẻ thường bỏ bớt từ. Cách diễn đạt lời
nói của trẻ chưa tốt.
- Phụ huynh chưa thực sự quan tâm tới trẻ.
* Thực trạng ban đầu của nhóm/ lớp:
- Trình độ nhận thức của trẻ trong một lớp không đồng đều (vì có trẻ trong
lớp sinh tháng 1-2 nhưng có trẻ trong lớp sinh tháng 10 -11-12). Tháng tuổi của
trẻ chênh lệch nhau về tháng sinh quá xa ở lứa tuổi này sẽ dẫn đến sự chênh lệch
về trình độ nhận thức, sự hiểu biết, ngôn ngữ…
- Đặc điểm của trẻ nhà trẻ lứa tuổi 24-36 tháng rất thích được trò chuyện,
giao tiếp, thích được nói, nhưng ngôn ngữ, vốn từ của trẻ còn rất hạn chế, còn sử
dụng ngôn ngữ thụ động nhiều, khả năng phát âm chưa đạt nhiều trẻ còn nói
ngọng nói lắp, nói tiếng địa phương…
- Trẻ chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
*Kết quả cụ thể như sau:Bảng thực trạng đầu năm học 2018-2019
TT
1
2
3

Nội dung
Khả năng giao tiếp.
Vốn từ của trẻ
Khả năng phát âm

Số trẻ đạt Tỷ lệ

10
12
11

47,6
57,1
52,4

%

Số trẻ chưa
Tỷ lệ %
đạt
11
52,4
9
42,9
10
47,6

Nhìn vào bảng khảo sát trên chúng ta thấy :
- 52,4 % khả năng giao tiếp chưa đạt.
- 42,9 % vốn từ của trẻ chưa đạt.
- 47,6% khả năng phát âm chưa đạt.
Qua khảo sát, tôi thấy vốn từ của trẻ không đồng đều, nhiều trẻ chưa
mạnh dạn tự tin, nhiều trẻ phát âm chưa chuẩn.
Từ thực trạng trên tôi chăn trở và đưa ra một số giải pháp giúp trẻ 24-36
tháng phát triển ngôn ngữ tốt hơn ở trường mầm non Thiệu Long, huyện Thiệu
Hóa, Tỉnh Thanh Hóa.
5



3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
* Giải pháp 1: giáo viên cần nắm rõ đặc điểm phát triển ngôn ngữ
của trẻ từ đó có giải pháp phù hợp trong cách giao tiếp với trẻ.
Để phát triển ngôn ngữ một cách có hiệu quả thì việc đầu tiên tôi làm đó
là nắm bắt đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ ở độ tuổi 25-36 tháng để tìm ra
các giải pháp tốt nhất để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh mẽ từ khoảng 20 đến 30 từ , nhưng đến
24 tháng tuổi trẻ có vốn từ khoảng 200 đến 300 từ thường dùng là danh từ và
độn từ những từ gần gủi với cuộc sống của trẻ, giai đoạn này trẻ tiếp thu ngôn
ngữ một cách trực quan gắn liền với hình ảnh đồ vật, hiện tượng mà trẻ có thể
nhìn thấy, sờ thấy, chơi cùng trong các hoạt động hàng ngày “ mới đầu là kinh
nghiệm sau đó là hiểu và cuối cùng là dùng từ”. Trẻ đã biết sử dụng câu có 2
thành phần “Bà ơi, bế con” , “mẹ ơi, con đói” mặc dù có thể trật tự câu còn sai
lệch, thời kỳ này trẻ quan quan tâm đến tên gọi của đồ vật mà trẻ nhìn thấy, trẻ
thường hỏi những câu như “cái gì đây” “con gì kia”.. trẻ muốn bạn nhắc lại
nhiều lần để nghi nhớ.
Trẻ bắt đầu hiểu được tính khái quát của từ khi phát hiện ra rằng một tên
gọi có thể gọi cho rất nhiều con vật chúng có tính tương đồng ví dụ trẻ thấy từ
cái bàn được gọi cho cái bàn học của trẻ, cái bàn uống nước trong phòng khách
của bố, hay cái bàn ăn dưới bếp, trẻ cũng hiểu được khái niệm số nhiều mặc dù
chưa sử dụng đúng danh từ số nhiều, thời gian này trẻ đã hứng thú với sách vở
nhất là sách tranh, vì vậy cô giáo cần phải sưu tầm các loại sách có hình ảnh
đẹp, phù hợp với trẻ để cho trẻ xem. Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ chúng ta
phải cho trẻ tiếp xúc nhiều với thiên nhiên, các con vật dễ thương , màu sắc âm
thanh và sự linh hoạt sống động của chúng sẽ lôi cuốn trẻ giúp trẻ rất nhiều
trong quá trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Lên ba tuổi trẻ thích nói và nói rất nhiều, nó gắn liền với nhu cầu tìm
hiểu về thế giới của trẻ, trẻ hỏi nhiều các câu “Tại sao”, “ thế nào”. Nhờ có sự

hoàn thiện của trung khu ngôn ngữ ở vỏ não, tai nghe-cơ quan tiếp nhận ngôn
ngữ và cơ quan phát âm đến thời kỳ phát triển hoàn thiện nhiều trẻ nói rõ
ràng,mạch lạc, tròn vành rõ tiếng các từ kể cả từ khó, vốn từ của trẻ tăng nhanh
gấp 5 lần năm thứ 2 khoảng 1000 từ trong đó có 60 % là danh từ, 20% là động
từ và 10% là danh từ riêng và một số từ khác như đại từ…. Từ “tôi” xuất hiện
đánh dấu một bước phát mạnh của trẻ về cá nhân về bản thân và về nhân cách.
Đến ba tuổi trẻ “đọc” được một số ký hiệu thông thường trong cuộc sống
như biển báo nguy hiểm, lối ra vào trong nhà vệ sinh, lối ra, một số biển báo
gaio thông, việc đọc những ký hiệu này rất quan trọng trong cuộc sống của trẻ vì
vậy cô cần chú ý hướng dẫn trẻ “đọc” khi có cơ hội (Khi cho trẻ đi dạo chơi
thăm quan cho trẻ quan sát các biển báo giao thông có ở bên đường. giai đoạn
này trẻ “đọc” sách cũng có nhiều tiến bộ, đối với những câu chuyện trẻ đã được
nghe kể nhiều lần, trẻ có thể “đọc” vẹt một cách dễ dàng, chú ý dạy trẻ theo trật
tự từ và câu của tiếng việt cúng như cấu trúc của một rang sách, một cuốn sách.
Ba tuổi trở đi trẻ đã nói được câu câu 2 thành phần, nhiều khi mở rộng các thành
phần khác như trạng ngữ, bổ ngữ…[3].
6


Ví dụ: con đi chợ với bà ngoại, hay mẹ mua cho con quả bóng màu đỏ
nhé…
Bên cạnh đó trẻ còn sáng tác ra những từ mới, những câu chuyện, bài hát
bằng vốn ngôn ngữ mà trẻ tích lũy được, ví dụ cháu chào mẹ…
Trẻ nói được một số câu đơn câu phức, lời nói của trẻ rõ ràng mạch lạc
hơn…
Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt thì cô giáo cần nắm vững đặc điểm
phát triển ngôn ngữ của trẻ để từ đó tìm tòi đưa ra các giải pháp hay phù hợp với
độ tuổi của trẻ mà mình đang phụ trách giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cahs tốt
nhất.
* Giải pháp 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ hoạt động

chung nhận biết tập nói và làm quen với văn học.
Đối với trẻ nhà giờ hoạt động chung Nhận biết tập nói và làm quen với
văn học là hai hoạt động quan trọng nhất để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tốt
nhất. Thông qua hoạt động này trẻ được luyện phát triển ngôn ngữ một cách
khoa học và bài bản nhất, từ mục đích yêu cầu của hoạt động cô có thể vân dụng
các phương pháp giảng dạy một cách hài hòa, phù hợp với lứa tuổi thông qua
hoạt động nhu cầu giao tiếp của trẻ với cô được phát huy tối đa. Thông qua hoạt
động cô có thể phát hiện cháu có khả năng giao tiếp đến đâu, vốn từ của các
cháu nhiều hay ít, cháu có thể nói được câu dài hay ngắn, cháu phát âm có
chuẩn không? Để có biện pháp rèn luyện tốt nhất cho trẻ.
*Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ nhận biết tập nói.
Ở độ tuổi nhà trẻ các hoạt động chung để phát triển ngôn ngữ tốt nhất cho
trẻ đó là hoạt động nhận biết tập nói. Trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ
nhà trẻ từ 24 đến 36 tháng, hoạt động nhận biết tập nói giúp trẻ nhận biết và tập
nói về tên gọi và một số đặc điểm nổi bật của các đối tượng gần gũi xung quanh
để tăng thêm vốn từ và mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh. Những kiến
thức mà trẻ nắm được ở hoạt động này là một quá trình quan sát, ghi nhớ, tư
duy, tưởng tượng, thông qua những tiết dạy mà cô mang đến cho trẻ lượng kiến
thức nhất định, và cũng từ đấy cô cung cấp thêm cho trẻ rất nhiều vốn từ, như
các từ khó, từ mới, từ láy, từ ghép.... và dạy trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, trả lời
câu hỏi của cô đầy đủ cấu trúc ngữ pháp, phát triển khả năng giao tiếp của trẻ,
và cô phát hiện ra cháu nào yếu kém để có biện pháp kèm cặp, chú ý đến cháu
nhiều hơn.
Nhận thức được tầm quan trọng của của hoạt động nhận biết tập nói nên
tôi luôn chú ý nâng cao chất lượng của hoạt động nhận biết tập nói cho trẻ, để
giờ hoạt động nhận biết tập nói có hiệu quả thì phần không thể thiếu được đó là
phần giới thiệu vào bài gây hứng thú cho trẻ nó gần như là khâu quyết định đến
chất lượng của giờ học vì khi chúng ta thu hút được sự chú ý của trẻ vào hoạt
động thì trẻ mới chú ý vào những điều chúng ta cần truyền đạt trẻ mới ghi nhớ
được, vì vậy tôi luôn thay đổi cách lôi cuốn trẻ vào giờ học.

Ví dụ: như khi dạy bài “nhận biết tập nói quả xoài, quả cam” tôi sẽ tổ
chức cho trẻ chơi hái quả, xong tôi nhận xét và khen ngợi trẻ và cho trẻ về chỗ
ngồi để tiếp tục cho trẻ nhận biết tập nói về quả xoài, quả cam trẻ rất chú ý quan
7


sát và trả lời các câu hỏi của cô về đặc điểm, hình dạng, màu sắc… của quả cam,
quả xoài, qua đó luyện phát âm và phát triển vốn từ cho trẻ qua hình thức này trẻ
rất hứng thú và chú ý vào hoạt động, vừa để trẻ tự lên lấy đồ dùng rèn luyện kỹ
năng lao động tự phục vụ cho trẻ …..
Qua quá trình dạy trẻ, tôi thấy trẻ lớp tôi phụ trách phát âm sai rất nhiều từ
như con lợn phát âm thành con nợn hoặc quả xoài thành quả oài.. vì vậy với
những trẻ phát âm sai, ngay giờ học đó tôi đã chú ý sửa sai cho trẻ. Tôi phát âm
trước rõ lời, chậm để cho trẻ phát âm theo. khuyến khích động viên trẻ đứng lên
phát âm đúng, rõ ràng, nói từ từ, chính xác từng chữ một, có thể cho trẻ nói hai
ba lần để trẻ nhớ. Khi học tôi chia trẻ thành từng tổ, trong từng tổ có các cháu
tiếp thu bài khác nhau: giỏi có, khá có, trung bình có, yếu có, để dễ ràng bồi
dưỡng cũng như hướng dẫn trẻ giúp bạn của mình tập phát âm, tập nói theo trẻ.
Qua giờ hoạt động nhận biết tập nói cô cung cấp cho trẻ từ chỉ đồ vật:
cái bàn, cái ghế, cái áo, cái mũ,..từ chỉ con vật : con bò, con chó, con mèo….,
màu sắc: xanh, đỏ, vàng… hay những người thân trong gia đình: ông, bà, bố,
mẹ.... trong hoạt động nhận biết tập nói cô cần cho trẻ được quan sát và tập nói
nhiều lần cho trẻ phát âm cả lớp, tổ, cá nhân nhiều lần từ mà cô cung cấp cho trẻ
để trẻ được luyện phát âm và ghi nhớ các từ cô vừa cung cấp cũng như luyện
cho trẻ cách trả lời rõ ràng mạch lạc các câu hỏi của cô tăng hiệu quả phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
Đối với các giờ học, cô sử dụng đồ dùng trực quan phải đẹp lôi cuốn trẻ
vào giờ học, hệ thống câu hỏi rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu. Trong khi trẻ trả lời cô
hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói cụt lủn hoặc cộc lốc.
Ví dụ: cô đưa cái ca hỏi trẻ đây là cái gì? Cô dạy trẻ nói đủ câu “con thưa

cô đây là cái ca ạ”….
Kết thúc tiết học tôi tiếp tục sử dụng các biện pháp tích hợp, múa hát đọc
thơ, trò chơi…để cũng cố luyện tập phát tiển ngôn ngữ cho trẻ. Vì vậy tiết hoạt
động nhận biết tập nói của lớp tôi đạt hiệu quả rất tốt vốn từ của trẻ được tăng
hơn nhiều, trẻ phát âm chuẩn hơn...
*Phát triển ngôn ngữ thông qua giờ hoạt động văn học (Truyện, thơ)
Như chúng ta đã biết các câu chuyện bài thơ có ý nghĩa rất quan trọng với
trẻ, thông qua câu chuyện bài thơ giáo dục trẻ về tình cảm gia đình, tình yêu quê
hương đất nước, yêu cảnh đẹp thiên nhiên… giúp con người sống với nhau tốt
hơn, không những thế thông qua các câu truyện bài thơ còn giúp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ như qua các câu chuyện bài thơ cung cấp tên bài thơ, tên câu
chuyện, tên nhân vật, những vần thơ hay, lời đối thoại của nhân vật….rèn kỹ
năng nghe, nói, hiểu lời nói, rèn kỹ năng trả lời câu hỏi rõ ràng mạch lạc cho trẻ.
Thông qua câu chuyện bài thơ dạy trẻ cách diễn tả cảm xúc tâm trạng của từng
nhân vật giúp trẻ thể hiện đúng giọng điệu của nhân vật qua đó giúp trẻ thể hiện
được các biểu cảm của mình với mọi người.
Ví dụ: Cô kể chuyện và tập cho trẻ kể câu chuyện “Đôi bạn tốt” Trẻ biết
tên các nhân vật trong chuyện có bạn Gà, bạn Vịt, Cáo, trẻ biết gà và vịt là bạn
tốt khi thấy Gà gặp nạn Vịt đã ra cứu giúp, con Cáo gian ác muốn bắt gà ăn thịt
8


nhưng không được trẻ thể hiện thái độ yêu bạn gà và vịt nhưng khi nói đến cáo
trẻ tỏ thái độ tức giận….
Xong hoạt động cô treo tranh các con vật có trong câu chuyện cô vừa kể
và tập cho trẻ kể để xung quanh lớp, khi treo các nhân vật lên trẻ nhận biết được
tên các con vật trong chuyện trẻ nhìn vào tranh và kể lại chuyện theo tranh và
một số trẻ thông minh còn biết xắp xếp trình tự vừa giúp trẻ nhớ chuyện vừa
luyện phát âm và phát triển vốn từ cho trẻ.
Để các câu chuyện bài thơ hay luôn cuốn được trẻ tôi áp dụng các hình

thức như thủ thuật lôi cuốn trẻ vào hoạt động, áp dụng công nghệ thông tin vào
hoạt động sử dụng các hình ảnh động lôi cuốn trẻ vào hoạt động kể truyện cũng
như đọc các bài thơ ca dao, đồng dao.
Giải pháp 3: Lấy trẻ làm trung tâm dựa vào khả năng của trẻ để phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
Phương pháp này làm phát triển tính độc lập và tự tin của trẻ. Trẻ có khả
năng suy nghĩ, khám phá mà mà không cần tuân theo bất kì sự chỉ dẫn nào. Vì
vậy mà trẻ độc lập, có chứng kiến riêng và sẽ hoàn thành công việc sau khi đã
trải qua một quá trình liên tục của những cố gắng của trẻ.
Nhà trường ở cạnh khu dân cư, cạnh ngay xưởng mộc,đồng lúa,…nên tôi
cho trẻ được trải nghiệm thực tế bằng việc cho trẻ đi tham quan, ngoài trời khu
trồng rau nhà Ông Thoáng, thăm qua xưởng mộc, thăm quan cánh đồng lúa, qua
đó phát triển vốn từ cho trẻ, tăng khả năng giao tiếp và giúp trẻ mạnh dạn tự tin
hơn trong giao tiếp.
Trong giờ học cô luôn là người đưa ra vấn đề để trẻ được thực hành trải
nghiệm cô động viên, khuyến khích trẻ đưa ra câu hỏi gợi ý giúp trẻ củng cố và
áp dụng những kinh nghiệm đã lĩnh hội trong các hoạt động khác nhau, động
viên trẻ suy nghĩ, thăm dò, tìm cách giải quyết vấn đề của trẻ. Hãy để tự trẻ miêu
tả những gì trẻ biết và có thể làm. Nhằm giúp trẻ tăng trí thông minh, khả năng
ghi nhớ, nhận biết môi trường tự nhiên. Không những thế qua những bài tập trẻ
có cơ hội khám phá, học hỏi những kiến thức căn bản. Từ đó một số tính cách
của trẻ như sự kiên trì, nhẫn nại, ham học học và đặc biệt là ngôn ngữ dần hình
thành phát triển.
Ví dụ: Khi cho trẻ thăm quan vườn rau bắp cải nhà Ông Thoáng, tôi gợi
hỏi trẻ các con nhìn xem đây là gì? Các con có biết là rau gì không? Cô cho trẻ
nêu nhận xét về rau bắp cải như tên gọi, màu sắc lá to, dùng nấu ăn....vậy các
con nhìn xem trong luống rau còn có cây gì đây? Cỏ, vậy các con phải làm gì để
luống rau không còn cỏ? Phải nhổ cỏ ạ, vậy các con giúp ông nhổ cỏ cho rau
nào ...qua đó trẻ biết thêm từ nhổ cỏ và được trải nghiệm lao động giúp phát
triển thêm về thể chất cho trẻ.

Hoặc đến giờ ăn cô hỏi trẻ bây giờ đến giờ ăn rồi chúng mình phải làm gì
nào? Trẻ trả lời Lấy bát, thìa và ngồi vào bàn ăn.... như vậy vừa phát huy được
tính tích cực hoạt động của trẻ vừa giúp trẻ luyện tập nghe, nói trả lời câu hỏi rõ
ràng mạch lạc của trẻ.
9


Tạo môi trường trong lớp học và tận dụng tất cả không gian trong và
ngoài lớp học nhằm tạo điều kiện cho trẻ được học, được trải nghiệm, được
khám phá mọi lúc, mọi nơi giúp phát tiển ngôn ngữ cho trẻ khi cho trẻ tham
quan vườn cổ tích cho trẻ quan sát các câu truyện “Bảy chú lùn”, câu chuyện
“Tấm cám” cô kể cho trẻ nghe…đàm thoại với trẻ về các nhân vật trong truyện.
Cần phải xây dựng tổ chức môi trường giáo dục, tạo nhiều cơ hội cho trẻ
học bằng nhiều cách khác nhau để trẻ chủ động tham gia các hoạt động vui chơi,
khám phá, trải nghiệm theo phương châm “học mà chơi, chơi mà học” phù hợp
với từng độ tuổi khác nhau.
Ví dụ: Khi cho trẻ dạo chơi thăm quan ngoài sân trường nhìn thấy lá vàng
rơi tôi sẽ chỉ cho trẻ xem và hỏi trẻ lá bị làm sao kìa con, trẻ trả lời lá vàng dụng
cô ạ, hoặc khi cho trẻ chơi với cát nước khi thấy trẻ lấy tay ngoặc trên cát tôi hỏi
trẻ “con đang làm gì thế”? để trẻ tự nói con đang vẽ ạ, con vẽ gì vậy? luyện việc
nghe hiểu lời nói của người lớn. Để tập cho trẻ cách trả lời đủ câu rõ ràng mạch
lạc ở trẻ….Bằng giải pháp Lấy trẻ làm trung tâm dựa vào khả năng của trẻ để
phát triển ngôn ngữ cho trẻ, trẻ rất tích cực hoạt động trẻ chủ động tự tin trong
giao tiếp không còn ngại giao tiếp như trước đây nữa khả năng phất âm của trẻ
chuẩn hơn.
* Giải pháp 4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, lồng
ghép tích hợp vào các hoạt động khác.
Ngoài việc phát triển ngôn ngữ ở họạt động học ở lĩnh vực phát triển
ngôn ngữ cho trẻ, tôi còn lồng ghép phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi
nơi.

*Trong giờ đón, trả trẻ: Ở trường tôi vì còn thiếu nhiều giáo viên nên
chỉ nhận trẻ độ tuổi nhà trẻ từ 24-36 tháng tuổi vì vậy mà là lần đầu tin trẻ đến
trường đi học, nên muốn tạo ấn tượng tốt với trẻ, lôi cuốn trẻ đến trường lớp ấn
tượng ban đầu rất quan trọng cho dù là ngày đầu tin của năm học hay ngày giữa
năm học thì thái độ của cô đối với trẻ trong giờ đón trẻ là rất quan trọng cô cần
niềm nở ân cần với trẻ, ôm ấp vỗ về trẻ khi nhận trẻ từ tay cha, mẹ trẻ, tạo không
khí vui vẻ, thân thương gần gủi, trò chuyện nhẹ nhàng với trẻ về tên trẻ, tên bố
mẹ trẻ, hỏi trẻ xem trước khi đi học con ăn gì…, vừa tạo sự gần gủi với trẻ để
giúp trẻ mạnh dạn giao tiếp với cô đó là hình thức đơn giản nhất để cung cấp
vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi
qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp mở rộng vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: cô trò chuyện với trẻ về những người thân trong gia đình trẻ, về
chủ đề đang học, hỏi trẻ những câu hỏi đơn giản như “ ai đưa con đi học?”, “ ai
mua áo đẹp cho con?” khuyến khích trẻ kể về những gì mà trẻ thích, cho trẻ đọc
thơ, hát... dạy trẻ trả lời câu hỏi của cô đầy đủ cấu trúc ngữ pháp như “ con thưa
cô...”, nói mạch lạc, rõ dàng, dạy trẻ biết chào cô chào bạn, ông bà bố mẹ khi
vào lớp hay khi ra về.
Hoặc khi trả trẻ cô hỏi trẻ bây giờ về nhà con làm gì? Hôm nay ai sẽ là
người đi đón con? Hôm nay về con sẽ ăn cơm với gì? Để trẻ trả lời … Như vậy
khi trò chuyện với trẻ, giúp trẻ tự tin trong giao tiếp làm tăng vốn từ cho trẻ, từ
đó được vốn từ của trẻ mở rộng và phát triển hơn.
10


*Hoạt động với đồ vật:
Đối với trẻ nhà trẻ thì đặc điểm phát triển hoạt động với đồ vật là chủ đạo,
việc tích lũy các biểu tượng do hoạt động với đồ vật mang lại có ý nhĩa rất lớn
đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Như chúng ta đã biết tư duy của trẻ là tư duy trực quan hình tượng, vì vậy
trong khi hoạt động với đồ vật trẻ thường gặp những tình huống cụ thể, trong đó

các đồ vật và các hành động với đồ vật chưa thể tách rời nhau. Vì vậy trẻ không
thể hiểu hết được đồ vật hay từ ngữ ấy là như thế mà mà chỉ khi có đồ vật, hay
hành động liên quan đến đồ vật ấy thì trẻ mới hiểu được.
Để giúp trẻ nhanh chóng hiểu được lời nói, thì giáo viên cần phải kết hợp
lời nói với các tình huống cụ thể trong đó các hành động với đồ vật được thực
hiện.
Ví dụ: Chủ đề “Mẹ và những người thân yêu của bé” cô cho trẻ trẻ xâu
những chiếc vòng tặng mẹ bằng những hạt vòng màu xanh, đỏ và hỏi trẻ: “
Huyền Anh ơi con đang làm gì vậy? (Con đang xâu vòng ạ). “Thế con có hạt
vòng màu gì đấy?” ( màu xanh và màu đỏ ạ”.) “Muốn có chiếc vòng tặng mẹ
con phải làm thế nào?”( Xâu hạt rồi buộc lại ạ). Để chiếc vòng được đẹp hơn
con hãy xâu xen kẽ hạt xanh rồi đến hạt đỏ, và con tiếp tục xâu như vậy cho đến
hết nhé. (Cô vừa nói vừa làm mẫu cho trẻ), Sự kết hợp này sẽ giúp trẻ hiểu được
lời nói và từ đó giúp cho vốn từ của trẻ ngày càng tăng lên và cách giao tiếp
ngày càng vững chắc hơn.
*Thông qua hoạt động âm nhạc:
- Để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn
thôi thúc tôi phải nghiên cứu , sáng tạo những phương pháp dạy học tốt nhất có
hiệu quả với trẻ.
- Đối với hoạt động âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật ( Trống, lắc,
phách tre, mõ, xắc xô…… và nhiều chất liệu khác ) trẻ được học những giai
điệu vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để
làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự
giao tiếp bằng ngôn ngữ của trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ
thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc.
- Qua những hoạt động vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ
có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh
đẹp của bài hát.
Ví dụ: Hát và vận động bài “Trời nắng trời mưa”
+ Hai câu đầu: Trời nắng trời nắng

Thỏ đi tắm nắng
( Trẻ 2 tay chống hông nhảy về phía trước)
+ Câu thứ hai: Vươn vai vươn vai
Thỏ dung đôi tai (Trẻ vung hai tay lên cao)
+ Câu thứ ba: Nhảy tới nhảy tới
Đùa trong nắng mới
( Trẻ đưa hai tay lên đầu giả làm tai thỏ và nhảy về phía trước.)
+ Câu thứ tư: Bên nhau bên nhau
11


Bên nhau ta cùng chơi
( Trẻ nắm tay nhau và đi vòng tròn)
+ Câu thứ năm: Mưa to rồi, mưa to rồi
Mau mau ta chạy thôi.
( Trẻ đưa tay lên đầu giả làm cái ô và chạy vào với nhau)
*Thông qua hoạt động chơi tập: Trong một giờ hoạt động chơi tập có
chủ đích trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà thông
qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động chơi. Đây là hoạt động quan trọng
nhất bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích
cực hóa vốn từ cho trẻ, thời gian chơi của trẻ trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời
gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong quá trình chơi trẻ xử dụng nhiều từ
khác nhau.
Ví dụ: Khi cho trẻ chơi trò chơi “xây dựng” cô hỏi trẻ các con đang làm
gì vậy “Các con đang xây nhà ạ” “Các con xây mái nhà bằng màu gì” “màu đỏ
ạ” hoặc ở góc thao tác vai “ Cho em bé ăn” Trẻ được chơi với em búp bê và khi
trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày. Cô bế búp bê trên tay
và nói: “ Búp bê chào các anh các chị, Các anh các chị đang làm gì đấy” . Cô
cùng trẻ trả lời: “ Anh chị đang chơi đồ chơi.
Cô tạo tình huống : “ Em bé đói bụng quá rồi? Bây giờ phải làm sao đây?” Cho

em bé ăn cơm ....
Hoặc trong góc vận động của lớp với bài tập với vòng tôi đã sử dụng
những chiếc vòng màu cho trẻ tập. Tôi còn phân loại màu xanh, đỏ, vàng của
những chiếc vòng để khi trẻ phân biệt màu không bị nhầm lẫn. Khi trẻ chơi với
vòng tôi có thể hỏi trẻ giúp ngôn ngữ của trẻ thêm mạch lạc, rõ ràng hơn:
+ Vòng này có màu gì hả con?
( Màu đỏ ạ)
+ Thế còn vòng này có màu gì đây?
( Màu xanh ạ)
+ Vòng để làm gì con có biết không? ( để học , để chơi trò chơi ạ)
+ Con sẽ chơi gì với vòng ?
( Con lái ô tô ạ)
Qua vui chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe,
hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương gắn bó
của con người.
*Trong hoạt động dạo thăm quan: khi cô cho trẻ dạo chơi tham quan
ngoài sân trường, cho trẻ quan sát cây xanh tôi khuyết khích trẻ nói tên cây, chỉ
cho trẻ lá cây, thân cây và hỏi trẻ đây là gì? Lá cây có màu gì? Cô nhìn thấy con
chim đang bay cô chỉ và hỏi trẻ con gì đang bay kia? Con nhìn xem bầu trời
hôm nay có gì?...Rồi cho trẻ nói lại nhiều lần. Điều đó vừa mở rộng kiến thức
cho trẻ, vừa cung cấp thêm vốn từ cho trẻ. Hoặc cô cho trẻ quan sát ‘Về một số
loại hoa” sau khi cô và trẻ quan sát, đàm thoại về một số loại hoa, cho trẻ kể
thêm về một số loại hoa mà trẻ thích, xong cô cho trẻ chơi trò chơi trời nắng trời
mưa, khi cô nói trời nắng thì trẻ để tay lên đầu và nói đội mũ, cô nói trời mưa trẻ
giơ tay lên và nói che ô, mưa nhỏ thì trẻ gõ hai ngón tay vào nhau và nói tích
tách tí tách, mưa to thì trẻ nói lộp bộp lộp bộp và vỗ tay.
Cô tổ chức cho trẻ chơi nhiều trò chơi khác nhau, sử dụng những loại câu
đơn giản (ví dụ: trò chơi bắt chước tiếng kêu của con vật, trò chơi đoán đặc điểm
12



của con vật…). Khi cho trẻ đi dạo, việc phát triển vốn từ của trẻ cũng được chú
ý, trẻ được quan sát, trò chuyện về sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên xung
quanh trường của mình, trò chuyện về các con vật cây cối trong sân trường, hỏi
trẻ: Con nhìn thấy gì? con nhìn thấy con chim đang làm gì? con chim đang ăn gì
đấy?...Cô luôn sửa sai câu nói của trẻ ở mọi lúc, mọi nơi để giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ mạch lạc khi cho trẻ vui chơi cần tạo không khí vui tươi, thoải mái cô
cần quan tâm đến những trẻ nhút nhát, dành thời gian gần gũi, trò chuyện với trẻ
để trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia các hoạt động tập thể giúp trẻ được giao tiếp
nhiều hơn.
* Giải pháp 5: Tạo môi trường giao tiếp gần gũi hấp dẫn phong phú.
Đối với trẻ nhà trẻ rất thích thú với những đồ dùng đồ chơi hấp dẫn màu
sắc sinh động phong phú, điều đó sẽ gây nên tính tò mò, hứng thú cho trẻ, trẻ sẽ
muốn biết đây là cái gì và trẻ sẽ tự động muốn được giao tiếp với cô để thỏa
mãn tính tò mò của mình, chính vì vậy ngay từ đầu năm tôi đã tìm kiếm nguyên
vật liệu làm tranh ảnh đồ dùng đồ chơi, vừa trang trí lớp tạo môi trường học cho
trẻ gần gũi sinh động, vừa phục vụ tiết dạy. Trong lớp, tôi đã trang trí làm nổi
bật các góc gắn với từng chủ đề thực hiện.
Ví dụ 1: Ở góc nghệ thuật với chủ đề thực vật tôi đã làm những bông hoa
từ các nguyên vật liệu phế thải như giấy bọc quà, hoa, túi bóng tôi đã gấp và cắt
thành những bông hoa, lọ hoa, thành những chùm quả rất đẹp, hay ở chủ đề
động vật tôi đã sử dụng giấy dạ để cắt thành hình các con vật như con lợn, con
chó, con mèo, con gà, con vịt, con voi, con sóc.... xong tôi may 2 mảnh lại với
nhau rồi nhồi bông vào giữa và may đế cho con vật ấy đứng, trẻ rất thích thú với
những con vật đấy và thường xuyên hỏi “ đây là con gì” “ con này màu
gì”....hay tôi tận dụng những quả bóng bị hỏng cắt đôi rồi dán giấy dạ cắt mắt
mỏ cánh rồi dán lại thành hình con gà, con vịt cho trẻ làm mũ múa.
Ngoài ra ở các đồ dùng cá nhân như ca, cốc, khăn mặt …tôi thường dùng
các hình ảnh có thể cắt từ báo hoặc có thể dùng bút vẽ, thêu, các con vật, loài
hoa …gắn lên các đồ dùng đó để mỗi khi trẻ lau tay hay uống nước trẻ có thể

nhìn vào hình ảnh và nói được khăn của mình có hình gì.
Không những tạo môi trường phát triển ngôn ngữ trong lớp tôi còn tạo
môi trường cho trẻ ở ngoài hiên chơi dùng các can nước rửa bát, các chậu hỏng
đổ đất vào trồng cây xanh, trồng hoa vừa tạo môi trường xanh, sạch đẹp vừa cho
trẻ được thực hành trãi nghiệm chăm sóc cây, hoa cũng là để luyện phát âm cho
trẻ như khi cho trẻ quan sát bông hoa cô hỏi trẻ bông hoa đồng tiền màu gì
con?...ở sân trường, vườn cổ tích như cô cho trẻ hoạt động dạo chơi tham quan ở
vườn cổ tích, cô giới thiệu với trẻ về các nhân vật trong vườn cổ tích cho trẻ như
cô tấm, cô cám và cho trẻ bắt trước cô tấm gọi bống lên ăn cơm... hay hỏi trẻ về
các con vật trong vườn cổ tích.
Ngoài ra tôi còn đa dạng các hình thức hoạt động cho trẻ để cho trẻ được
ra ngoài trời tắm nắng hít không khí trong lành, khuyến khích trẻ trải nghiệm
nhiều hoạt động khách nhau để trẻ phát triển toàn diện về cả thể chất, trí tuệ, tư
duy, ngôn ngữ như cho trẻ chơi các trò chơi dân gian “ nu na nu nống” “dung
dăng dung dẻ”....
13


* Giải pháp 6: Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy trẻ.
Để tăng cường tài liệu hấp dẫn phong phú phục vụ trẻ trong dạy học và
vui chơi, tôi thường xuyên sưu tầm hình ảnh trên mạng để dạy trẻ, cung cấp
thêm kiến thức về thế giới xung quanh một cách xác thực cho trẻ.
Ví dụ 1: “Nhận biết tập nói con gà, con vịt” tôi gây hứng thú cho trẻ bằng
cách cho trẻ xem hình ảnh, video động về con gà, con vịt. Cô cho trẻ xem video
con gà đang gáy và hỏi “Cô có con gì đây”?,( con gà trống ạ), “Gà trống thì gáy
như thế nào”?(Ò ó o ạ) cho trẻ bắt trước tiếng kêu của con gà trống. Cho trẻ xem
video gà mái và gà con đang mổ thóc và hỏi trẻ “ Thế con này là con gì”( con
gà mái, và gà con ạ), “ thế gà mái và gà con đag làm gì”( Cục ta cục tác ạ) cho
trẻ bắt trước tiếng kêu của con gà mái. Cô bật cho trẻ nghe tiếng kêu của con vịt
và hỏi trẻ " Đây là tiếng kêu của con gì"?( con vịt ạ), cô mở video con vịt đang

bơi dưới nước và hỏi trẻ " con vịt đang làm gì đây"?( đang bơi dưới nước ạ), "
Thế bây giờ các con hãy bắt trước tiếng kêu của con vịt cùng cô nào".... khi cho
trẻ quan sát hình ảnh cô lập hệ thống câu hỏi phù hợp với nhận thức của trẻ và
đàm thoại với trẻ, cho trẻ nói lại nhiều lần. Kết quả trẻ rất hứng thú nói to rõ
ràng khi tham gia hoạt động cùng cô.
Ví dụ 2 :Trong giờ chơi tập chiều cô kể cho trẻ nghe các câu truyện bằng
hình ảnh động trên powerpoint. Kết quả trẻ rất hứng thú nghe cô truyện.hoặc để
lôi cuốn trẻ vào giờ nhận biết tập nói tôi lập trình các ô cửa bí mật cho trẻ đoán
xem bên trong ô cửa có gì, để gây sự tò mò chú ý cho trẻ xong cô mở ô cửa cho
trẻ khám phá điều bất ngờ bên trong ô cửa bằng ứng dụng công nghệ thông tin
vào hoạt động dạy như vậy trẻ rất chú ý học và kết quả trên trẻ rất cao.
* Giải pháp 7: Làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh và cộng
đồng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Phối kết hợp với phụ huynh trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Công tác phối kết hợp với phụ huynh và cộng đồng trong việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ là một việc làm rất quan trọng bởi vì trẻ ở trường được các cô
giáo uốn nắn từng lời, từng tiếng nói nhưng khi trẻ về gia đình phụ huynh không
quan tâm hướng dẫn, uốn nắn luyện tập để phát triển ngôn ngữ cho trẻ, mà chỉ
cho trẻ dùng điện thoại thông minh vì vậy ngày càng có nhiều trẻ em bị tự kỷ
ngại giao tiếp dẫn đến chậm phát triển ngôn ngữ, chậm phát triển về trí tuệ…. Vì
vậy để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất ở gia đình tôi đã
tuyên truyền với phụ huy tầm quan trọng của ngôn ngữ với trẻ, hướng dẫn phụ
huynh về cách phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở gia đình, như phụ huynh phải luôn
giao tiếp trò chuyện với trẻ, lắng nghe và khuyến khích trẻ nói nhiều, không để
trẻ ngồi một mình xem nhiều phim ảnh, xem điện thoại thông minh, nên mua
nhiều tranh ảnh đẹp, nhất là các cuốn truyện tranh để trẻ được xem, khuyến
khích trẻ kể chuyện theo tranh, tận dụng thời gia dảnh rỗi cho con tham gia vào
14



các hoạt độn cộng đồng như cho trẻ dạo chơi tham quan, thăm cô gì, chú bác…
để trẻ được giao tiếp nhiều giúp trẻ phát triển vốn từ .
- Đối với những cháu mới đi học vốn từ của trẻ còn hạn hẹp, hơn nữa trẻ
rất hay nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với cô
giáo trong việc trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng
những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa âm,
sửa ngọng.
- Trao đổi với phụ huynh cố gắng dành thời gian để trò chuyện, tâm sự với
trẻ và lắng nghe trẻ nói nhất là thời gian trước khi trẻ ngủ có thể trò chuyện với
trẻ hay kể truyện cho trẻ nghe... Khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng, mạnh
lạc, tránh nói tiếng địa phương tốc độ vừa nghe để trẻ nghe cho dễ.
- Cha mẹ, người thân phát âm đúng, chuẩn, không nên bắt trước những từ
trẻ nói ngọng mà cần phải sửa sai ngay những từ trẻ nói sai cho trẻ để trẻ bắt
chước được cho đúng.
- Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển thơ,
truyện có chữ, hình ảnh to, rõ nét, nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để cho
trẻ làm quen và để xây dựng góc thư viện sách truyện của lớp.
* Phối kết hợp với cộng đồng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Đối với trẻ nhà trẻ thì vốn kinh nghiệm sống, vốn kiến thức về thế giới
xung quanh còn rất hạn hẹp chính vì vậy để mở rộng vốn vốn từ cho trẻ, cô cần
phối kết với cộng đồng tổ chức cho trẻ đi dạo chơi tham quan, vườn rau, xưởng
mộc ngay cổng trường... qua đó trẻ nắm bắt được đặc điểm, cấu trúc, màu sắc
cuả đối tượng miêu tả, nắm được thao tác kỹ năng, tạo ra sản phẩm, làm giàu và
chính xác hóa các biểu tượng về thế giới xung quanh cho trẻ. Trẻ có cơ hội học
được trải nghiệm thực tế, tiếp cận trực tiếp với môi trường bên ngoài để tăng
vốn kinh nghiệm sống gắn với bối cảnh thực tế ở điạ phương một cách thiết thực
gần gũi, hấp dẫn và hiệu quả từ đó phát huy sự mạnh dạn tự tin trong giao tiếp
với người lạ, thích đi học, thích được khám phá trải nghiệm,....
Ví dụ : Cho trẻ tham quan vườn rau: tôi cho trẻ tham quan vườn rau nhà
ông thoáng, sau khi cho trẻ ổn định tổ chức chuẩn bị đồ dùng cá nhân như đội

mũ nón, đi dép thì tôi cho trẻ đi đến vườn rau, đến vườn rau nhắc trẻ chào hỏi
bác chủ vườn, giới thiệu dẫn dắt gợi ý cho cộng đồng và trẻ giao tiếp với nhau
như bác ơi, bác giới thiệu cho các cháu biết những loại rau có trong vườn với ạ?
cho trẻ nói lại tên các loại rau cùng với bác chủ vườn. Làm thế nào để trồng
được rau, và chăm sóc rau như thế nào?... các loại rau được sử dụng như thế
nào, và lợi ích của các loại rau?... cuối cùng cho trẻ cùng bác chủ vườn chăm sóc
cây rau như tưới nước nhổ cỏ cho cây rau..
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nhiệm đối với các hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
15


Qua một năm thực hiện đã đạt được những kết quả sau :
* Đối với giáo viên:
- Trình độ chuyên môn được nâng lên rõ rệt, lớp và bản thân giáo viên đã
đạt được những thành công nhất định.
- Qua các tiết dự giờ, dạy mẫu được đánh giá xếp loại giỏi.
- Tôi đã thiết kế được 16 giáo án điện tử về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ
cho trẻ 24-36 tháng đưa vào giảng dạy được ban giám hiệu và đồng nghiêp đánh
giá cao.
- Tạo môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong và ngoài lớp và phát
huy có hiệu quả môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Đối với nhà trường:
Sau khi áp dụng thành công các giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ tôi
đã mạnh dạn đưa ra cho các đồng nghiệp ứng dụng kết quả đạt được rất tốt, trẻ
24-36 tháng tuổi ở trường tôi ngoan ngoãn, lễ phép, mạnh dạn trong giao tiếp,
khả năng nghe hiểu lời nói rất tốt vì vậy khi được hỏi hoặc trẻ trò chuyện với
bạn, với người lớn trả lời câu hỏi rõ ràng mạch lạc, trẻ không còn nói ngọng
nhiều, nên đã tạo dựng được lòng tin đối với phụ huynh với các ban ngành đoàn
thể các tổ chức xã hội.

* Đối với trẻ :
Sau khi áp dụng các giải pháp trên tôi thấy vốn từ của trẻ tăng lên rất
nhiều, trẻ nghe hiểu lời nói của cô của người lớn, nghe và phân biệt được một số
giọng nói, giọng điệu khác nhau nghe hiểu và nói được một số cụm từ và câu
đơn giản chỉ sự vật, sự việc quen thuộc, trẻ phát âm rõ ràng hơn, không còn tình
trạng nói ngọng, nói lắp như trước, trẻ đã có thể mạnh dạn tự tin trả lời được câu
hỏi của cô, một số cháu đã có thể đọc được một đoạn thơ ngắn, bài hát ngắn, trẻ
biết biểu đạt được các nhu cầu, tình cảm mong muốn của trẻ như “con muốn
uống nước” ‘con muốn đi ngủ”...
- Trẻ biết kể lại chuyện, kể về sự việc, kể theo tranh theo gợi ý của cô
- Biết sử dụng một số từ thể hiện sự lễ phép khi nói chuyện với người lớn
như “con chào cô Vân ạ” “ con thưa cô”…
- Trẻ mạnh dạn tự tin hơn trong khi giao tiếp.
- Trẻ trong khi giao tiếp biết nói đủ câu hoàn chỉnh, đầy đủ cấu trúc ngữ
pháp.
- Trẻ hạn chế tối đa không còn sử dụng tiếng địa phương nhiều.
Kết quả khảo sát đầu năm so với cuối năm
Tổng số trẻ khảo sát: 21 trẻ
16


T
T

Khảo sát đầu năm
Tỷ lệ Chưa
Nội dung Trẻ
Đạt
%
đạt


Khảo sát cuối năm
Tỷ lệ% Trẻ
Tỷ lệ Chưa
đạt
%
đạt

Tỷ lệ
%

1

Khả
năng 10
47,6 11
52,4 21
100 0
0
giao tiếp.
2 Vốn từ của 12
57,1 9
42,9 21
100 0
0
trẻ
3 Khả
năng 11
52,4 10
47,6 21

100 0
0
phát âm
Nhìn vào kết quả khảo sát trước khi chưa áp dụng các giải pháp và kết
quả khảo sát sau khi đã áp dụng các giải pháp vào thực hiện tăng lên rõ dệt.
- Khả năng giao tiếp của trẻ qua khảo sát lần 2 tăng 52,4% so với lần 1.
- Vốn từ của trẻ khảo sát lần 2 tăng 42,9 % so với lần 1
- Khả năng phát âm khảo sát lần 2 tăng 47,6 % so với lần một
Qua khảo sát lần 2 ta thấy không còn trẻ chưa đạt, số cháu đạt là 100%
* Đối với phụ huynh,cộng đồng:
- Phụ huynh và cộng đồng hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ, đã phối kết hợp với giáo viên trong việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ, biết cách rèn phát triển cho trẻ ở tại gia đình và trong các sinh hoạt tại
cộng đồng .
- Tin tưởng cô giáo đã sưu tầm tranh ảnh, truyện tranh tặng cho trẻ ởlớp.
- Tích cực trao đổi với giáo viên những tiến bộ của trẻ về phát triển ngôn
ngữ, và trí tuệ. Có những đóng góp thiết thực giúp giáo viên hiểu thêm về đặc
điểm tính cách của trẻ từ đó có những giải pháp phù hợp trong việc giao tiếp và
giảng dạy trẻ.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
“Phát triển ngôn ngữ “ cho trẻ ở trường Mầm non là vấn đề rất quan trọng
và cần thiết, mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau.“Phát triển ngôn ngữ “giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống giao
tiếp hàng ngày và hoạt động nhận thức của con người nói chung, sự phát triển
tâm lý nhận thức của trẻ nói riêng, đặc biệt là trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng khả năng
ngôn ngữ phát triển rất nhanh.
Tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá
trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ khắc phục khó
khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện của

các con, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo, điều này đã góp
phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước.
* Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên vào hướng
dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ tôi đã rút ra được bài học sau:

17


- Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành
và phát triển nhân cách cho trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ
chuyên môn, rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn.
- Giáo viên cần có lòng nhiệt tình, kiên trì, tỉ mỉ, yêu thương, gần gũi trẻ,
quan tâm đến trẻ.
- Làm giàu vốn từ của trẻ qua việc hướng dẫn trẻ quan sát, dạo chơi tham
quan, chơi tập, kể truyện và đọc truyện cho trẻ nghe, giúp trẻ củng cố và tư duy
hoá các biểu tượng bằng ngôn từ.
- Tích cực làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo, màu sắc nổi bật, đa dạng phong
phú hấp dẫn với trẻ và phù hợp với nội dung của bài dạy.
- Luôn tạo không khí vui tươi , thoải mái cho trẻ, tạo điều kiện quan tâm
đến những trẻ nhút nhát, dành thời gian gần gũi trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh
dạn, tự tin tham gia vào các hoạt động tập thể giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn.
- Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa cô giáo và phụ huynh,cộng đồng để
nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ từ đó có kế hoạch phát triển ngôn ngữ
cho trẻ.
- Thường xuyên tổ chức trò chơi sử dụng ngôn ngữ cho trẻ tham gia chơi.
- Giáo viên cần chủ động tìm mọi biện pháp tranh thủ mọi cơ hội, tận
dụng ở mọi lúc mọi nơi, lồng ghép mọi hoạt động để tạo cơ hội cho trẻ được nói,
thể hiện mong muốn của mình nhiều hơn và đạt được hiệu quả tốt nhất.
- Giáo viên phải nắm vững phương pháp, tự bồi dưỡng chuyên môn, khả
năng cho bản thân, luôn thay đổi hình thức, tạo tình huống bất ngờ để thu hút sự

chú ý của trẻ vào các giờ học.
- Luôn chú ý đến hěnh thức tổ các hoạt động thật gần gũi, sinh động để
thu hút trẻ tham gia vào hoạt động gây sự tò mò thích khám phá của trẻ, luôn
luôn lấy trẻ làm trung tâm khi tổ chức các hoạt động.
2. Kiến nghị.
*Đối với nhà trường nhà trường:
Để các cháu nhà trẻ có những điều kiện thuận lợi nhất cho các cháu phát
triển ngôn ngữ cũng như vui chơi tôi xin có những kiến nghị đến nhà trường như
sau:
- Tham mưu, đầu tư cơ sở vật chất phục vụ chuyên đề.
- Thường xuyên tạo điều kiện cho giáo viên tham gia vào các hoạt động,
học tập ở các đơn vị bạn để trao đổi kinh nghiệm.
- Tổ chuyên môn kết hợp với nhà trường thường xuyên xây dựng thiết kế
các tiết dạy mẫu để chúng tôi được nâng cao tay nghề.
* Đối với phòng giáo dục
- Thường xuyên mở các lớp tập huấn về ứng dụng công nghệ thông tin
trong giảng dạy cho giáo viên, vì đây chính là cầu nối cho giáo viên cập nhập
thông tin, tìm tòi, tìm hiểu, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm với nhau để tìm ra
những biện pháp mới giúp giáo viên đổi mới sáng tạo trong việc giáo dục trẻ,
trong đó có lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Cần đầu tư quan tâm hơn nữa đến ngành học mầm non để hỗ trợ nguồn
kinh phí cho nhà trường để đầu tư cơ sở vật chất, mua thêm trang thiết bị phục
18


vụ học tập( nhất là trường ở địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn, trường
đạt chuẩn quốc gia cấp độ I đã lâu mà chưa có điều kiện nâng cấp sửa chữa nâng
cấp đạt chuẩn mơi.)
Trên đây là “ Một số giải pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36
tháng ở trường mầm non Thiệu Long, huyện Thiệu Hóa, Tỉnh Thanh Hóa”

tôi đã áp dụng có hiệu quả tại lớp mình phụ trách trong năm học. Tôi rất mong
được hội đồng khoa học trường mầm non Thiệu Long cũng như hội đồng khoa
học của cấp trên xét duyệt bổ xung góp ý để đề tài nghiên cứu của mình ngày
càng hoàn thiện hơn .
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 12 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến

Ngô Thị Yến

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Cuốn chương trình giáo dục mầm non. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
Xuất bản ngày 30 tháng 12 năm 2016.
[2]. Sáng kiến kinh nghiệm “ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 2436 tháng tuổi trường mầm non Thanh Thùy” ở trường mầm non Thanh Thùy.
Tác giả Kiều Thị Thu Phương.
[3]. Module MN 3 Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ. Tài liệu BDTX giáo
viên mầm non của tác giả Nguyễn Thị Minh Hảo.

20



21



×